Sunday, July 9, 2017

ĐỌC THƠ TUYỆT CÚ


Có một số người thích viết và thích đọc thơ ―tuyệt cú‖ (絕 句), vì thơ tuyệt cú có những nét độc đáo. Nay chúng tôi giới thiệu một trong những bài tuyệt cú mà nhiều bậc tiền bối của chúng ta đã ưa thích là bài "Nam Hành Biệt Đệ" (南 行 別 弟) của Vi Thừa Khánh (韋承慶) nhưng có một số sách Trung Hoa cho rằng bài này có tên là "Ký Nhân" (寄人) mà tác giả là Thôi Đạo Dung (崔道融) như sau:

Ký Nhân

Đạm đạm Trường giang thủy,
Du du viễn khách tình.
Lạc hoa tương dữ hận,
Đáo địa nhất vô thanh.

(Thôi Đạo Dung)

寄人

淡 淡 長 江 水,
悠 悠 遠 客 情.
落 花 相 與 恨,
到 地 一 無 聲.

(崔 道 融)


Cụ Bùi Khánh Đản dịch bài Nam Hành Biệt Đệ của Vi Thừa Khánh như sau:

Nam Hành Biệt Đệ

Trường giang trôi lặng lẽ
Tình viễn khách ngùi ngùi 
Hoa cũng chung lòng hận
Âm thầm cánh nhẹ rơi.

Và Cụ dịch bài 2:

Lững lờ dòng nước Trường giang
Ngậm ngùi tình khách mênh mangmột trời 
Hoa kia cũng hận theo người 
Đầy trên mặt đất cánh rơi âm thầm.

Còn nhà thơ Tuấn Việt đã phỏng dịch bài Ký Nhân của Thôi Đạo Dung như sau:

Mênh mông giòng Trường giang,
Viễn khách lòng mang mang.
Hận tình theo hoa rụng,
Chạm đất không tiếng vang.

Và bài dịch 2 của nhà thơ Tuấn Việt:

Nhìn sông nước bao la
Mang mang tình viễn khách
Hận lòng rụng theo hoa
Không tiếng vang chạm đất.


Người xưa thường bảo thơ "Tuyệt Cú"  phải lấy "thần vị" làm chủ - vị là màu, là mùi hương. Còn Dương Ngư Vương lại gọi là "thần vận" – vận là tiếng đồng thanh với nhau. Thơ tuyệt cú bị hạn hẹp trong bốn câu nên thi nhân phải khéo léo mới tìm ra được câu ngắn mà chứa đựng ý thâm sâu. Phê bình gia Tẩy Đắc Lâm gọi là "cú đoản ý thâm".Thơ "thất tuyệt" đã khó mà làm thơ "ngũ tuyệt" lại khó hơn nữa –xin đừng lầm với "ngũ ngôn" (五言) vì ngũ ngôn có thể dài hơn 4 câu!

Trong bài "Ký Nhân" (寄人) này tác giả Thôi Đạo Dung đã lấy 2 chữ "giang thủy" (江 水) làm cảm hứng. Sở dĩ thi sĩ họ Thôi dùng "đam đạm" (淡 淡) là để tả thể nước đầy mà không chảy xiết nên nhà phê bình Tẩy Đắc Lâm đọc xong bài "Ký Nhân" đã viết: "Trường giang chi thủy, nhất vọng vô tế" (Nước trường giang nhìn không thấy bến bờ đâu cả!). Thi sĩ họ Thôi đã dùng 3 chữ "viễn khách tình" (遠 客 情) để tả tâm trạng lữ khách nhìn nước mà chợt nhớ đến thân phận lưu lạc của mình. Thường đối cảnh hay sanh tình nên thi nhân đã hạ bút "trường giang thủy" (長 江水) trước, rồi mới tiếp 3 chữ "viễn khách tình" (遠 客 情) sau.Tác giả dùng điệp ngữ "du du" (悠 悠) để tả lòng mình như nước mênh mang vậy! Vì thể thơ "tuyệt cú" câu đầu gọi là "khởi", câu thứ 2 là "thừa" mà làm sao "ý" (意) phải hỗ trợ cho nhau, không thể đơn điệu được vì phải nói lên nội dung minh bạch. Còn câu thứ 3 phải chuyển tả cảnh huống tâm tình như trong bài "Ký Nhân" này. "Lạc hoa tương dữ hận lạc" (落 花 相 與 恨 - Hoa rơi hận cũng rơi theo). Trong thi văn Trung Hoa thường dùng chương pháp "Phiên tiến nhất tằng" – nghĩa là Tiệm tiến như lật từng trang giấy – Phương pháp "Thiền liên nhi hạ" – như ve kêu trầm bổng, tiếng này liên tiếp tiếng kia – Bài "tuyệt cú" trên thi sĩ Thôi Đạo Dung đã dùng chương pháp "Thiền liên nhi hạ" vì ta thấy từ chữ "thủy" (水) dẫn xuống chữ "tình" (情) rồi tình đưa dần đếnchữ "hận" (恨) và cuối cùng thi sĩ đã kết bài thơ bằng 2 chữ "vô thanh" (無 聲) nên khi đọc xong bài thơ ta có cảm giác man mác buồn! Tác giả dùng "lạc hoa" (落花) để đưa đến "hận" (恨) qua trung gian 2 chữ "tương dữ" (相與) để chỉ tình cảnh của hoa lạc này lại cũng là tình cảnh của thi nhân, hận vì không có người thân bên cạnh, hận vì lưu lạc trên đất khách quê người như tâm trạng của chiếc hoa rơi xuống đất không một tiếng động hay nói đúng hơn không một tiếng than! Từ câu đầu dắt lần xuống câu thứ tư – tức câu kết – "Đáo địa nhất vô thanh" (到 地 一 無 聲), thật là lặng lẽ buồn thảm vô cùng!

Một bài thơ hay như vậy nên được tiền nhân khen là "thần bút" (神 筆) cũng không lấy gì làm ngoa!


Ghi chú:

Trong quyển dịch Đường - thi của Cụ Trần Trọng Kim thì bài thơ này mang tựa đề "Nam Hành Biệt Đệ" và tác giả bài thơ này của Vi Thừa Khánh. Còn trong quyển "Thi Từ Bình Thưởng" củaTây Đắc Lâm (Trung Hoa Thư Cục ấn hành) thì mang tựa đề là "KýNhân" và tác giả là Thôi Đạo Dung. Ngoài ra 2 chữ "đạm đạm" (澹 澹) trong quyển Đường - thi của Cụ Trần khác với chữ "đạm đạm" (淡 淡) của họ Thôi. Vậy kính mong quý thức giả bổ túc nghi vấn văn học này để chúng tôi được thọ giáo, cảm ơn!

LAM NGUYÊN

No comments: