Thursday, January 25, 2018

VƠI CHÉN QUAN HÀ NHỚ DƯƠNG QUAN XƯA

Cùng thời, cùng xếp ngang hàng với những Thi tiên Lý Bạch, Thi thánh Đỗ Phủ… ít người Việt biết đến Thi Phật Vương Duy, nổi tiếng vì những áng thơ tinh tế trang nhã đẫm chất thiền cũng như sự tinh thông Phật học của ông.

Một đoạn thành xưa, khúc cuối miền viễn tây Vạn Lý Trường Thành, chỉ với bùn và cỏ vẫn tồn tại trong sa mạc khắc nghiệt.

Tôi cũng chỉ lõm bõm đâu đó vài câu chữ gần 1.400 năm tuổi vì thấy hợp cảnh hợp tình khi lơ ngơ đọc chứ không thuộc bài nào.

Chẳng hiểu sao buổi chiều Gobi mịt mờ ngày lang thang hành lang Tây Hạ nghe bác tài taxi giới thiệu điểm đến ngoài cung đường thống nhất từ đầu là thành Dương Quan, tôi chợt nhớ, gật đầu cái rụp. Dù thiệt tình là chỉ láng máng hai câu thơ chợt bật ra, dùng thuyết phục cậu người Pháp đi chung đang nằng nặc đòi về. Chắc cũng cám cảnh lang bạt mấy tháng trời một mình nhớ cố hương, bạn bè… anh chàng đồng ý móc ví sau khi nghe tôi hoa tay múa chân 5 phút để “dịch” – “Xin vơi một chén quan hà. Dương Quan chốn ấy, ai là cố nhân” (1). Và thành Đôn Hoàng đêm đó, không chỉ một chén cạn mà cả một đống chai lọ.


Khi đã lùi xa, mờ dần những nét cứng, phai bớt sắc mới, Dương Quan được nhấn nhá bởi chút duyên phai của tháp đổ, đồi hoang, cát bụi và cỏ khô.

Ngẩn ngơ chốn thành xưa Dương Quan

Chúng tôi đến Dương Quan nắng chiều nhuộm hoang hoải miền sa mạc bình thường đã vàng cát vàng đất. Nằm cách Đôn Hoàng 70km phía tây nam, pháo đài biên ải Dương Quan được xây dựng những năm 120 Tr.CN thời Hán Vũ Đế, dù có tài liệu cho rằng cổ xưa hơn. Cùng Ngọc Môn Quan cả hai là cửa ngõ phía tây quan trọng nhất đất Trung Nguyên vì biên giới thời đó dừng ở đây. Qua khỏi Dương Quan là xứ Tân Cương hiểm trở hoang vu. Đó là lý do Vương Duy đã làm áng thơ Vị Thành Khúc nổi tiếng tiễn bạn thân đi nhậm chức miền biên ải cách xa nghìn trùng.


Đêm Đôn Hoàng rực rỡ sắc màu, cứ nhớ về miền hoang lạnh biên ải.

Rất dễ nhìn thấy Dương Quan từ xa do pháo đài nằm ở vị trí chiến lược trên dãy Alkin Snoro nhô lên giữa sa mạc. Ải Dương Quan đông đúc tấp nập từ khi thành điểm dừng trên Con đường tơ lụa, cùng với chính sách giãn dân của các hoàng đế Trung Hoa. Hành trình Tây Du thỉnh kinh của cao tăng Huyền Trang từng ngang qua, ghi lại trong Đại Đường Tây Vức ký. Thời còn hùng tuấn giữ vai trò chiến địa quan trọng, người xưa đã xây tường thành nối Dương Quan với Ngọc Môn Quan. Được cho là khúc cuối của Vạn Lý Trường Thành, phần xưa cổ nhất nhì ở miền biên viễn dài 64km này chỉ làm từ cỏ và bùn vẫn tồn tại nhiều mẩu sau hơn 2.000 năm giữa sa mạc khắc nghiệt quả là kỳ tích của người xưa. Ngày đó, cứ chừng 5km có một tháp canh sừng sững. Giờ chìm trong cát bụi. Chỉ duy nhất chiếc tháp hoang phế trên ngọn Dun Dun có thể nhìn thấy từ Dương Quan bây giờ.

Dâu bể thời gian, chiến chinh khốc liệt miền biên ải, thành Dương Quan bị tấn công, tàn phá những năm 900. Sự mở rộng biên giới, những cung đường thương mại mới… thành xưa chìm vào quên lãng. Chỉ tồn tại trong những áng thơ xưa, điển tích cũ… và giờ là sự ngẩn ngơ tiếc của khách du khi đập vào mắt là cái thành mới keng và sáng choang.


Tháp canh xưa trên sườn Dun Dun mang lại chút hương xưa cho Dương Quan.

Duyên phai còn một chút này làm ghi

Tôi và anh chàng Pháp quyết định không mua vé tham quan, sau khi liếc qua những kiến trúc ximăng giả đất, giả gỗ cứng ngắc của cái nguỵ thành mới xây. Chỉ khi lùi ra xa, khi sắc tân kỳ đã nhạt, cũng là lúc may mắn bắt gặp chút duyên cũ thành xưa. Bởi sự mờ sắc nét mới, vì những dấu xưa cũ còn lưu, như tháp canh cổ đổ nát trên sườn Dun Dun, cùng những vỡ hư hoang phế… Cả không khí bàng bạc gió cát sa mạc quấn quíu đám cỏ cằn khô, vần vũ rồi bốc lên bên thành.

Mô phỏng xưa, thành Dương Quan mới nằm bên chân Dun Dun. Ba dãy tường thành vuông chằn chặn với bức tường tự nhiên thứ tư là dãy núi. Những chòi canh nhô cao nhấn nhá làm mềm sự khô cứng khung hình dù mục đích ngày xưa không phải vậy. Những chiến cụ cổ như xe công thành, giàn bắn đá, thang tre, thang dây… rải rác đó đây cố tạo không khí cũ, cũng khá hợp. Màu bùn đất ăn ý với hậu cảnh gần là dãy núi cằn khô với tháp canh xưa đổ gãy, phần phật trên tường thành những cờ đuôi nheo xanh đỏ chấm phá thêm cho sắc hơi đơn điệu. Toàn cảnh là sa mạc chiều hoang hoải dưới cao xanh vời vợi. Văng vẳng nhỏ to tiếng nhạc ai oán nỉ non trong tiếng hú của những cơn gió chiều muộn bắt đầu buôn buốt. May sao chút duyên phai đã cứu rỗi buổi chiều lặn lội sa mạc tìm về miền ký ức ngày xưa cũ.


Ảnh: Internet
Chia tay khi mặt trời đã lưng chừng, lờ mờ trong gió bụi chiều sa mạc, để lại sau lưng Dương Quan vắng vẻ cô độc. Đêm Đôn Hoàng rộn rã đèn màu, đông đúc chát chao khách kẻ chợ, cứ hoài nhớ buổi chiều biên ải hoang vu dù Dương Quan giờ đâu còn thâm u cùng cốc. Mai này xa ngái đường đời, có còn ai “vơi chén quan hà” cùng ta chăng?


Thái Hoãn
Theo TGTT

(1) Trích trong “Vị Thành Khúc”, Vương Duy – bản dịch Trần Trọng San.


渭城曲 - 王維 

渭城朝雨浥輕塵, 
客舍青青柳色新。 
勸君更盡一杯酒, 
西出陽關無故人。 

Vị Thành khúc - Vương Duy

Vị Thành triêu vũ ấp khinh trần 
Khách xá thanh thanh liễu sắc tân 
Khuyến quân cánh tận nhất bôi tửu 
Tây xuất Dương Quan vô cố nhân. 

Bài Ca Vị Thành - Bản dịch của Trần Trọng San

Sáng mưa ướt bụi Vị thành, 
Tươi màu quán khách, liễu xanh rườm rà. 
Xin vơi một chén quan hà, 
Dương quan chốn ấy, ai là cố nhân ? 

Nguồn: Thi Viện


No comments: