Sunday, August 18, 2019

TRUNG NGUYÊN TIẾT


Trung nguyên tiết 中元节 còn có biệt danh là “Thất nguyệt bán” 七月半, “Thất nguyệt thập tứ” 七月十四, “Tế tổ tiết” 祭祖节, Vu lan bồn tiết” 盂兰盆会, “Địa quan tiết” 地官节. Tập tục ngày tiết này chủ yếu có tế tổ, thả đèn trên sông, tế vong hồn, đốt vàng mã, tế tự Thổ địa ... “Trung nguyên tiết” là cách gọi theo Đạo giáo, dân gian thế tục xưng là “Thất nguyệt bán” (hoặc “Thất nguyệt thập tứ”), sự ra đời của nó có thể truy ngược lên đến việc sùng bái tổ linh thời thượng cổ cùng với những thời tế tương quan. Tiết kì của nó liên quan đến sự tuần hoàn tiêu trưởng âm dương trong văn hoá cổ, trong Dịch kinh 易经có nói “thất” là số biến hoá, là số phục sinh. Tháng 7 là tháng cát tường, tháng hiếu thân. “Thất nguyệt bán” là tiết nhật dân gian mừng được mùa, tạ ơn đất đai, một số nông sản được dân gian bày ra để tế tổ, dùng gạo mới để dâng cúng, hướng đến tổ tiên báo cáo thành quả thu được vào mùa thu. Tiết này là một lễ tết truyền thống văn hoá tưởng nhớ tổ tiên, hạt nhân văn hoá của nó chính là “kính tổ tận hiếu” 敬祖尽孝.

Nguồn gốc của “Thất nguyệt bán” là Tế tổ tiết trong dân gian thời cổ, còn gọi là “Trung nguyên tiết” là cách nói của Đạo giáo khởi nguồn từ sau thời Đông Hán. Đạo giáo có “Tam nguyên thuyết” 三元说: “Thiên quan thượng nguyên tứ phúc 天官上元赐福, Địa quan trung nguyên xá tội 地官中元赦罪, Thuỷ quan hạ nguyên giải ách 水官下元解厄”. Tên gọi “Trung nguyên” từ đó mà ra, còn Phật giáo gọi là “Vu lan bồn tiết”. Vào thời Đường giai cấp thống trị tôn sùng Đạo giáo, Trung nguyên tiết của Đạo giáo bắt đầu hưng thịnh, từ “Trung nguyên” dần được cố định thành tên tiết, tiết kì tại ngày rằm tháng 7, rồi truyền đến ngày nay.


Nguồn gốc sâu xa của Trung nguyên tiết

Trong Dịch kinh có nói, “thất” là số biến hoá, là số phục sinh. “Thất” là dương số, là thiên số, sau khi khí dương của trời đất tuyệt diệt, trải qua 7 ngày có thể phục sinh. Đó là đạo vận hành của trời đất, lí tuần hoàn tiêu trưởng của âm dương. “Thất” cũng mang theo sắc thái thần bí, như trên trời có “thất tinh” 七星 (Thất tinh cao chiếu 七星高照), tình cảm của con người có “thất tình” 七情, màu có “thất sắc” 七色, âm nhạc có “thất âm” 七音, thi ca có “thất luật” 七律, nhân thể có “thất khiếu” 七窍 v.v... “Thất” cũng là chu kì sinh mệnh của con người, 7 tuổi bắt đầu được dạy dỗ, 14 tuổi bước vào thời kì thanh xuân, 21 tuổi thân thể hoàn toàn thành thục .... Số 7 trong dân gian biểu hiện tính giai đoạn về thời gian, khi tính toán thời gian thường lấy “bảy bảy” làm chung cuộc, cuộc phục sinh. Tháng 7 là tháng cát tường, tháng hiếu thân, còn ngày 14 (nhị thất) là số chu kì của số 7. Người xưa chọn ngày 14 tháng 7 (thất nguyệt bán) tế tổ có liên quan đến số phục sinh này của số 7.


Sự dung hợp nội hàm của Trung nguyên tiết

Tập tục tế tổ vào giữa tháng 7 đã có từ thời cổ, vốn là “Tế tổ tiết” của dân gian, không phải là “Quỷ tiết” 鬼节 (“Quỷ tiết” là cách nói sau này, có thể là từ tư tưởng “Trung nguyên phổ độ khai Quỷ môn quan” 中元普渡开鬼门关 trong Đạo giáo diễn biến mà ra). Thất nguyệt bán tế tổ tiết được gọi là “Trung nguyên tiết”, thì bắt nguồn cách nói của Đạo giáo từ sau thời Đông Hán (khoảng thời Nguỵ Tấn). Trong chư thần của Đạo giáo có Thiên quan, Địa quan, Thuỷ quan, hợp xưng là “Tam quan đại đế”. Họ là đại biểu được Thiên đế phái xuống nhân gian, lần lượt tại “tam nguyên nhật” kiểm hiệu công tội để định ra thưởng phạt giúp Thiên đế. “Thiên quan thượng nguyên tứ phúc 天官上元赐福, Địa quan trung nguyên xá tội 地官中元赦罪, Thuỷ quan hạ nguyên giải ách 水官下元解厄”. Nơi mà Địa quan cai quản là địa phủ, trọng điểm sở nghiệm đương nhiên là chúng quỷ của các lộ. Đem Trung nguyên cùng Thượng nguyên, Hạ nguyên hợp xưng là “tam nguyên”. Theo truyền thuyết, vào ngày Trung nguyên, địa cung mở cửa, cũng là ngày địa ngục mở cửa, chúng quỷ rời khỏi cõi u minh, bị khảo hiệu. Quỷ có chủ sẽ về nhà, quỷ không có chủ sẽ phiêu bạt chốn nhân gian, lẩn quẩn các nơi để tìm thức ăn, do đó mà ngày này cũng gọi là “Quỷ tiết”, tiến hành phổ biến hoạt động tế tự hồn quỷ, thả đèn trên sông để vong hồn quỷ theo đó mà tìm đường về nhà. Các Đạo quán cử hành đại pháp hội long trọng, lập đạo tràng cầu phúc, nội dung là siêu độ linh quỷ vong hồn.


Tháng 7 âm lịch cũng là tháng báo ân, trong Phật giáo có “thiền thất” 禅七, “tịnh thất” 净七, đến bảy bảy bốn mươi chín biểu thị ý nghĩa vô hạn. “Thất” là số biến hoá vô cùng, bao hàm vô tận. Theo cách nói của Phật giáo, ngày rằm tháng 7 là ngày tăng đồ công đức viên mãn. Vào ngày này, đệ tử Phật môn cử hành “Vu lan bồn pháp hội” 盂兰盆法会. Theo ghi chép trong Đại tạng kinh 大藏经, Vu lan bồn là Phạn ngữ, ý nghĩa của “Vu lan” là “đảo huyền” 倒悬 (treo ngược); “bồn” 盆 (chậu) là “pháp khí”. Ý nghĩa của “Vu lan bồn” là khí vật dùng để cứu khổ nạn bị treo ngược, tức ý nói dùng “bồn” đựng đầy trăm vị ngũ quả, cúng dường Phật Đà và chư tăng, để cứu vớt chúng sinh bị khổ nạn chốn địa ngục. Nghi thức này sớm nhất là từ pháp hội Mục Liên 目连 cứu mẹ bắt đầu lưu hành.

Từ xưa tới nay, mọi người rất coi trọng tế tự. Tiết nhật này khởi nguồn từ 3 loại văn hoá: thế tục dân gian, Đạo giáo, Phật giáo, văn hoá tế tự của nó lưu truyền lâu đời, địa vực ảnh hưởng rộng lớn. “Thất” trong chữ số Trung Quốc là một kì số: thất xảo 七巧, thất tinh 七星, thất thái 七彩, thất luật 七律. “Thất” là dương số, là thiên số, sau khi khí dương của trời đất tuyệt diệt, trải qua 7 ngày có thể phục sinh. Đó là đạo vận hành của trời đất, lí tuần hoàn tiêu trưởng của âm dương. Nhưng lâu dần, một số nơi ở Trung Quốc cho rằng tháng 7 là tháng quỷ, là tháng không cát tường, có lẽ là từ tư tưởng “Trung nguyên phổ độ khai Quỷ môn quan” trong Đạo giáo diễn biến mà ra, từ đó lấy ngoa truyền ngoa, thế là có một số nơi cho tháng 7 là tháng “chư sự bất nghi” 诸事不宜 (muôn việc không thích hợp), ví dụ tháng 7 không xuất hành, không khai đao, không kết hôn, không xây nhà, không dọn nhà v.v... Kì thực, tháng 7 là tháng cát tường.


Theo thế tục dân gian, “Thất nguyệt bán” là lễ tết truyền thống văn hoá truy niệm tổ tiên, hạt nhân của nó là “kính tổ tận hiếu”, không quên nguồn gốc. Theo Phật giáo, tháng 7 lại gọi là “Song hỉ nguyệt” 双喜月, “Phật hoan hỉ nhật” 佛欢喜日, “Cát tường nguyệt” 吉祥月. Ý nghĩa về tiết nhật này ở Phật giáo và Đạo giáo có sự giải thích khác nhau, Đạo giáo cường điệu hiếu đạo, Phật giáo coi trọng việc “phổ độ” các cô hồn vô chủ được thả ra từ cõi âm. Tập tục hậu kì của “Thất nguyệt bán” có thể nói là sự dung hợp giữa Đạo giáo và Phật giáo....

Trung nguyên tiết tam tục hợp nhất

Mọi người thường cho rằng, Trung nguyên tiết cũng tức là “Vu lan bồn tiết”; kì thực nhận thức này tồn tại rất nhiều sai lầm. Nói một cách chính xác, Thất nguyệt thập tứ Tế tổ tiết, Trung nguyên tiết và Vu lan bồn tiết được phân ra là tục tín dân gian, Đạo giáo và Phật giáo, cả 3 có quan hệ với nhau chứ không phải là danh xưng khác nhau của một tiết nhật. Từ sau khi Đạo giáo hưng khởi, 2 chữ “Trung nguyên” 中元 trong “tam nguyên thuyết” 三元说 vào thời trung và hậu kì nhà Đường được chính thức cố định thành tên gọi của tiết, đồng thời đem tiết kì ấn định vào ngày 15 tháng 7. Tiết nhật này là tiết nhật tam tục hợp nhất.


Trước khi “Trung nguyên tiết” hình thành, ngày 15 tháng 7 sớm đã được Phật giáo trưng dụng. Tháng 7 theo Phật giáo, nguyên là “Phật hoan hỉ nhật” 佛欢喜日, chứ không phải “Quỷ tiết” 鬼节. Nhưng vì sao Vu lan bồn tiết của tháng 7 trở thành “Quỷ tiết”? Vu lan bồn, là dịch âm từ Phạn văn Ulambana, có nghĩa là “cứu đảo huyền” 救倒悬, tức giải cứu những hồn quỷ bị khổ nạn ở địa ngục. Vào thời Nguỵ Tấn, kinh Phật Vu lan bồn kinh 盂兰盆经 được phiên dịch truyền vào Trung Quốc, trong kinh có câu chuyện “Mục Liên cứu mẫu” 目连救母, đã ngầm hợp với quan niệm đạo hiếu vẫn tồn tại lúc bấy giờ, về sau được Lương Vũ Đế Tiêu Diễn 梁武帝萧衍thời Nam triều đề xướng “tam giáo đồng nguyên thuyết” 三教同源说, đem tiết nhật đó định thành một tiết nhật dân tục. Công năng chủ yếu lúc bấy giờ là cung phụng Phật Tổ. Đến đời Tống mới phát sinh biến hoá, phát triển thành “tiến vong độ quỷ” 荐亡度鬼. Không biết là trùng hợp hay là Đạo giáo phụ hoạ “Vu lan bồn tiết” của Phật giáo, Trung nguyên tiết và Vu lan bồn tiết đều thiết định vào ngày 15 tháng 7. Cho đến hậu thế sau này vẫn cho rằng, cả 2 là hai danh xưng của cùng một tiết nhật. Đồng thời cũng do bởi ý nghĩa và tập tục sớm đã khó phân định, tập tục của cả 2 bắt đầu dùng lẫn lộn.


Sự phát triển lịch sử của Trung nguyên tiết

Nhìn từ những ghi chép trong sách vở, hoạt động tế tổ vào mùa thu đã có từ thời Tiên Tần. Tập tục Thất nguyệt bán tế tổ vốn là sản vật văn hoá bản địa, tiết tục bao hàm trong đó tương đối phức tạp, vừa là thu thường tế tổ tiết của dân gian, lại là Trung nguyên tiết của Đạo gia, Vu lan bồn tiết của Phật giáo, tục Đạo Tăng tam lưu hợp nhất. Trong dân gian có truyền thống “thận chung truy viễn” 慎终追远 (1), cho nên cần tế tổ, nghi thức tế bái thường là cử hành vào trung tuần tháng 7. Như trong Phổ Ninh huyện chí 普宁县志 thời Càn Long 乾隆nhà Thanh có ghi:

Tục vị tổ khảo hồn quy, hàm cụ thần y, tửu soạn dĩ tiến, tuy bần vô cảm khuyết.
俗谓祖考魂归, 咸具神衣, 酒馔以荐, 虽贫无敢缺
(Tục cho là hồn của tổ khảo trở về, chuẩn bị đầy đủ áo giấy, rượu, thức ăn để dâng lên, nhà tuy nghèo nhưng không dám thiếu)

Trong tế phẩm, áo giấy là thứ không thể thiếu. Nhân vì tháng 7 cái nóng bắt đầu dứt, cần phải có áo để chống rét, ở nhân gian thì:

Thất nguyệt lưu Hoả, cửu nguyệt thụ y (2)
七月流火, 九月授衣
(Tháng 7 sao Đại hoả xuống thấp, tháng 9 may áo chống rét)

Thời cổ, Trung nguyên tiết không chỉ mang ý nghĩa quan trọng về độ tín ngưỡng, mà về phương diện thế tục, cũng là tiết nhật có công năng vui chơi được quần chúng tham dự rất đông... (trích) (hết).


Chú của người dịch:

1- Thận chung truy viễn慎终追远:
Câu này xuất xứ từ thiên Học nhi 学而 trong Luận ngữ 论语:
Tăng tử viết: Thận chung truy viễn, dân đức quy hậu hĩ.
曾子曰: 慎终追远, 民德归厚矣
(Thận trọng trong tang lễ cha mẹ, tưởng nhớ đến tổ tiên đời trước, việc đó sẽ khiến bách tính đi đến chỗ trung hậu thành thực)

2- Lưu Hoả 流火: Đại hoả tinh từ hướng nam cao đi dần xuống hướng tây thấp.
Thụ y 授衣: cắt may áo rét. Mã Thuỵ Thần 马瑞辰trong Mao thi truyện tiên thông thích 毛诗传笺通释có nói:
“Phàm nói “thụ y” là đều giao việc làm áo. Thụ y ở đây, cũng là nói là giao việc làm áo. Tháng 9 công việc của phụ nữ đã xong, việc kéo sợi cũng đã hoàn tất, bắt đầu may áo. Không phải nói áo đông vào tháng đó đã thành mà trao áo cho người.”


Dịch giả: Huỳnh Chương Hưng

No comments: