Thursday, August 31, 2017

PHẠT SAO CHO TỞN?

Mùa Vu lan năm nay, Diêm vương chợt có sáng kiến cải cách địa phủ. Ngài triệu tập toàn thể các phán quan và chém gió:


- Hàng ngàn năm qua, trên kia hết cải tiến lại cải lùi mà dưới này chúng ta không thay đổi gì cả. Chúng ta dứt khoát phải cải cách cho phù hợp xu hướng thời đại! Các phán quan có sáng kiến gì để đổi mới âm phủ thì mau mau tâu trình!
Một phán quan lập tức hưởng ứng:
- Theo tôi, chúng ta phải cải cách hình phạt cho đáng sợ hơn!
Các phán quan còn lại ồ lên:
- Rách việc! Hình phạt của cõi âm như thế chưa đủ tởn hay sao mà đòi thay đổi?
- Không hề! Nhân mùa Vu lan nhớ ngày xưa, bà Thanh Đề vì đem bánh bao nhân thịt chó cho nhà chùa ăn mà bị phạt tay xiềng, cổ gông, cơm đưa lên miệng lập tức hóa lửa cháy. Hình phạt ấy xưa quả là nặng, nhưng nay trên kia có một xứ sở ở đó cứ hết thảm án này lại đến một vụ truy sát khác, bởi bao kẻ khát máu sẵn sàng đâm vào sọ trẻ sơ sinh, cắt cổ con nít hai tuổi hay đốt cả người thân trong nhà! Nếu chúng ta không có cách trừng phạt khủng khiếp hơn thì e rằng cái ác nơi đó sẽ lan nhanh như cỏ dại!
Diêm vương vỗ bàn:
- Hay! Đâu, các ngươi mau mau đề xuất hình phạt mới cho ta duyệt!


Các phán quan thi nhau phát huy sáng kiến, nhưng quanh đi quẩn lại cũng chỉ ôm trụ đồng, tắm than đỏ, nhúng vạc dầu sôi... khiến Diêm vương lắc đầu quầy quậy:
- Đang thời buổi hô hào “xanh” mà các ngươi đưa ra toàn biện pháp hao củi lửa, hại môi trường! Thôi, nếu không nghĩ ra gì thì giải tán, khi nào rảnh chúng ta lại bàn chuyện cải cách!
Mọi người lục đục ra về thì một phán quan giơ tay:
- Có rồi! Có một cách rất hiệu quả lại chẳng tốn công sức!


Diêm vương mừng rỡ:
- Nói mau để triển khai cho kịp.
- Hình phạt đáng sợ nhất với chúng chính là: chúng đến từ đâu thì cho đầu thai lại nơi ấy!
Người Già Chuyện
(Sưu tầm trên mạng)

MIỆT THỨ CÓ CON BẮP CHUỐI

Bắp chuối có tên gọi khác là sò quạt, vỏ mỏng màu vàng nhạt. Khi nướng hay xào bắp chuối đều có vị béo, ngọt, thơm, dai sần sật khiến thực khách nếm thử sẽ nhung nhớ khôn nguôi.


Miệt Thứ là vùng đất thuộc hai huyện An Minh và An Biên (Kiên Giang), kéo dài đến rừng U Minh. Xưa kia, Miệt Thứ hoang sơ và khắc nghiệt, là nơi “Muỗi kêu như sáo thổi, đỉa lềnh tựa bánh canh”, nhưng bù lại, thiên nhiên lại ban tặng cho những sản vật phong phú.

Bên cạnh rắn, rùa, chim, cua, cá, ốc, sò, du khách đến đây sẽ không khỏi ngạc nhiên trước loại hải sản vô cùng lạ lẫm, con bắp chuối. Đúng như tên gọi, dáng vẻ bề ngoài của chúng thoạt nhìn như một bắp chuối nhỏ. Loài nhuyễn thể hai mảnh này còn có tên gọi khác là sò quạt, vỏ mỏng màu vàng nhạt, trọng lượng trung bình từ 150 – 200 gram/ con.

Chúng thường sinh sống tập trung nơi bờ biển, lúc thủy triều dâng thì ngoi đầu lên tìm những phiêu sinh vật để ăn, khi nước rút chúng vùi mình trong đất cát. Biết được đặc điểm trên, khi nước rút, người dân nơi đây chỉ dùng tay hoặc cây nhọn cạy lên để bắt. Con bắp chuối thịt nhiều, thơm ngon. Bao quanh thịt là một lớp gan màu vàng như hột vịt úp mề, bên trong là một cơ tròn màu trắng ngà như quân cờ tướng, khi chế biến có vị ngọt, dai rất ngon.


Con bắp chuối đã được bóc vỏ
Con bắp chuối có thể chế biến nhiều món ăn rất đặc trưng mang hương vị biển như: nướng mỡ hành, xào nấm đông cô, nướng chao, nhúng lẩu…

Nhưng khoái khẩu hơn cả là bắp chuối nướng mỡ hành. Đây cũng là cách chế biến nhanh gọn nhất. Chỉ cần rửa sạch bùn đất và ngâm bắp chuối vào thau nước lạnh có vài trái ớt sừng giã dập trong vòng một tiếng cho nhả hết bùn đất trong ruột. Cho bắp chuối vào rổ để ráo. Bếp than hồng đã chuẩn bị sẵn cùng với dĩa mỡ hành, muối tiêu chanh. Bắt từng con đưa lên vỉ nướng, khi thấy bắp chuối hở miệng, nước trong ruột chảy xuống lửa than nghe xèo xèo, một mùi thơm sực nức bốc lên thì cho mỡ hành vào, chờ vài phút rồi gắp ra dĩa.

Món bắp chuối nướng mỡ hành.
Vỏ bắp chuối mỏng như kính nên dễ cháy khét, khi chế biến nhớ chú ý để tránh khô mất ngon. Dùng muỗng múc thịt chấm vào muối tiêu chanh đưa lên miệng, ta sẽ cảm nhận vị béo, ngọt, thơm, dai sần sật của thịt bắp chuối thấm đẫm mọi giác quan. Nếu cần, thêm một cốc rượu trái giác vào nữa là tuyệt vời.

Món bắp chuối xào hành cũng hấp dẫn không kém. Đây là món ăn với cơm. Con bắp chuối sau khi đã rửa sạch luộc chín, gỡ ruột ra cho vào dĩa. Phi mỡ, tỏi thơm và cho ruột bắp chuối vào xào chín. Tiếp đến cho hành lá xắt khúc vào. Dùng xạng đảo đều, nêm nếm gia vị lần cuối, rắc ít tiêu và bắc xuống ngay, tránh để hành mềm quá mất ngon.

Làm thêm một chén nước mắm chua ngọt cùng cơm mới dẻo thơm, bữa ăn đã sẵn sàng. Dùng đũa gắp miếng thịt bắp chuối cùng vài cọng hành chấm nước mắm chua ngọt cho vào miệng, nhai chậm rãi sẽ cảm nhận vị ngọt, béo, dai của ruột bắp chuối lẫn vị giòn ngọt của hành lan tỏa khắp vòm miệng. Thêm miếng cơm trắng, bạn sẽ nhung nhớ khôn nguôi món ăn dân dã miền Tây.

Bắp chuối xào hành ăn cùng cơm rất tuyệt
Còn gì thú vị bằng khi về Kiên Giang tham quan phong cảnh sông nước hữu tình, những vườn cây ăn trái, những di tích văn hóa lịch sử và thưởng thức những món ăn độc đáo nơi đây. Đó là những phút giây trải nghiệm vùng đất mới với những con người hào sảng, chân chất thật thà và luôn luôn mến khách.

Theo: TƯƠNG TÂM (VnExpress)



TELL LAURA I LOVE HER - TRƯNG VƯƠNG KHUNG CỬA MÙA THU

Tell Laura I Love Her, một sáng tác của hai nhà viết ca khúc Jeff Barry và Ben Raleigh, là một thảm kịch tuổi “teen” thời đại:


Laura và Tommy là đôi tình nhân trẻ. Tuy còn rất trẻ, nhưng Tommy đã mong muốn xây dựng hạnh phúc lứa đôi. Để có tiền mua cho Laura cái nhẫn cưới, Tommy quyết định tham gia cuộc đua xe hơi với giải thưởng 1.000 đô-la. Trước khi tới trường đua, Tommy điện thoại cho Laura nhưng không gặp, đành nhờ bà mẹ của nàng nhắn lại: Tell Laura I Love Her!…

Trong cuộc đua, xe của Tommy bị lật và bốc cháy; khi nhân viên cấp cứu tới nơi, họ chỉ kịp nghe được câu nói cuối cùng của Tommy trước khi tắt thở: Tell Laura I Love Her!…

Rồi một mình trong giáo đường thanh vắng, cầu nguyện cho linh hồn người yêu, Laura vẫn có thể nghe văng vẳng tiếng Tommy: Tell Laura I Love Her!


Jeff Barry

Tell Laura I love her

Laura and Tommy were lovers
He wanted to give her everything
Flowers, presents,
But most of all, a wedding ring

He saw a sign for a stock car race
A thousand dollar prize it read
He couldn’t get Laura on the phone
So to her mother, Tommy said

Tell Laura I love her
Tell Laura I need her
Tell Laura I may be late
I’ve something to do, that cannot wait

He drove his car to the racing grounds
He was the youngest driver there
The crowed roared as they started the race
Around the track they drove at a deadly pace

No one knows what happened that day
Or how his car overturned in flames
But as they pulled him from the twisted wreck
With his dying breath, they heard him say

Tell Laura I love her
Tell Laura I need her
Tell Laura not to cry
My love for her will never die

Now in the chapel where Laura prays
For her poor Tommy, who passed away
It was just for Laura he lived and died
Alone in the chapel she can hear him cry

Tell Laura I love her
Tell Laura I need her
Tell Laura not to cry
My love for her will never die

Tell Laura I love her
Tell Laura I need her
Tell Laura not to cry
My love for her will never die.

Ben Raleigh
Tell Laura I Love Her được nam ca sĩ Ray Peterson thu đĩa, hãng RCA Victor phát hành vào tháng 7 năm 1960, mặc dù bị nhiều đài phát thanh tẩy chay vì tính cách bi thảm của nội dung, tới tháng 8, ca khúc này đã lên tới hạng 7 trên bảng xếp hạng toàn quốc cho mọi thể loại (Billboard Hot 100)

Ray Peterson

Trong phong trào Việt hóa Nhạc Trẻ, Nhạc sĩ Nam Lộc đã khéo léo chuyển ngữ sang tiếng Việt với tựa đề “Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu”, mang nội dung hoàn toàn khác hẳn, khiến người nghe quên nguồn gốc ngoại quốc của nhạc phẩm.


Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu

Tim em chưa nghe rung qua một lần
Làn môi em chưa hôn ai cho thật gần
Tình trần mong manh
Như lá me xanh
Ngơ ngác rơi nhanh

Thu giăng heo may cho bóng cây lạnh đầy
Người cho em nghe câu nhớ thương từng ngày
Những ngày đợi chờ
Trong nắng vu vơ
Trong mắt ngây thơ

Nhớ khói xưa lạc vấn vương
Cho hơi ấm lên môi người
Lùa sương kín nhẹ vây ngập trường
Làm mây yêu thương
Vương trong hồn em

Người cho em nghe quen môi hôn ngọt mềm
Tình cho tim em rung những đêm lạnh lùng
Từng chiều cùng người
Về trong cơn mưa bay
Nghe thương nhớ tràn đầy
Lên đôi mắt thật gầy

Trưng vương hôm nay mây vẫn giăng đầy trời
Công viên năm xưa hoa vẫn rơi tuyệt vời
Bóng người thì mịt mùng
Từng hàng me rung rung
Trong cơn gió lạnh lùng
Trong nắng ngại ngùng

Nắng vẫn vương nhẹ gót chân
Trưng vương vắng xa anh dần
Mùa thu đã qua một lần
Chợt nghe bâng khuâng
Lá rơi đầy sân.

Theo: GIADINHHOANGTRONG

Trưng Vương Khung Cửa Mùa Thu

Tell Laura I love her


PHỞ SÀI GÒN XƯA VÀ NAY

Cũng như thịt chó, phở là một đặc sản của miền Bắc. Người ta cho rằng nó chỉ mới xuất hiện ở Saigon vào những năm 1951-1952, cùng một thời gian với hai nhà hát ả đào, một ở xóm Monceau và một ở xóm Đại Đồng.


Cả hai thứ ấy đều rất xa lạ với người Saigon thuở đó. Kiếm được một quan viên biết cầm trống chầu không phải chuyện dễ. Cho nên họ chỉ cầm cự được một hai năm rồi dẹp tiệm, mặc dù họ đã biến nó thành một hình thức như ”kem sờ” ở Bờ Hồ (Hà nội) vào những năm 30 hoặc như ”bia ôm” của Saigon hôm nay. Và phở cũng chịu chung một số phận với nó. Người ta chỉ thích hủ tíu, hoành thánh, bánh xếp nước… Chỉ có độc một tiệm phở được gọi là ”Phở Tuyệc”, nằm trên đường Turc (nay thuộc khu vực Đồng Khởi) là kiên trì bám trụ.

Phải đợi tới sau năm 1954, phở mới thực sự thực hiện một bước nhảy vọt từ Bắc vào Nam. Phở khởi đầu sự bành trướng của nó vào giữa thập niên 50 tới giữa thập niên 60. Có cả một dãy phố phở nằm trên hai con đường Pasteur và Hiền Vương.



Thơ Phở

Những nhà hàng phở ngon của Saigon thuở ấy nhiều vô số. Nhưng được người ta chiếu cố nhất chỉ có bốn hoặc năm tiệm, trong đó có phở Trần Minh ở hẻm Casino. Trong cái ngõ cụt ấy, ê hề các hàng quà : phở, bún ốc, bún ốc sườn… Từ đầu ngõ, người ta đã chạm trán với khách ẩm thực, kẻ ra người vô tấp nập. Phở Minh ngon thiệt là ngon. Nó không giống như kẹo kéo “ăn một lại muốn ăn hai, ăn ba ăn bốn lại nài ăn năm”. Người ta chỉ có thể ăn một bát để cho nó thòm thèm rồi mai lại ăn nữa ! Có một người nghiện phở của ông ta, và nghiện luôn cả truyện kiếm hiệp của Kim Dung. Đó là ông X, chủ một tiệm giày ở đường Lê Thánh Tôn. Ông vừa ăn phở vừa theo dõi cuộc tình của Triệu Minh – Vô Kỵ, hoặc của Doanh Doanh – Lệnh Hồ Xung trên mặt báo. Và tình bằng hữu giữa ông chủ tiệm giày với ông chủ tiệm phở đã thắm thiết hơn lên nhờ một bài thơ phở của ông chủ tiệm giày. Gọi là thơ phở vì đọc lên nghe thấy… toàn mùi phở. Tuy nhiên nó được làm theo thể Đường thi, và chữ nghĩa đối nhau chan chát. Rất tiếc, người viết chỉ còn nhớ được có bốn câu :

Nổi tiếng gần xa khắp thị thành
Trần Minh phở Bắc đã lừng danh
Chủ đề : tái, chín, gầu, gân, sách
Gia vị : hành, tiêu, ớt, mắm, chanh…

Sau đó, ”mông xừ” Trần Minh đã nhờ một người nhái những nét chữ rồng bay phượng múa của Vũ Hoàng Chương để viết bài thơ ấy và treo ở trong tiệm


… Và câu đối Phở

Saigon thuở ấy chỉ có một tiệm duy nhất ở đường Võ Tánh, gần Ngã Sáu, có món tái sách tương gừng và phở tái sách : tiệm Y. Thịt tái mềm, sách ròn nhai gau gáu, chấm với tương Cự Đà thì tuyệt cú mèo. Người ta bèn đổ xô tới để thưởng thức một món ăn lạ miệng. Và tiệm Y phất lên như diều. Từ ngôi nhà lụp xụp, ông đã sửa sang lại cho khang trang và mua thêm một nhà khác để ở cho thoải mái. Phú quí sinh… máu văn nghệ, ông bắt đầu giao du thân mật với cánh nhà văn, nhà báo.

Sau cuộc đảo chính của Dương Văn Minh, trong làng báo có hiện tượng “trăm hoa đua nở”, hễ có tiền là có quyền làm chủ một tờ báo. Thế là ông chủ tiệm phở Y bèn ra báo. Từ tái, chín, nạm, gầu, sụn, nhảy sang địa hạt chữ nghĩa, ông hoàn toàn bỡ ngỡ. Cho nên báo của ông chỉ có thể đến với độc giả bằng con đường ve chai. Dĩ nhiên nó phải chết. Và ít lâu sau ông cũng chết theo nó. Người vợ góa trẻ đẹp kế tục ”sự nghiệp” của ông chồng quá cố. Tiệm Y phát đạt trở lại. Những người bạn văn nghệ của ông Y vẫn lui tới ăn phở như xưa, nhưng mục đích chính của họ là… ngấp nghé ngôi vị chủ tiệm. Sau mấy năm trời theo đuổi mà chẳng đi tới đâu, một người trong bọn họ, tức cảnh sinh tình, bèn mượn danh nghĩa bà quả phụ để ra một vế câu đối như có ý thách thức thiên hạ rằng : “Nếu ai đối được thì em xin nguyện lấy làm chồng”

“Nạc, mỡ nữa làm chi, em nghĩ chín rồi không tái giá ”

Câu đối sặc sụa mùi phở, nhưng hắc búa nhất là cụm từ ”tái giá”, nó vừa có nghĩa là ”đi bước nữa” lại vừa có nghĩa là ”phở tái giá”. Cũng như ”da trắng vỗ bì bạch” của bà Điểm đố Trạng Quỳnh vậy. Hơn ba mươi năm trôi qua, câu đối ấy hiện nay vẫn chỉ có một vế.

Phở gà trống thiến


Ngay cả Hà Nội – quê hương của phở – từ trước đến nay cũng chưa bao giờ có phở gà trống thiến , cho dù ở phố Huyền Trân Công Chúa , vào đầu những năm 50, đã có một hàng phở gà ngon nổi tiếng khắp Hà thành, đến nổi cụ Nguyễn Tuân khi theo đoàn quân về tiếp quản Thủ đô, ăn xong đã phải khen rằng ”tuyệt phở !”. Người bán phở tên là Chí. Ông ta mới hồi cư, không có đủ tiền để mướn mặt bằng, phải làm phở gánh. Con đường mang tên vị công chúa nhà Trần bé bằng cái lỗ mũi, với cái vỉa hè rộng hơn một mét, khách ăn kẻ đứng, người ngồi, húp xì xụp.

Phở gà trống thiến xuất hiện ở Saigon vào những năm 60, ở phía chợ Vườn Chuối – tuy chưa được liệt vào loại tuyệt phở, nhưng cũng được khách ẩm thực đặc biệt chiếu cố. Phở ngon là một lẽ : thịt gà trống thiến thơm và mềm như gà mái tơ, nước phở trong hợp với khẩu vị của những người kén ăn, nhưng cũng còn một lẽ khác : người ta vừa ăn, vừa ngắm cái vẻ thướt tha yêu kiều của con gái ông chủ tiệm, thỉnh thoảng đi ra đi vô, mỉm cười với người này, gật đầu chào người kia, giơ tay ‘bông rua’ người nọ, tự nhiên như một cô đầm non.

Đó là nữ ca sĩ Y.V, một giọng ca lả lướt của các phòng trà. Ban ngày, nàng giao thiệp với phao câu, đầu cánh, thịt đùi; ban đêm, chìm đắm trong ánh đèn màu. Thế rồi, không kèn không trống, nàng tuyệt tích giang hồ. Người ta bảo rằng nàng đi Tây. Đi Tây thật chứ không phải Tây Ninh. Tiệm phở vắng khách dần và ít lâu sau thì phải dẹp.

Phở không rau không giá

Tiệm này nằm trên đường Công Lý- cách ngã tư Công Lý – Yên Đỗ (nay là ngã tư Nam Kỳ Khởi Nghĩa – Lý Chính Thắng) khoảng 100m – trong một cái hẻm rộng. Người ta gọi là phở Bà Dậu. Nó có những đặc điểm không giống bất cứ một tiệm phở nào : không rau, không giá và rất sạch, và nhất là không có cái mùi phở kinh niên. Thịt thái mỏng và bánh phở to bản thích hợp với cái gu của người Hà Nội. Vì ở sâu trong hẻm, nên thoạt đầu khách tới ăn uống rất lơ thơ tơ liễu buông mành, chỉ có dăm bảy mống. Sau đó, nhờ sự cổ động của người Hà Nội, người ta mới bắt đầu chiếu cố tới hương vị không rau không giá đó.

Trải qua hơn 30 năm, Phở Bà Dậu sau vẫn tồn tại và có phần phát đạt hơn xưa. Có thêm một món mới : tái bắp, thịt mềm và nhai sần sật như sụn. Giá cả cũng tăng, từ 10đ/ bát trong những năm 60 đến 10.000đ/ bát, năm 1996. Nhưng khách ăn vẫn nườm nượp.

Từ phố Phở đến… Bắc Huỳnh

Hà Nội, quê hương của phở, và thời bao cấp đã sản sinh biết bao thứ phở : phở vịt, phở ngan, phở lợn (thậm chí có cả phở chó), vậy mà chưa có một phố nào chuyên bán phở, trong khi ấy Saigon lại có cả một dãy phố phở. Đó là khu Hiền Vương (Võ Thị Sáu – Pasteur). Hiền Vương chuyên bán phở gà, còn Pasteur, phở bò. Nhưng dù gà hay bò, các tiệm phở ở khu này chưa có một tiệm nào – nếu nói về phở bò – có thể so với phở Tàu Bay ở Lý Thái Tổ, còn nếu nói về phở gà, thì thua xa phở Vọng Các (đường Võ Văn Tần) và phở Bưu Điện hôm nay.


Những tiệm phở bò nổi tiếng thời ấy còn có phở Tàu Thủy ở Nguyễn Thiện Thuật, phở Quyền và phở Bắc Huỳnh ở miệt Phú Nhuận. Sau khi ông Tàu Thủy qua đời, người con trai không có đủ khả năng kế nghiệp ông bố, bèn dẹp tiệm để chuyển sang nghề khác. Còn phở Bắc Huỳnh nguyên là phở Ga Đà Lạt một thời nổi tiếng; Sau 75 ông mò về Saigon, mở tiệm phở Bắc Huỳnh trên đường Võ Tánh góc Trương Tấn Bửu đối xéo góc với nhà thờ Nam. Chỉ mấy tháng sau, Bắc Huỳnh lại nổi tiếng như cồn. Hàng ngày, từ 6 giờ sáng khách mộ điệu phở đã nườm nượp nối đuối kéo vào. Và chỉ tới 10 giờ là bánh, thịt, nước phở đã láng cóong. Phải công nhận phở Bắc Huỳnh hết chỗ chê. Nuớc trong vắt thơm lừng; Miếng thịt chín mùi thơm như pa-tê, thái tay vừa đủ dầy để cắn ngập răng. Miếng gầu sữa trắng toát mịn như miếng thạch, vừa thơm vừa bùi lại ròn tan; Không một chút hoi. Đặc biệt tiệm BH không bán phở toàn tái. Thế mới là chính thống. Phở bò mà lại ăn phở tái thì đúng là nhà quéo.

Đang phát đạt như thế, chẳng biết sao khoảng năm 1982 bỗng dưng ông dẹp tiệm. Dân ghiền phở cứ tiếc hùi hụi. Trong số này có ông cao thủ bóng lông Trần K., khi đó đang chủ trì sân quần vợt đuờng Lê Duẩn. Ông này ghiền phở BH không thua gì mấy anh ghiền thuốc phiện. Sáng sáng, sau khi dợt cho đệ tử mà không được bồi dưỡng hai tô phở BH là ông ngáp lên ngáp xuống. Ông bèn gạ một người bạn ông để người bạn này yêu cầu cô con gái ông BH mượn nồi niêu soong chảo bát đũa của ông già ra sân quần vợt mở một tiệm phở xe. Dân ghiền phở lại kéo tới ăn đông như chẩy hội. Hồi đó nữ ca sĩ Thái Thanh và nữ ca sĩ Tâm Vấn ở tít trong Chợ Lớn, sáng nào cũng ngồi xích lô ra sân quần vợt – không phải để đánh banh lông – mà là để đớp phở.

Cao thủ Trần K. có ông anh cũng tên Trần K. và cũng là cao thủ bóng lông, còn mê phở hơn cả ông em. Sáng nào ông K. anh cũng gò lưng đạp chiếc xe đạp ọp ẹp chở người tình 200 pao từ Chợ Lớn ra sân quần với mục đich cao quý duy nhất là đớp phở của con gái ông BH. Có nhiều lần, có lẽ tại tối trước ông K. anh chơi bóng lông hơi nhiều và hơi khuya, sáng ra chân chùn gối lỏng, ông đạp xe hơi chậm, tới hơi trễ, đã thấy cái thùng nước phở chổng mông lên trời. Phở chính thống là thế : bao nhiêu thịt là bấy nhiêu nước. Hết nước là hết thịt, hết thịt là hết nước. Và hết là hết, chứ không có cái trò đổ vài lon nước lèo hộp, hay ném mấy cục bouillon vào nước, thêm tí mắm tí bột ngọt, đun sôi lên bán với thịt tái. Sau mấy lần đạp xe phờ râu tôm tới nơi lại hụt ăn, ông K. anh đành thương lượng với cô chủ phở như thế này :

Mỗi sáng cô cứ vui lòng để riêng ra hai tô, cất đi cho tôi. Tôi tới kịp để ăn hay không tới ăn được cũng kệ cha tôi. Tôi vưỡn cứ trả tiền như thường. Ấy thế mà, chỉ được hơn năm, chả biết lý do gì, tiệm phở xe này cũng bỗng mất tích. It lâu sau thấy tiệm Bắc Huỳnh lại tái xuất giang hồ. Được ít năm rồi lại dẹp không kèn không trống. Ngày nay nghe đâu ông Bắc Huỳnh và cô con gái đẹp như mơ đã mở hai tiệm phở bên Calgary, Canada. Chả biết còn giữ tên Bắc Huỳnh nữa không.

Phở ngầu pín

…Phở ngầu pín

Dạo ấy, cả Saigon chỉ có độc một tiệm của chú Woòng ở đường Lý Thái Tổ bán phở ngầu pín. Chú là người Quảng Đông, trước khi di chuyển vào Nam đã mở tiệm phở ở phố Huế, Hà Nội. Vào đầu thập niên 50, phở ngầu pín đối với dân thủ đô, thật hoàn toàn xa lạ. Có mà nhử thính các tiểu thư Hà Nội cũng không dám tới ăn.

Phở ngầu pín vào tới Saigon cũng chả khấm khá gì hơn. Vẫn cái tiệm xập xệ tối thui, như ở phố Huế. Khách tới ăn toàn những ông râu ria xồm xoàm hoặc lún phún râu dê hoặc nhẵn nhụi bảnh bao chẳng có một sợi râu nào. Nhưng tuyệt nhiên không hề có bóng dáng đàn bà.

Phở sau 75 và cơn sốt Phở Bắc Hải

Phở leo lên tới tột đỉnh vinh quang bắt đầu từ cuối thập niên 80. Phở tràn ngập thành phố, ngoại trừ khu vực Chợ Lớn, bởi nó không thể địch lại được với hủ tíu, hoành thánh, bánh bao, xíu mại. Nhưng đặc biệt nhất là cơn sốt phở Bắc Hải. Ở thành phố có chí ít vài ba chục tiệm mang cái tên ấy. Tại sao người ta lại không chọn một bảng hiệu khác ? Cũng có nguyên nhân đấy.


Số là vào thời bao cấp, ở phố Thuốc Bắc, Hà Nội có một tiệm phở chui mà ông chủ tên là Bắc Hải. Đó là bí danh, biệt hiệu hay tên thật của ông ? Chả có ai rỗi hơi tìm hiểu. Chỉ biết cứ thế mà gọi. Tiệm của ông dĩ nhiên là đông khách, nhưng toàn khách quen. Những cái mặt lạ hoắc đừng có hòng bước vào. Trong khi phở quốc doanh “chạy qua hàng thịt”, thì phở Bắc Hải cả bánh lẫn thịt đều có chất lượng. Ngoài ra lại còn cái thú uống rượu quốc lủi nhắm với món “bốc mả” (xíu quách). Thịt do dân”bờ lờ” (buôn lậu) từ Phú Xuyên, Thường Tín hoặc ngả Gia Lâm đi theo xe khách thành, đưa vào bán cho các mối. Còn quốc lủi do ngoại thành cung cấp.

Ông Bắc Hải đựng quốc lủi trong cái bong bóng trâu, giấu ở trước bụng, cái áo phủ bên ngoài. Khách nào muốn uống, giơ cái ly xây chừng ra, ông cởi khuy áo, tháo cái nút vòi bong bóng rồi xịt một phát vào ly. Rượu vừa đúng tới mép ly, không tràn ra một giọt nào. Ông bảo đó là cả một nghệ thuật, phải tập mất một tháng mới thực hiện thành công thao tác ấy. Nói cũng đáng tội, phở của ông cũng chả ngon lành gì. Chẳng qua là vì ”trong xứ mù thằng chột làm vua”. Vả lại, nó có đầy đủ chất béo, chất cay. Với một người ”thích đủ thứ”, như vậy là đúng tiêu chuẩn. Từ đó, anh hùng nhất khoảnh, phở Bắc Hải danh trấn giang hồ.

Sau 75, một số đệ tử của ông Bắc Hải vào Nam. Họ kiếm một đầu hẻm, dựng một quán phở lộ thiên. Một trong những đệ tử nổi bật nhất của ”mông xừ” Bắc Hải là Ch. Râu. Gọi như thế là vì trên mặt anh có cả một rừng râu. Trẻ con trong khu phố, mỗi khi thấy anh xuất hiện lại chạy theo trêu chọc : ”Ơ cái râu lồm xồm, ơ cái râu loàm xoàm, cái râu mọc quanh cái mồm”.

Lại vừa may mắn lại vừa có sẵn ít vốn, Ch. Râu kiếm được một mặt bằng ở đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa. Phở Bắc Hải của anh ra đời, trội hơn các tiệm Bắc Hải khác với món áp chảo nước, áp chảo khô, và đặc biệt là rượu rắn-bìm bịp, tráng dương bổ thận.

Bát phở có nước béo của mình với miếng bò tái hấp dẫn (Phở Bắc Hải)
Hiện nay, phở Bắc Hải không những bành trướng trong thành phố mà còn xuất hiện tại các vùng ngoại ô, nhất là khu Tân Sơn Nhất.

Khoảng giữa thập niên 80, tại Bến Sỏi, mé trái cầu Điện Biên Phủ, có một tiệm phở đuôi bò và ngầu pín do một người đàn bà đứng bán. Quán hàng thiết lập trên một vùng đất lổn nhổn sỏi đá. Khách ăn, kẻ đứng người ngồi. Đôi khi cái ghế lùn tịt được dùng thay cho bàn. Và lần đầu tiên trong lịch sử của ỀpínỂ, ngầu pín được các bà các cô chiếu cố. Họ tỉnh queo cắn từng miếng một và nhai sần sật. Đuôi bò của Bến Sỏi cũng tuyệt trần. Mỗi miếng bằng cái nắm tay của trẻ con. Thịt được ninh nhừ nên khi ăn cũng không đến nỗi vất vả.

Phở Bến Sỏi chỉ bán đến 9g30 sáng là hết. Nhưng thông thường, người ta đến sớm hơn. Để tránh cái nắng như đổ lửa xuống đầu. Trông các bà vừa ăn vừa thấm mồ hôi, phấn son nhòe nhẹt, thấy mà thương !

Vài năm sau khấm khá, bà chủ tiệm tậu được một miếng đất rộng lớn ở phía xa lộ rồi chuyển cửa hàng ra đó. Bây giờ gọi là quán phở N., vừa bán phở vừa bán lẩu ngầu pín đuôi bò. Một cái lẩu 20.000đ hai người ăn căng bụng.

Phở thầy cô

Bởi lương nhà giáo không đủ sống nên 5 cô và một thầy đã hùn nhau mở một tiệm phở ở vỉa hè đường X., phía sau cổng trường M.C.


Phở thầy cô ra đời khoảng gần hai năm nay. Có một dạo nhà nước dẹp lòng lề đường, có lúc họ phải di chuyển vào mé sân sau trường. Tiệm này chuyên bán phở gà và chỉ bán vào buổi sáng. Dĩ nhiên phở của họ không thể nào ngon bằng các tiệm nhà nghề như phở gà Bưu Điện hoặc Vọng Các hay các tiệm ở đường Võ Thị Sáu, nhưng nó lại có một hương vị đặc biệt – hương vị gia đình. Khách ăn có cảm tưởng như người nhà mình nấu cho mình ăn vậy. Phở ở đây rất có ”chất lượng” và rẻ – rất rẻ là khác : 4.000đ/ tô đầy tú ụ cả thịt lẫn bánh.

Giữa họ đã có sự phân công : mỗi người nấu phở rồi coi phở một ngày. Không có ai trong số họ có sẵn tay nghề. Thoạt đầu thì lúng túng như thợ vụng mất kim, ít lâu mới thành thạo. Nhưng dù sao đối với họ nghề phở cũng là một cái nghề bất đắc dĩ. Đứng trên bục giảng vẫn tốt hơn.

Ở thành phố, ngoài nhóm thầy cô kể trên, còn có một cô giáo nữa cũng đang đứng bán phở, nhưng lại giã từ hẳn cái nghề kỹ sư tâm hồn. Cô nguyên là giảng nghiệm viên của Đại học khoa học, nhà lại sẵn có mặt bằng nằm trên một trục lộ đông đảo người qua lại, bèn quyết định từ bỏ ống nghiệm và các công thức hóa học để ”giao thiệp” với phở. Vốn là một nội trợ giỏi nên từ nấu thức ăn đến làm phở cũng không đến nỗi khó khăn. Cửa tiệm nằm ở phía chân cầu Bông, khách ăn sẽ dễ dàng nhận ra khi thấy trước cửa đậu một dãy xe gắn máy.

Phở Cầu Bông ngoài các món thường lệ như tái, chín, nạm, còn có món đuôi bò. Phở rất ngon nhưng giá một tô có 5.000đ, chỉ bằng một nửa tiền nếu so với phở Hòa ở đường Pasteur, tục gọi là phở Việt kiều, với giá chém treo ngành 12.000đ/ tô. Sở dĩ gọi thế là vì khách ăn đa số là Việt kiều. Họ quen ăn phở với giá 8 đôla/ tô, chưa kể tiền ”bo” 10%, nên với họ, đó là một giá rẻ mạt.

Phở Cầu Bông cũng không làm theo kiểu đại trà với thịt thái sẵn chất đầy một cái khay. Khách ăn tới đâu làm tới đó. Thịt thái mỏng bốc mùi thơm phức. Mỗi miếng thịt mang hình kỷ hà, màu nâu gụ của nó dính với màu mỡ gàu đặt trên nền trắng của bánh trông giống như một bức tranh tĩnh vật.

Cô giáo của trường Khoa học đã đưa cả khoa học lẫn nghệ thuật vào phở.


Phở T.D ở Điện biên Phủ

Phở có bảng hiệu mang tên số nhà, nhưng người ta cứ quen miệng gọi là phở T. D., tên ông chủ, mặc dù anh không đứng bán. Căn nhà đó, xưa kia, anh mở tiệm cơm Tây với hai món đặc sản : chateaubriand và chân giò nấu đậu trắng. Các bằng hữu của anh đa số là những người làm văn nghệ. Anh cũng được liệt vào số đó, bởi giọng ca tuyệt diệu của anh. Nhưng mỗi năm anh chỉ hát có một lần và chỉ hát có một bài vào đêm Giáng sinh : “Đêm thánh vô cùng” (Silent Night). Một điệu nhạc tắt đèn. Trong lúc tiếng ca thánh thiện của anh vang lên, người ta ôm nhau đi một đường slow.

Sau khi thưởng thức phở Quyền, phở Tàu Bay, phở bà Dậu, nếu muốn đổi hương vị, người ta có thể đến T.D để nếm món ”vú sữa”, tức là khoảng thịt bụng có những núm vú, ăn béo ngậy, thơm và sần sật, nhưng không giống như sụn hoặc nậm của thịt chó. Nhà hàng có mặt bằng rộng, quạt máy quay vù vù, khách ăn không phải chịu cái cảnh mồ hôi mẹ mồ hôi con cùng chảy

Phở công tử SaiGon

Đó là tiệm phở gà H. B. ở đường Võ Thị Sáu. Ông chủ tiệm tên là Q., một người thuộc giới giang hồ mà cả hai đạo hắc bạch đều biết… tiếng từ khi Q. ở địa vị một ông chủ.

Nghề phở đến với anh một cách tình cờ. Trong một cuộc đọ tài cao thấp với một tay anh chị, anh bị hắn thưa về tội đả thương, và sau đó bị đưa đi cải tạo. Thời gian chém tre đẵn gỗ trên ngàn, anh thường hay giúp đỡ một anh bạn đồng cảnh ngộ. Thấy bạn bị bắt nạt là anh can thiệp ngay. Không phải bằng vũ lực, mà chỉ với một chiêu số thôi : bấm vào huyệt nội quan ở cổ tay và huyệt khúc trì ở khuỷu tay, là địch thủ phải thổi bài kèn ”ô rơ lui” ngay. Q. lại còn thường giúp anh ta trong các công tác lao động. Để đáp lại ân tình ấy, người bạn kia đã truyền cho anh nghề nấu phở. Anh ta dạy Q. từ cách lựa chọn gà – phải là gà được nuôi ở nông thôn – đến cách pha chế gia vị cho thùng nước lèo, và cách nấu nướng làm sao cho gà khỏi bị vỡ da.


Sau thời gian cải tạo, Q. về đường Võ Thị Sáu mở tiệm phở H.B. – tiệm phở ngon nhất trong khu phố ấy. Chỉ trong vòng ba năm, anh đã phất lên như diều. Và bây giờ, với 8 năm trong nghề phở, anh chỉ giữ vai trò chuyên viên, và để cho một số đệ tử đứng bán. Còn một chàng nữa cũng phất lên như Q., nhờ phở. Đó là anh D., chủ một tiệm phở ở trong một con hẻm đường Nguyễn Thị Minh Khai, cách nhà thương Từ Dũ khoảng 500m. Từ Hà Nội vô thành phố Sài Gòn, anh chỉ có đủ tiền để làm một gánh phở ở đầu ngõ. Mới đầu, anh chả biết một tí gì về cái nghề này. Toàn đi học mót. Hỏi người này, học người kia, rồi tới ăn ở các tiệm phở danh tiếng để thử nghiệm. Phải mất gần một năm anh mới thành thạo.

Phở D. hôm nay nổi tiếng ngang với phở Quyền ở Phú Nhuận. Tiệm của anh có một món đặc biệt : tái bắp. Muốn ăn món này phải đi sớm, bởi 8 giờ sáng là hết. Có một điều ly kỳ là phở D. ăn vào buổi chiều bao giờ cũng ngon hơn buổi sáng. Cả chủ lẫn khách đều công nhận chuyện đó. Hỏi nguyên nhân tại sao ? Anh lắc đầu vì không giải thích được. ”Sáng và chiều cùng một thùng nước lèo. Nửa thùng buổi sáng còn lại, buổi chiều chỉ việc đun sôi, không pha thêm một chút gia vị nào, thế mà nó lại ngon hơn buổi sáng”, anh mỉm cười nói.

Bây giờ thì phở có bề thế lắm rồi. Anh mới tậu thêm một ngôi nhà ở đầu hẻm. Phở là một đặc sản của Việt Nam. Đó là điều ”quốc tế phải công nhận”. Nhưng ông Tây lại bảo nó là “soupe chinoise”, còn ông Tàu thì lại bảo nó là “ngầu phấn” chỉ là tiếng Quảng Đông, phiên âm ra tiếng Hán Việt là “ngưu” (bò hoặc trâu), ”phấn” (bột gạo). Một điều nữa, hỏi ông tổ của nghề phở là ai ? Các ông chủ tiệm phở đều lắc, mặc dù nhờ phở, họ đã có của ăn của để.


PHAN NGHỊ

Wednesday, August 30, 2017

CÁT BỤI


Vào một buổi chiều ngày tháng không còn nhớ, tôi một mình đến rạp Casino xem phim ”Hiệp sĩ mù nghe gió kiếm” tập 6 . Đây là bộ phim nhiều tập, đã xem tập này thì không thể không chờ xem tập khác. Nói chung là tập nào cũng hấp dẫn. Trong 6 tập có đoạn hiệp sĩ mù xuất kiếm giải cứu cho một nàng Kiều xinh đẹp. Cứ mỗi tuyệt chiêu xuất ra là nghe có một tiếng nói bình giả ca ngợi. Đường kiếm như có thêm sức mạnh mỗi lúc một uyển chuyển huy hoàng hơn. Sau khi cứu được nàng Kiều, hiệp sĩ mù quay về phía tiếng nói vái tay chào hỏi. Hoá ra bên vệ đường dưới gốc cây to có một người mù khác đang ngồi xếp bàn, trên hai chân có cây đàn bọc trong bao vải gác ngang. Người nghệ sĩ mù có nhã ý chơi một bản đàn tặng hiệp sĩ mù. Hai người bèn kéo nhau vào một khu rừng gần đấy. Hình như rừng vào thu nên các cành đều trơ lá, chỉ thấy một đám lá vàng đỏ trải dài trên mặt đất. Hai người ngồi tựa vào hai gốc cây đối diện nhau. Tiếng đàn cất lên như một lời than thở ngậm ngùi về đất trời, về kiếp người. Tiếng đàn nửa chừng bỗng đứt giây. Người nghệ sĩ mù nói : có kẻ bất thiện dang nghe lén. Quả đúng như vậy, có một tên gian đang rình rập hiệp sĩ mù. Thế là hai người lặng lẽ chia tay.

Hết phim, tôi tản bộ ngang trên đường phố. Không hiểu sao cái đoạn phim ngắn ngủi ấy khiến tôi buồn buồn. Chiều tôi về nhà, sau khi ăn, tôi ngồi đọc lại cuốn “ Zorba le Grec”. Đến đoạn Zorba than thở : “ Chim đa đa ơi thôi đừng hót nữa, tiếng hót mày làm tan nát tim ta”, tôi bỗng gập sách lại và không đọc nữa. Có một cái gì đó thật trùng hợp trong cùng một buổi chiều. Một nỗi buồn hay một điều gì đó gần với sự rời xa ly biệt đang cựa mình thức dậy trong tôi.Tôi lại ra đường tìm một góc quán quen thuộc ngồi. Trên đường trở về nhà, trong đầu bỗng vang lên một tiếng hát. Tôi lập đi lập lại nhiều lần trong đầu, hát thành tiếng khe khẽ. Đến khi về nhà ghi lại thì bài hát đã gần như hoàn chỉnh. Sáng hôm sau mang hát cho một số bạn bè nghe, hầu như ai cũng thích.




Đó là câu chuyện sự ra đời của bài “ Cát bụi”.

Mỗi bài hát đều bắt nguồn từ một duyên cớ nào đó. Có khi từ một câu chuyện không đâu.

Bây giờ thì người hiệp sĩ mù kia đã chết rồi. Khoảng hai năm nay. Người viết Zorba đã qua đời dĩ nhiên con chim đa đa kia cũng đã chết. Và nếu Zorba là một con người có thật được Nikos Kazantzakits tỉểu thuyết hoá thì nay ông cũng mất rồi.

“ Tiếng động nào gõ nhịp không nguôi…”

Thời gian đã nghiền nát tất cả thành cát bụi hết rồi. 

TRỊNH CÔNG SƠN
Tạp chí Thế Giới Âm Nhạc, số 1-1998



THÁC NƯỚC IGUAZU


Thác nước Iguazu hay Iguazú, Iguassu, Iguaçu (tiếng Bồ Đào Nha: Cataratas do Iguaçu (phiên âm: kataɾatɐz du iɡwasu); Tây Ban Nha: Cataratas del Iguazú (phiên âm: kataˈɾatas ðel iɣwaˈsu); Guarani: Chororo Yguasu (phiên âm: ɕoɾoɾo ɨɣʷasu) là thác nước nằm trên sông Iguazu, biên giới của bang Paraná của Brasil và tỉnh Misiones của Argentina. Sông Iguazu chảy từ khu vực núi gần thành phố Curitiba hợp lưu với sông San Antonio hình thành ranh giới tự nhiên giữa Argentina và Brazil.
Cái tên "Iguazu" xuất phát từ tiếng Guarani hoặc Tupi "y", có nghĩa là "nước", và "ûasú" [wasu], có nghĩa là "lớn". Truyền thuyết kể rằng một vị thần đã kết hôn với một người phụ nữ đẹp tên Naipí, nhưng người đó đã chạy trốn với một người tên là Tarobá trong một chiếc xuồng. Trong cơn giận dữ, thần thái lát sông, tạo ra thác nước này. Một người Tây Ban Nha Álvar Núñez Cabeza de Vaca đạt được danh hiệu conquistador là người tìm thấy thác nước này vào năm 1541. (Theo Wikipedia)

Nổi tiếng trên toàn thế giới, Iguazu là một trong những thác nước thiên nhiên hùng vĩ và cao ngoạn mục, được nhiều người viếng thăm nhiều nhất ở Nam Mỹ.


Đây là thác nước của sông Iguazu, nằm trên đường biên giới của hai nước Brazil và Argentina. Thác Iguazu cao và rộng hơn so với thác Niagara, thác có hai tầng gồm nhiều ngọn nước lớn nhỏ khác nhau với hình dạng móng ngựa.

Thác Iguazu là kết quả của vụ phun trào núi lửa để lại vết nứt trong lòng đất. Trong mùa mưa từ tháng 11 đến tháng 3, tỉ lệ dòng chảy của nước xuống thác có thể lên đến 450.000 mét khối mỗi giây.


Tên thác được người bản địa Guarani gọi là Iguazu có nghĩa là "nước lớn". Truyền thuyết kể rằng một vị thần đã lên kế hoạch kết hôn với một người phụ nữ phàm trần xinh đẹp tên là Naipi, nhưng cô gái này không chấp nhận mà chạy trốn cùng người yêu của mình, và cuối cùng chết trên một chiếc thuyền. Trong cơn giận dữ, vị thần này đã thái lát con sông thành những thác nước để trừng trị những người yêu nhau vĩnh viễn. Đó là truyền thuyết cho sự hình thành thác nước Iguazu này. Người Tây Ban Nha phát hiện ra thác này đầu tiên vào năm 1541.


Hệ thống thác gồm 275 thác lớn nhỏ đổ dọc xuống. Một số thác nước riêng lẻ có chiều cao lên đến 82 m, còn đa phần là khoảng 64 m. Hết hai phần ba thác nước nằm trong phạm vi lãnh thổ Argentina, cũng có khoảng 900 m chiều dài là nước không chảy qua đây.

Hạn hán là mối quan tâm đầu tiên khi nói đến thác này, hàng năm hạn hán thường xảy ra, khiến cho nước của sông giảm xuống thấp, hiện tượng này thường kéo dài một vài tuần. Khi nước rút xuống để lộ ra những vách đá bazan bị mòn đi khoảng 3 mm một năm. Nhưng muốn quan sát thác vào thời điểm đặc biệt này, bạn cần phải biết rõ thông tin hơn về mực nước trước lúc viếng thăm.


Thiên đường tự nhiên này mang đến cho bạn vô số cảm giác mạnh và hứng thú. Để có thể quan sát toàn cảnh thác Iguazunằm ở hai quốc gia, cách tốt nhất là đi trực thăng, máy bay hoặc cũng có thể chèo thuyền ra giữa dòng thác.


Một phần của thác là hệ sinh thái rừng được bảo vệ bởi công viên quốc gia Brazil và Argentia ở hai bên thác. Bạn có thể tham quan công viên quốc gia nằm bên phía Argentina, có những con đường mòn vào rừng. Một ngày trong công viên để bạn khám phá và tận hưởng trọn vẹn hệ động thực vật hoang dã. Các công viên quốc gia nằm ở hai nước này được UNESCO công nhận là di sản thế giới vào năm 1984 và 1986.


Theo Bưu điện Việt Nam

VĂN HÓA CÀ PHÊ VIỆT

Người ta nói: Thêm đường hết đắng.
Nhưng ngọt ngào đâu có phải Cà Phê?
Giọt đắng này, giọt của si mê.
Như giọt đời, giọt mưa, giọt nắng…


Thật lạ, con người thường đam mê những thứ đắng cay, không mấy ai nghiện ngập ngọt bùi. Có phải cuộc đời nhiều mặn nồng, nhiều thăng trầm cay đắng, cho nên con người tìm đến những thứ đắng cay để dung hòa cảm xúc? Còn hơn thế, Cà Phê có đủ vị đắng để giúp ta suy tưởng, có đủ độ nồng để tạo cảm giác bồng bềnh, có đủ độ chua để nghĩ về thất bại, có đủ độ mặn để nhớ về đất mẹ, và có đủ độ ngọt ngào để ta cảm thấy được yêu thương…

Cảm ơn các vị linh mục Tây phương đã đem cây Cà Phê từ cao nguyên Ethiopia xa xôi mãi tận Phi Châu vào đất Việt. Nghe nói ban đầu loại cây quý giá này chỉ được trồng tại vườn của các nhà thờ Phía bắc Việt Nam từ khoảng cuối những năm 1880. Sau này, tức là đến khoảng những năm 1920 cây Cà Phê mới được trồng đại trà ở Đak Lak và Gia Lai – Kon Tum. Giống như tại hàng trăm quốc gia uống Cà Phê trên thế giới, văn hóa Cà Phê đã hình thành ở Việt Nam như một điều tất yếu từ món quà tuyệt vời do tự nhiên ban tặng.

Hoàn cảnh sống đã tạo nên văn hóa Cà Phê Việt. “Cà Phê nhanh” dành cho những người bận rộn, được đựng trong các ly cốc sử dụng 1 lần, thường đi kèm với “nhạc đệm” là bánh mỳ Pa-tê, bánh mỳ ốp la, họ uống nó như một loại Food cung cấp dinh dưỡng và khoáng chất cho cơ thể thêm khỏe mạnh và năng động. Loại này thường là Cà Phê đá, hoặc Cà Phê sữa đá.“Cà Phê đường phố”, thường là Cà Phê đen, loại Cà Phê bình dân nhất và cũng có đông “đệ tử” nhất, chỉ đông vào buổi sáng, trước giờ làm. Cà Phê loại này thường được pha phin trong những chiếc ly thủy tinh bình dị, xinh xinh nho nhỏ. Bên cạnh không bao giờ thiếu một ấm trà nóng sẵn sàng…



“Cà Phê tự tình” dành cho các đôi nam nữ chuyện trò tâm sự. Ly Cà Phê ấy, nếu là Cà Phê đen thì phải pha vào tách kiểu ưa nhìn một chút. Người pha phải dùng một loại chong chóng quậy mạnh để tạo bọt, trang trí chút kem, hay bọt của Cà Phê Master hình chiếc lá hoặc trái tim. “Cà Phê tự tình” thường bắt đầu từ khoảng 8 giờ tối đến tận đêm khuya.“Cà Phê tự sự” là uống một mình, suy tưởng, hoài niệm. Người uống biệt riêng những phút giây tự đối diện với cuộc sống nội tâm của mình…

Đa dạng là văn hóa Việt. Nhưng ngày nay nó đã bị mai một, biến dạng vì mất đi cái gốc rễ cội nguồn. Nhưng rất may là “văn hóa Cà Phê Việt” vẫn là điều đáng để người đời trân trọng. Dường như có một sức mạnh thần bí nào đó đã làm cho bất kỳ ai khi đang ngồi trước ly Cà Phê đều trở nên nhã nhặn, hiền lành, dễ mến. Người ta thường quên mất tuổi tác, địa vị, cũng như giai cấp của mình khi trước mặt là một ly Cà Phê bốc khói đang tỏa mùi hương quyến rũ. Đó thực sự là triết lý, và là sức hút hữu hình của Cà Phê.



Không giống như phong cách Cà Phê Starbuck của Mỹ, hay phong cách Milan của Ý. Hoặc kỳ lạ là đổ đường, Cà Phê vào đun chung như phong cách Thổ Nhĩ Kỳ. Cà Phê Việt hầu hết được pha theo phong cách Pháp, tức là dùng phin. Thích thú và hồi hộp chờ từng giọt Cà Phê rơi tí tách, là sở thích đặc biệt của dân “ghiền” Cà Phê. Muốn cho Cà Phê giữ được độ hấp dẫn, người ta thường ngâm chiếc ly của mình trong một cái chén (bát) nước nóng…

Khi những giọt đắng cuối cùng trên phin ngưng chảy, cũng là lúc chúng ta sắp sửa có quyền thưởng thức ly Cà Phê tuyệt vời. Một chút đường trắng, chiếc muỗng nhỏ xíu như đồ chơi trẻ em trên tay, ta khuấy nhẹ, thật nhẹ thôi, thả lỏng toàn thân cho tâm hồn thư thái. Và khi nâng ly Cà Phê lên môi, một mùi thơm ngất ngây pha chút ngai ngái, ngầy ngậy lan tỏa trong khoang mũi, cộng với vị đắng dịu dàng trên môi, ta cảm nhận hương vị Cà Phê đang tan ra trong miệng, thấm sâu vào tận trái tim khối óc. Lâu lâu nhấp một ngụm nhỏ để lặp lại cảm giác tuyệt diệu này, đó quả là những phút giây hạnh phúc…

Công năng kỳ diệu đến thần bí của Cà Phê có lẽ là nhờ nó đã làm cho con người thư thái. Chính vì vậy trước ly Cà Phê, một gã giang hồ cộm cán cũng trở nên hiền lành. Người đang nóng giận cũng trở nên mềm mại. Người đang buồn chán cũng trở nên yêu đời. Và người mệt mỏi bỗng thấy tràn đầy sinh lực. Chính điều đó đã giúp cho văn hóa Cà Phê Việt đứng vững trước những băng hoại của lối sống gấp gáp, hối hả, vội vàng…



Ở Việt Nam, nói đến Cà Phê thì phải nghĩ ngay đến Sài Gòn và các tỉnh từ Nam Trung Bộ trở vào. Văn hóa Cà Phê đã gắn liền với đời sống đa dạng của người Miền Nam, giống như Trà (Chè) của Miền Băc vậy. Sài Gòn có hàng ngàn quán Cà Phê khác nhau. Người ta có thể mua được Cà Phê bất cứ lúc nào, bất cứ nơi nào không quá phạm vi bán kính vài trăm mét.Sở thích buổi sáng của người dân Sài Thành chính là “Cà Phê đường phố”, vừa uống Cà Phê vừa ngắm dòng người xe qua lại, có lúc nhìn mà không nhìn, nghe mà không nghe. Người ta cũng có thể biết được kết quả bóng đá cúp Champions league tối qua ra sao, nhà ông nọ mới bị trộm đột nhập, một diễn viên nổi tiếng dính Scandal tình ái, biểu tình chống Trung Quốc ở Hà Nội, hay công an vừa bắt giữ Giáo Dân tại Vinh. Tất tật tin thời sự có thể biết được quanh ly Cà Phê buổi sáng.

Ở Sài Gòn còn có những quán Cà Phê “xịn” cả về phong cách cũng như chất lượng. Rất tiếc nó lại thường chỉ mở cửa về chiều và ban đêm. Có thể kể đến hệ thống tiệm Cà Phê Trung Nguyên, mà ở đó người ta uống Cà Phê theo số từ 1 đến 8; nhưng đã là dân ghiền thì dứt khoát chỉ uống số 6 mà thôi. Nổi bật là số 2A Nguyễn Huệ, Quận Nhất, và hàng chục địa điểm khác bố trí rải rác trong thành phố. Tìm chút phong cách nghệ sỹ, văn thơ, ta có thể đến “Cà Phê Du Miên” Hẻm Trịnh, Giọt Đắng, Mưa Chiều, Đợi, Lối Về vv.., hàng trăm cái tên đầy màu sắc. Nhưng có vẻ như những chốn ấy chỉ hợp với dân chơi và khách du lịch, phù hợp phong cách “tự tình”, “tự sự”…



Những người thích thoáng đãng thường chạy xe ra bờ sông Sài Gòn uống Cà Phê Bến Nghé, Thủ Thiêm. Vừa thưởng thức Cà Phê, hít thở khí trời, vừa cảm nhận cái mùi mặn nồng tanh tanh của sông nước, trải hồn theo những con sóng nhỏ nhấp nhô. Xa xa phía Quận 2; những con phà đêm đang cần mẫn đưa người qua sông đến với Quận Nhất và Quận 3; là trung tâm náo nhiệt nhất Sài Gòn.

Dù là ta đang ngồi ở quán Cà Phê tầng thứ 33 của Sài Gòn Central Quận Nhất, hay Cà Phê Chiều Tím Quận 5, hoặc trong một quán cóc rêu phong gần cầu Xóm Củi Quận 8, thì hàng đầu vẫn phải nhắc đến, đó là chất lượng một ly Cà Phê Việt. Ly Cà Phê Việt phải có phong cách Việt. Nếu phong cách “Tây” quá thì hẳn là nó chỉ phù hợp với người phương tây. Nhưng nói đến Cà Phê Việt thì nhất thiết phải nhắc đến Cà Phê đen, và không thể không nhắc đến Tây Nguyên là thủ phủ của Cà Phê Việt Nam.

Tuy một vài năm gần đây cũng xuất hiện nhiều các quán Cà Phê phong cách tại Ban Mê Thuột, Pleiku, Đà Lạt. Nhưng giới uống Cà Phê nhiều nhất và sành uống nhất vẫn là dân lao động và công chức Tây Nguyên có gốc gác di dân từ các tỉnh Bình Định và Quảng Ngãi. Cái mà không đâu có được, chính là người uống Cà Phê ở Tây Nguyên có thể ngồi ngay cạnh vườn Cà Phê để uống. Nhất là vào mùa Cà Phê ra hoa, hoa Cà Phê nở rộ trắng ngần, tỏa hương thơm ngát, quyến rũ bao loài ong bướm lạ mắt từ đâu đổ về lấy nhụy làm mật, làm cho những nhành hoa cứ luôn lay động, như có hơi gió sớm thoảng qua. Những cảnh đẹp đẽ thơ mộng ấy nếu muốn thì có thể tìm thấy ngay tại ngoại ô các thành phố như Pleiku hay Ban Mê Thuột, chứ chẳng cần phải chạy xe đến tận các biệt khu trồng Cà Phê xa xôi…



Phải chăng văn hóa Cà Phê Việt tồn tại và phát triển là do tâm hồn người Việt? Điều đó rất đúng. Nhưng còn một yếu tố khác làm nên văn hóa Cà Phê, đó là nhờ triết lý Cà Phê và sức mạnh quyến rũ đầy nhân tính của hạt Cà Phê. Sự kỳ diệu đó là món quà vô giá mà tạo hóa đã ban tặng cho con người. May mắn cho người dân Việt là họ được thiên nhiên ưu đãi cho những vùng đất đỏ Bazan thật là thích hợp với cây Cà Phê như Cao Nguyên Trung Phần. Trải qua bao nắng mưa dầu dãi, thấm đượm mồ hôi người trồng. Trải qua đau đớn trong lửa, nước, xay nghiền, không giống như Gạo sau xay giã thì trắng như ngà ngọc. Cà Phê tuy mang màu đen sẫm, nhưng trong lòng lại chan chứa bao thi vị cuộc đời...



(Sưu tầm trên mạng)

TÚI NHỎ Ở QUẦN JEAN CÓ TÁC DỤNG GÌ?


Nhiều người nghĩ đó là túi đựng bao cao su, thực tế là sao, chúng mình cùng tìm hiểu nhé!

Năm 1873, Levi Strauss và Jacob Davis nhận bằng sáng chế ra chiếc quần jeans. Đến năm 1890, thương hiệu Quần jean Levi’s ra đời cũng là thủy tổ của các kiểu quần jeans hiện đại ngày nay. Quần jeans cũng đánh dấu một phong cách mới về túi đính trên quần và nó được gọi tên là: Phong cách quần 5 túi.


Ngoài hai chiếc túi sau lưng, hai túi phía trước thì chiếc túi nhỏ đính trong túi lớn bên phải được cho là có nhiều tác dụng như: đựng tiền xu, đựng vàng và còn được cho là đựng bao cao su. Nhưng thực tế, hãng Levis đã gọi tên đó là chiếc túi đựng đồng hồ (Fob pocket), vì thời đó đồng hồ vẫn chưa đeo vào tay, mà chỉ có thể bỏ vào túi..^^.
Nấm (sưu tầm)

Tuesday, August 29, 2017

TỪ CÔNG PHỤNG TRỞ LẠI

Từ Công Phụng (sinh ngày 27 tháng 7 năm 1942) là một nhạc sĩ người Chăm Việt Nam nổi tiếng. Ông là một trong những nhạc sĩ tiêu biểu cho Tân nhạc Việt Nam giai đoạn 1954 – 1975 cùng với Phạm Duy, Ngô Thụy Miên, Vũ Thành An, Trịnh Công Sơn, Lê Uyên Phương…; là tác giả của các ca khúc trữ tình được nhiều người biết đến như Bây Giờ Tháng Mấy, Mắt lệ cho người, Giọt Lệ Cho Ngàn Sau, Trên ngọn tình sầu, Mùa xuân trên đỉnh bình yên,…


Ông tham gia sáng tác nhạc từ năm 1960.

Ông rời Việt Nam từ tháng 10 năm 1980 và hiện đang định cư tại Portland, Oregon, Hoa Kỳ. Năm 1998, ông có trở về thăm quê hương Ninh Thuận nhưng không tham gia hoạt động âm nhạc. Tháng 5 năm 2008, ông có trở về Việt Nam và biểu diễn trong chương trình “45 năm tình ca Từ Công Phụng” tại một phòng trà có tiếng ở Sài Gòn.

(Wikipedia)

TỪ CÔNG PHỤNG TRỞ LẠI

Cách đây gần năm năm, vào mùa hè năm 2008, lần đầu tiên nhạc sĩ Từ Công Phụng về hát trên quê hương sau 28 năm xa cách. Đêm đó, trong một phòng trà ở Phú Nhuận, giữa lúc ngoài trời mưa nhỏ hạt, những người yêu nhạc Từ Công Phụng bỗng thấy lòng mình chùng xuống khi nghe người nhạc sĩ tóc đã pha sương hát Mắt lệ cho người: “Mưa soi dấu chân em qua cầu. Theo những cánh rong trôi mang niềm đau…”

50 năm, bao nhiêu cánh rong đã theo nước chảy dưới cầu. Như Từ Công Phụng từng viết, thời gian là “dòng sông trôi đi vô tình mang tất cả…”. Nhưng âm nhạc sinh ra là để lưu giữ những phút giây hạnh ngộ và làm hồi sinh những cuộc tình đã chết. Những tình nhân năm xưa và người nhạc sĩ của họ nay đã chớm tuổi già. Nhưng mối tình trong bài hát Từ Công Phụng thì vẫn trẻ. Trẻ và hẹn ngày trở lại.



Lần đó, chính Từ Công Phụng đã hẹn là sẽ còn quay về với khán giả yêu quý của mình, trong đó có những lứa đôi tình nhân mới đang tìm đến trú ngụ trong âm nhạc của ông. Và hôm nay, sau cơn bạo bệnh mà ông đã vượt qua bằng chính tình yêu cuộc sống và tình yêu âm nhạc, Từ Công Phụng đã không lỗi hẹn với tất cả chúng ta.

Từ Công Phụng là một tài năng đặc biệt của âm nhạc Việt Nam. Là người tự học để sáng tác nhạc, ông nổi tiếng ngay từ ca khúc đầu tay, viết năm 1960 khi ông vừa 18 tuổi: Bây giờ tháng mấy. Từ Phan Rang, Từ Công Phụng vào Sài Gòn, trở thành sinh viên Luật khoa, và trong lần trình diễn ra mắt ở khuôn viên Trường Đại học Văn khoa trên đường Gia Long, nơi ngày nay là Thư viện Khoa học Tổng hợp, Từ Công Phụng đã được khán giả trẻ đón nhận nồng nhiệt. Năm 1970, NXB Tổ hợp Gió đã ấn hành hai tuyển tập ca khúc của ông: Trên ngọn tình sầu và Tình khúc Từ Công Phụng. Sự nghiệp của ông có gần 150 ca khúc, trong đó hai phần ba sáng tác ở Việt Nam vào những năm 60 và 70 thế kỷ trước, phần còn lại sáng tác ở hải ngoại, nhưng ông chỉ mới xin phép phổ biến chính thức 20 bài trong số đó. Sau nhiều chuyến lưu diễn ở Hoa Kỳ, Canada, Pháp, Đức và gần đây là Australia, đêm nay Từ Công Phụng cùng hai danh ca Ý Lan, Tuấn Ngọc tái ngộ và trao tặng khán giả 18 ca khúc của ông.


Nối tiếp con đường của tân nhạc Việt Nam khởi phát từ trước năm 1945, trong một bối cảnh bất an của thời chiến, Từ Công Phụng đã chọn vẻ đẹp cổ điển để biểu hiện tình yêu. Mỗi người chỉ có một thời để yêu và một thời để hát. Nhưng khi đi hết cõi yêu của mình trong thế giới âm thanh Từ Công Phụng, người ta có thể đạt tới cảm xúc về vĩnh cửu. Bởi tình yêu là cảnh sắc của một thời mà cũng là của muôn thuở.

Cũng như trong ca khúc của các nhạc sĩ đương thời, nhiều lần hình và tiếng của mùa thu, của giọt mưa và nước mắt trở về trong tình khúc Từ Công Phụng. Nhưng với ông, đó là một mùa thu khác: “mùa thu đã trở mình trên gót nhỏ, dìu em đến người bằng vòng tay nâng niu hạnh phúc…”. Cơn mưa trong âm nhạc của ông như rơi xuống từ một cõi nào xa xôi lắm: “mưa như cơn lạc loài rơi xuống tình muộn màng…”. Và cùng với mưa là những giọt lệ: “lệ này em sẽ khóc ngàn sau”.


Ca từ của ông ít mang dấu vết cụ thể của thời hiện đại, đến độ có khi ta thấy như đó là ánh hồi quang từ một tình yêu thấp thoáng ở một chân trời viễn mộng. Nhưng đó vừa là giấc mơ mà cũng vừa là những hình ảnh có thật, vì đó chính là hình ảnh cuộc tình của mỗi người chúng ta phản chiếu trong ca khúc của ông. Thành ra tình yêu trong âm nhạc Từ Công Phụng là một cái gì phi thời tính. Khi người tình nhân hỏi bâng quơ “bây giờ tháng mấy rồi hỡi em, anh đi tìm màu hoa em cài”, thì đó là màu hoa vĩnh cửu, có thể đi tìm trong vô tận, đâu có nề chi những tháng ngày!

Khác với Trịnh Công Sơn và gần với Cung Tiến, nhạc Từ Công Phụng thường dùng gamme majeure. Dù viết nhiều về những mối tình muộn phiền và dang dở, nhạc Từ Công Phụng ít dằn vặt mà nhiều bâng khuâng và thanh thoát. Sau những hoang mang (Đường về ngày mai xa lắm, tương lai chưa vừa tầm hái tay này…), rồi có lúc nhạc Từ Công Phụng an ủi và khích lệ chúng ta (Rồi mai có một lần tôi đưa em, đưa em về miền nắng ấm, những con chim thôi ngủ sau mùa đông lạnh căm…). Có thể nói Từ Công Phụng là người thu nhặt những mảnh vỡ của tình yêu để tái tạo chính nó, hơn thế, để vinh danh và làm sáng danh cho tình yêu.


Đêm nay, nghe lại Từ Công Phụng, ta như thấy tuổi trẻ mình lên tiếng. Và thật ra thì đâu phải Từ Công Phụng trở lại. Nhạc tình của ông vẫn ở đây, như đã từ lâu lắm, trên những cánh sao trời, trong những áng mây, trên những lối rêu xưa mờ dấu chân người.

Trong ngậm ngùi kỷ niệm.

Huỳnh Như Phương
19/01/2013