Tuesday, August 23, 2016

DƯƠNG VÂN NGA

DƯƠNG VÂN NGA
từ chánh sử đến truyền thuyết:
Bà Dương Vân Nga ( 952-1000 ) là Hoàng hậu của 2 vị Hoàng đế và là mẫu hậu của 3 vua ( Trong lịch sử nước ta, chưa người phụ nữ nào được vinh hạnh như vậy! ). Thân phụ là Dương Thế Hiển, quê Nga My, xã Gia Thủy , huyện Nho Quan, Ninh Bình. Mẹ ở thôn Vân Lung, xã Gia Vân, Gia Viễn, Ninh Bình. Vì vậy, cái tên Vân Nga là kết hợp 2 địa danh quê hương của Cha mẹ.


Khi mới chào đời, Vân Nga cũng khác thường. Cô bé khóc ‘’dạ đề’’trong 3 tháng liền, cho tới môt đêm có vị thiền sư đi qua làng, nghe tiếng khóc. Ông vào nhà, chỉ xoa nhẹ vào lưng Vân Nga, khẽ ru:

‘’Nín đi thôi, nín đi thôi.
‘’Môt thân gánh vác cả đôi sơn hà.
Cô bé bỗng nín bặt
Năm Mậu Thìn (968 ), Đinh Bô Lĩnh đã dẹp yên loạn 12 sứ quân, thống nhất đất nước, lên ngôi Vua, hiệu là Đại Thắng Minh Hoàng Đế. Môt hôm ngài cưỡi ngựa, rong ruổi về thăm Thung Lau, nơi căn cứ cũ. Đến vùng Nga My, non xanh, nước biếc hữu tình; chợt nghe tiếng hát giọng trong trẻo của môt cô gái:

‘’Anh đi tán tía tàn vàng.
‘’Để em cắt cỏ bên đàng sao đang?
‘’Tay cầm bán nguyệt xênh xang,
‘’Trăm nghìn ngọn cỏ lai hàng tay ta!
Nhà vua xuống ngựa, cho người đến gọi cô gái, nhưng không thấy đâu nữa. Ông chợt nghĩ tới người bạn bố mình xưa kia là Tướng quân Dương Thế Hiển ở gần đây, bèn ghé vào thăm.Thế Hiển sai con gái là Vân Nga bưng nước mời khách. Nàng có tiếng nói hệt giọng hát lúc nãy. Nhà vua xin được đón về kinh đô, lúc đó Vân Nga tròn 16 tuổi.


Vân Nga là người thông minh, có học nên giúp vua Đinh rất nhiều trong việc dựng nước. Mấy năm sau, bà được nhà vua phong chức Đại Thắng Minh Hoàng Hậu. Có 2 người được nhà vua tín cẩn nhất để điều hành quốc gia bấy giờ là Hoàng hậu và Lê Hoàn
Lê Hoàn. sinh năm 941 ở Xuân Lập, Thọ Xuân, Thanh Hóa. Cha mẹ qua đời khi còn nhỏ. Vì vậy Hoàn phải làm con nuôi cho môt vị quan nhỏ, người cùng họ. Lớn lên Lê Hoàn đi theo Nam Việt vương Đinh Liễn là con trưởng vua Đinh. Trong cuôc đánh dẹp các sứ quân, Lê Hoàn tỏ rõ là người có tài, nên được Đinh Bô Lĩnh cho chỉ huy 2000 binh sĩ. Đến khi thống nhất đất nước Lê Hoàn được phong chức Thập Đạo Tướng Quân, Điện Tiền Đô Chỉ Huy Sứ là chức Tổng Chỉ Huy Quân Đôi kiêm Chỉ Huy đôi cấm vệ bây giờ.
Năm Giáp Tuất ( 974 ), bà sinh hoàng tử Đinh Toàn. Đầu năm 979, Toàn được vua phong là Vệ Vương. Đêm Rằm Trung thu năm ấy, sau môt tiệc rượu say sưa Đại Thắng Minh Hoàng Đế và Nam Việt Vương Đinh Liễn bị tên hầu cận tên là Đỗ Thích giết hại. Lý do mà Đỗ Thích giết vua, vẫn còn nhiều nghi vấn. Chỉ thấy trong lịch sư ghi lại là đêm hôm trước Thích nằm mơ là có môt ngôi sao rơi vào mồm. Hắn nghĩ là cơ hi đã đến , nên ra tay. Ba ngày sau Đỗ Thích bị bắt và bị chém ngay. Sau đó triều thần hôi bàn rồi tôn Vệ vương Đinh Toàn ( chưa đầy 6 tuổi ) lên ngôi Hoàng đế, tôn Dương Vân Nga làm Hoàng Thái hậu, thay vua để coi việc nước. Thái hậu chọn Lê Hoàn làm Nhiếp chính. Các công thần nhà Đinh là Đinh Quốc công Nguyễn Bặc, Ngoại giáp Đinh Điền, Tướng quân Phạm Hạp...ganh tài và sợ Lê Hòan cướp ngôi nên cùng nhau hôi binh, chia 2 đường thủy bô từ Ái châu ( Thanh Hóa ) kéo về Hoa Lư hỏi tôi. Thái hậu thấy vậy, lo ngại bảo Lê Hoàn:
- Bọn Bặc dấy quân khởi loạn, làm kinh đông nuớc nhà, vua còn nhỏ yếu, không đương nổi hoạn nạn, bọn ông mưu tính thế nào, chớ để sinh tai hoạ về sau.

Lê Hoàn đem quân đi đánh, chỉ môt trận là dẹp tan quân của Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Phạm Hạp.
Phò mã Ngô Nhật Khánh ( cháu Ngô Quyền, là môt trong 12 sứ quân, mẹ Khánh là môt trong những vợ của vua Đinh, em Khánh lấy Đinh Liễn ) nhân cơ hôi trong nước rối loạn, sang cầu cứu Chiêm Thành rồi dẫn hơn 1000 chiến thuyền tiến đánh nước ta . Lê Hoàn chưa kịp ra quân thì được tin thuyền của quân Chiêm bị bão, đắm gần hết, Ngô Nhật Khánh chết đuối, nên phải rút lui.


Lê Hoàn vừa dẹp xong bọn Nguyễn Bặc thì tháng 6 năm 980, nhà Tống kiếm cớ gây sự. Hầu Nhân Bảo dâng thư tâu với vua Tống Thái Tông rằng: An Nam Quận Vương cùng với con là Liễn đều bị giết, nước ấy sắp mất, có thể nhân lúc này đem môt cánh quân sang đánh lấy. Nếu bỏ lúc này không mưu tính, sợ lỡ mất cơ hôi’’
Tháng 3 năm Tân Tỵ (981) Quân Tống khởi binh đánh Đại Cồ Việt ( quốc hiệu nước ta bấy giờ ). Thái Hậu Dương Vân Nga sai quan Thập đạo tướng quân chọn tướng sĩ cự địch và cử Phạm Cự Lượng làm Đại Tướng tiên phong. Trước khi xuất quân, Lượng họp tất cả quân sĩ lại ở trong điện, rồi nói rằng: ‘’Bây giờ quân nghịch sắp vào cõi mà vua thì còn bé, lấy ai mà thưởng phạt cho chúng mình. Dẫu chúng mình có hết sức lập được chút công nào, thì rồi ai biết cho? Chi bằng nay ta tôn Thập đạo tướng quân lên làm vua rồi ra đánh thì hơn’’.
Quân sĩ nghe nói đều hô vạn tuế. Thái hậu thấy quân sĩ thuận cả, mới lấy áo long cổn mặc vào cho Lê Hoàn
Lê Hoàn lên làm vua tức là Đại Hành Hoàng đế, giáng Đinh Toàn xuống làm Vệ vương, sử gọi là Phế đế rồi thống lĩnh đại binh thủy bô tiến đánh quân Tống. Dương Vân Nga ở lại kinh thành Hoa Lư buông mành chấp chính, lo toan công việc hậu phương, cùng bách quan huy đông lương thực cho đại quân.
Quân Tống do Hầu Nhân Bảo và Tôn Toàn Hưng theo đường bô đánh mặt Lạng Sơn. Lưu Trừng đem thủy quân tới Bạch đằng giang, khí thế mạnh lắm, quân Lê đánh không lại phải luì. Đồng thời bô binh của Hầu Nhân Bảo tiến rất nhanh, đã qua khỏi Lạng Sơn, nhưng đến Chi Lăng thì Bảo rơi vào phục binh, bị bắt rồi bị giết. Quân Lê thừa thắng đuổi theo, chém. giết quá nửa và bắt được 2 người b tướng
Bọn Lưu Trừng thấy lục quân tan vỡ vôi vàng đem thủy quân rút về.
Quân ta tuy thắng trận, nhưng vua Đại Hành sợ thế lực không chống với Tàu được lâu, bèn sai sứ đem 2 viên tướng bắt được sang trả nhà Tống và xin theo lệ triều cống. Lúc đó ở phía bắc nước Tàu có quân Khiết Đan ( Hung Nô ) đang đánh phá, cho nên vua Tống cũng thuận, thôi việc chiến tranh với nước ta, sắc phong cho Đại Hành làm Tiết Đô sứ rồi mấy năm sau lại phong Nam bình vương.
Bấy giờ sứ Tống thường hay đi lại, có khi vua Đại Hành phụng chiếu mà không lạy, nói dối rằng đi đánh giặc ngã ngựa đau chân. Nhà Tống biết là dối , nhưng cũng làm ngơ đi.
Sau khi vua Lê Đại Hành phá được quân Tống rồi, không còn lo mặt trận phương Bắc nữa nên quyết định chinh phạt Chiêm Thành, lấy cớ là lúc vua Đại Hành lên ngôi có sai sứ sang Chiêm bị vua nước ấy bắt giam, nên bây giờ nhà vua thân chinh mang quân sang đánh báo thù. Kinh thành nước Chiêm bị chiếm, quân Việt bắt được nhiều tù binh và lấy được của cải rất nhiều mang về nước.


Năm Nhâm Ngọ (982 )Lê Đại Hành phong cho Dương Vân Nga là Đại Thắng Minh Hoàng hậu ( vẫn cái tên cũ từ thời bà làm hoàng hậu của vua Đinh ). Việc Dương Vân Nga là Hoàng hậu của vua Đinh, nay là vợ vua Lê, lại được cùng môt‘’tước phong’’nên bị dư luận chê bai. Họ bảo là ‘’trai khôn môt chúa, gái ngoan môt chồng’’. Nhân dân khi làm đền thờ, tô pho tượng Dương Vân Nga mặt đỏ là cố ý để thể hiện sự ngượng ngùng của người đàn bà thờ 2 chồng. Đến thời Lê mạt, An phủ sứ Lê Thúc Hiển ra lệnh cấm thờ chung 3 pho tượng: vua Đinh, vua Lê và Thái hậu. Truyền thuyết Hoa Lư kể lại rằng: Lê Thúc Hiển, làm nhục Thái hậu, sai buc lụa trắng vào cổ tay bức tượng; Rồi dong tượng bà từ đền Đinh Bộ Lĩnh về đền thờ Lê Đại Hành. Khi trở về kinh, viên quan họ Lê đứt ruột, lăn đùng ra chết.
Nhưng những người bênh vực bà thì bảo rằng, trong khi đất nước đang lâm nguy, nếu chỉ vì quyền lợi của dòng họ và ngôi vị của con mình thì có thể giữ được nước không? Sự lựa chọn và quyết định của Dương Vân Nga trong hoàn cảnh ấy, đã biểu hiện thái đô chính trị sáng suốt của môt người có khối óc lớn, thức thời, xứng đáng được coi là anh hùng. Nếu bà không biết đặt lợi nước lên trên quyền lợi của dòng họ, bà có thể dựa vào môt quyền thần để chống lại môt quyền thần khác, ngoan cố bảo vệ ngai vàng cho đứa con nhỏ của mình, sẽ gây ra nạn tranh giành, đẩy đất nước vào thảm cảnh rối lọan và kết cục là bị mất nước vào tay giặc ngoại xâm nhà Tống. Bà cũng không phải là hạng người ham giầu sang dục lạc. Những năm cuối cuôc đời, khi đã ‘’ Bình Chiêm , Phạt Tống’’ xong, bà xin Đại Hành xuất gia. Bà tu ở chùa Am Tiên.
Môt bài thơ truyền khẩu khắc trên tường chùa đã tóm tắt cuôc đời Hòang Hậu Dương Vân Nga:


Hai vai gồng gánh hai vua,
Hai triều hoàng hậu, tu chùa Am Tiên.
Theo chồng đánh Tống , bình Chiêm
Có công với nước, vô duyên với đời.
Bà mất năm 1000, hưởng dương 48 tuổi.
Nguyễn Mộng Khôi
(Sưu tầm trên mạng)

No comments: