Friday, March 30, 2018

CHỮ NHÂN (人) HÀM CHỨA ĐẠO LÀM NGƯỜI

Tinh túy trong nét chữ cổ xưa: Chữ Nhân (人) hàm chứa đạo làm người

Chữ nhân (人) trong tiếng Hán có nghĩa là “người” trong tiếng Việt chỉ cần hai nét bút là viết xong. Kỳ thực, chữ nhân (人) nhìn thì rất đơn giản, nhưng lại hàm chứa đạo làm người vô cùng sâu sắc.


Chữ Hán cổ xưa là chữ tượng hình, tượng thanh. Trong mỗi chữ Hán cổ xưa đều bao hàm một ý nghĩa sâu xa. (Ảnh: Pinterest)

“Chữ Hán” là chữ tượng hình, là văn tự duy nhất hiện nay có thể diễn tả ý, như kể lại một câu chuyện ở trong đó. Mỗi nét bút, mỗi chữ Hán đều ẩn chứa thông tin cực kỳ phong phú.

Theo chiết tự tiếng Trung, kết cấu chữ “人” (nhân) gồm một nét phẩy và một nét mác. Cũng theo lý luận của Đạo gia, phía bên trái là dương bên phải là âm. Bởi vậy nét phẩy bên trái, nét mác bên phải để hợp thành chữ “人” (nhân), đây cũng chính là thể hiện của Đạo.

Nguyên lý thái cực cho rằng tương ứng với âm dương lần lượt là vật chất và ý thức. Đối chiếu với con người chúng ta thì chính là thể xác và tinh thần. Trong đó tinh thần là thuộc về dương, thể xác hay thân thể người là thuộc về âm, dương là thể (chủ thể, chủ ý thức), âm là dụng (thân thể, ứng dụng).

Như thế đối với con người mà nói, tinh thần mới thực sự chính là bản thân mình. Thân thể con người vì có tinh thần mới sống và hoạt động. Bởi vậy trong cách viết chữ “人” (nhân) nét phẩy thường dài còn nét mác thường ngắn, nét phẩy thường cao còn nét mác thường thấp.

Tinh thần mới thực sự là chủ thể của bản thân chúng ta. Bởi vậy, một cuộc sống có chất lượng tinh thần cao mới là điều mà con người cần hướng tới. Lời giáo huấn của các bậc thánh hiền luôn hàm chứa một giá trị tinh thần thâm sâu, lớn lao.

Chỉ một câu ví như “Nhân chi sơ, tính bản thiện” cũng đã có ý nghĩa trải dài suốt mấy nghìn năm trong đời sống các dân tộc Á Đông.

Đối với truy cầu lợi ích vật chất và các thứ dục vọng, người ta chẳng nên quá coi trọng. Coi trọng chúng quá thì hoá thành tự ràng buộc, tự lấy dây trói chặt mình lại, không cách nào thăng hoa. Đề cao tinh thần mới chính là con đường duy nhất thăng hoa hạnh phúc của đời người. Thân thể con người tồn tại được là vì có tinh thần. Tinh thần không phải là nô dịch cho thân thể.

Nếu một người đeo đuổi dục vọng, truy cầu vật chất, tiền tài quá độ, rơi rớt hết cả tinh thần, đạo đức, ý thức thì đã không còn là một người bình thường nữa, đừng nói đến việc có thể làm người trí huệ, kiểu người như vậy chính là “âm thịnh dương suy“. Cách viết của chữ “人” (nhân) sẽ bị đảo ngược, trở thành chữ “入” (nhập). “Nhập” chính là: nhập mê, nhập vào dục vọng, nhập vào ngu dốt, cuối cùng tiến nhập vào địa ngục.

Từ hình chữ mà xem xét, chữ “ nhân’ và thủ ấn song thủ hợp thập là hoàn toàn tương đồng. (Ảnh: Chanhkien)

Ngoài ra, khi sáng tạo chữ “nhân”, người xưa đã truyền tải thông điệp về thái độ đối với Thần cho con người thế gian, từ hình chữ mà xem xét, chữ “nhân” và thủ ấn song thủ hợp thập (chắp tay trước ngực) là hoàn toàn tương đồng. Cũng chính là nói rằng: là con người, chúng ta cần phải tin tưởng vào Thần, đối với Thần cần phải có thái độ tôn kính.

Chữ nhân “人” trong “Khải thư” và chữ “nhân” trong giáp cốt văn (chữ khắc trên mai rùa và xương thú thời nhà Thương, Trung Quốc, thế kỷ 16 -11 TCN) vào 3.000 năm trước đều là 2 chữ vô cùng đơn giản không có gì thay đổi.

Chỉ là chữ “nhân” trong giáp cốt văn mới nhìn thì giống như con người thực sự, hai tay rủ xuống ở trước ngực, cúi khom người xuống. Điều này thể hiện ra triết lý nhân sinh, con người là loài phức tạp nhất, ngay cả hoạ sĩ cũng cảm thán rằng vẽ quỷ dễ, vẽ người khó.

Mọi thứ trong cuộc sống quả thực rất phức tạp, bao chủng loại người, bao chủng loại quan hệ. Ấy vậy mà cả hai chữ “nhân” ở mỗi thời đều vô cùng đơn giản, phải chăng nó đang thể hiện triết lý nhân sinh rằng giữa nhân thế vô thường này thì làm người càng đơn giản thì càng có thể trở thành người chân chính?

Lại nói, đối với những rối ren trong thiên hạ, chỉ cần cúi người đáp một lễ, chẳng phải mọi chuyện sẽ trở nên đơn giản hơn sao? Từ hình họa hai chữ “nhân” đơn giản này, biết đâu bạn có thể nhìn ra nhiều điều khác nữa.

Chữ “nhân” trong giáp cốt văn. (Ảnh: Epoch Times)

Những từ đồng âm với chữ “人” (nhân) là “仁” (nhân), “忍” (nhẫn), “韧” (nhận), “任” (nhậm). Đây đều có thể coi là yêu cầu, quy phạm đạo đức làm người. Theo giải thích của Khổng Tử, cái gọi là “仁” (nhân) chính là yêu thương con người. Lòng nhân ái chính là hạt nhân cơ bản của đạo làm người. Chữ “忍” (nhẫn) chính là chỉ ý khoan dung, độ lượng, có khí phách của người quân tử.

Bởi vì thế giới này vô cùng rộng lớn, rất nhiều người có tính cách và lối sống không nhất định phù hợp với quan niệm của chúng ta, ngay chính lối sống của chúng ta cũng không nhất định là phù hợp với quan niệm của người khác, cho nên mọi người đều nên khoan dung, nhường nhịn, hòa thuận với nhau.

Chữ “韧” (nhận) chính là có ý nói con người cần có ý chí kiên cường, trải qua phong ba, bão táp vẫn không thay đổi, chí vững như bàn thạch. Chữ Nhậm (任) khuyên chúng ta làm người phải có trách nhiệm với cuộc sống của mình.

Con người là thể hiện của Đạo, làm người nên phải có tâm cầu Đạo, cũng nên tu Đạo đắc Đạo, trở thành “Chân Nhân”, đây mới là mục đích duy nhất để làm người.

TinhHoa tổng hợp

No comments: