Wednesday, January 1, 2020

BÀI THƠ CHỨC CẨM HỒI VĂN CỦA TÔ HUỆ

Vào thời Hán, ở Trung Quốc, có một vị tướng tên là Đậu Thao, do phạm trọng tội nên bị vua Hán đày biệt xứ ra biên ải. Vợ của tướng quân này là Tô Huệ là một phụ nữ bình dân sống bằng nghề dệt lụa. Từ ngày Đậu Thao bị đày ra biên ải, ngày đêm vò võ ngóng tin chồng, nhưng ngày tháng cứ nối nhau qua mãi mà vẫn biệt âm vô tín.


Dồn nén tất cả thương nhớ vào tâm hồn, bằng tài thi văn của mình Tô Huệ đã viết Chức Cẩm Hồi Văn và dệt lên lụa với nội dung diễn đạt hết sức bi thiết về nỗi nhớ chồng. Có người ra biên ải, Tô Huệ gửi bài thơ ấy cho Đậu Thao. Nhưng người đưa thư cầm thư mà không hiểu nội dung viết gì, e ngại trong thư có lời lẽ phản nghịch, lo sợ vạ lây, nên đã chuyển thư về triều đình.

Thư Chức Cẩm Hồi Văn đến tay vua Hán, sau khi nghiên cứu đọc toàn bộ nội dung, cảm phục trước tấm lòng sắt son và tài thi phú của một người phụ nữ, vua hạ chỉ tha cho Đậu Thao về. Bài thơ thật sự gây được ấn tượng thẩm mỹ cho người xem, người đọc từ hình thức trình bày đến nội dung chữ nghĩa.

Trong các dạng hồi văn của thi ca Hán Nôm, bài Chức Cẩm Hồi Văn của Tô Huệ khá độc đáo bởi sự thể hiện qua một đồ hình lạ lẫm với tất cả 280 chữ (trong đó có 32 chữ lớn, 248 chữ nhỏ). Thoạt tiên, khi nhìn vào, người ta có cảm giác như một họa đồ trang trí, nhưng kỳ thực đây lại là một bài thơ hồi văn được sắp xếp theo một quy ước, một trật tự do người sáng tác tự nghĩ ra.

Lối thơ hồi văn có nhiều biến thể về cách tổ chức dạng hồi văn (có thể là đọc xuôi, đọc ngược, quay đi quay lại nhiều vòng) để có nhiều bài thơ khác nhau; hoặc có nhiều biến thể về hình thức như xếp trong hình tròn, hình vuông, hình tam giác, hình thoi... tạo nên những đồ hình (vừa phô diễn trí tuệ của của thể sáng tạo, vừa thách đố trình độ thưởng thức của khách thể thẩm mỹ). Để tìm ra cách đọc, người ta phải mất nhiều thời gian trong quá trình tìm phương pháp, mỗi một bài thơ lại có một phương pháp đọc được quy ước theo nhiều cách riêng. Bài Chức Cẩm Hồi Văn của Tô Huệ có cách đọc theo trật tự trong lược đồ sau:

Bài thơ còn có một điểm thú vị khác là, điểm xuất phát của bài thơ là chữ quân (chàng); điểm kết thúc của bài thơ là chữ hoàn (trở về) cũng đã tạo nên hai điểm nhấn cho việc diễn đạt cảm xúc cảm xúc, tình ý của toàn bộ nội dung: nỗi tha thiết mong chồng trở về. Chúng tôi xin trình bày nguyên văn chữ Hán gồm 40 câu (đọc theo cáh ở lược đồ đã trình bày) cùng các phần phiên âm, dịch thơ của bài Chức Cẩm Hồi Văn này.


Chức cẩm hồi văn - Tô Huệ

Quân thừa hoàng chiếu an biên thú,
Tống quân tống biệt hà kiều lộ.
Hàm bi yểm lệ tặng quân ngôn,
Mạc vong ân tình tiện trường khứ.

Hà kỳ nhất khứ âm tín đoạn,
Khiển thiếp bình vi xuân bất noãn.
Quỳnh dao giai hạ bích đài sinh,
San hô trướng lý hồng trần mãn.

Thử thời đạo biệt mỗi kinh hồn,
Tương tâm hà thác cánh phùng quân.
Nhất tâm nguyện tác thương hải nguyệt,
Nhất tâm nguyện tác lĩnh đầu vân.

Lĩnh vân tuế tuế phùng phu diện,
Hải nguyệt niên niên chiếu đắc biên.
Phi lai phi khứ đáo quân bàng,
Thiên lý vạn lý dao tương kiến.

Thiều thiều lộ viễn quan san cách,
Hận quân tái ngoại trường vi khách.
Khứ thời tống biệt lư điệp huỳnh,
Nan ngộ kỷ kinh mai hoa bạch.

Bách hoa tán loạn phùng xuân tảo,
Xuân ý thôi nhân hướng thùy đạo.
Thuỳ dương mãn địa vị quân phan,
Lạc hoa mãn địa vô nhân tảo.

Đình tiền xuân tảo chân phân phương,
Bão đắc Tần tranh hướng họa đường.
Vị quân đàn đắc Giang Nam khúc,
Phụ ký tình thâm đáo sóc phương.

Sóc phương thiều thiều sơn hà việt,
Vạn lý âm thư trường đoạn tuyệt.
Ngân trang chẩm thương lệ triêm y,
Kim lũ la thường hao giai liệt.

Tam xuân hồng nhạn độ giang thinh,
Thử thì ly nhân đoạn trường tình.
Tranh huyền vị đoạn trường tiên đoạn,
Oán kết tiên thành khúc vị thành.

Quân kim ức thiếp trọng như san,
Thiếp diệc tư quân bất tạm nhàn.
Chức tương nhất bản hiến Thiên Tử,
Nguyện phóng nhi phu cập tảo hoàn.



織錦回文 - 蘇惠

君承皇詔安邊戍,
送君送別河橋路。
含悲掩淚贈君言,
莫忘恩情便長去。

何期一去音信斷,
遣妾屏幃春不暖。
璚瑤階下碧苔生,
珊瑚帳裏紅塵滿。

此時到別每驚魂,
將心何托更逢君。
一心願作滄海月,
一心願作嶺頭雲。

嶺雲歲歲逢君面,
海月年年照得偏。
飛來飛去到君旁,
千里萬里遙相見。

迢迢路遠關山隔,
恨君塞外長為客。
去時送別蘆葉黃,
難悟已經柳花白。

百花散亂逢春早,
春意催人向誰道。
垂楊滿地為君攀,
落花滿地無人掃。

庭前春草真芬芳,
花得秦箏向蓋堂。
為君彈得江南曲,
附寄情深到朔方。

朔方迢迢山難越,
萬里音書長斷絕。
銀妝枕上淚沾衣,
金縷羅裳縫皆裂。

三春鴻雁渡江聲,
此時离人斷腸情。
箏弦未斷腸先斷,
怨結先成曲未成。

君今憶妾重如山,
妾亦思君不暫閒。
織將一板獻天子,
願訪而夫及早還。


DỊCH THƠ:

Chàng vâng chiếu ra ngoài biên thú
Thiếp đưa chàng kiều lộ xa xa
Mấy lời tặng những châu sa
Tình ân ái ấy biết là nhớ không

Sao một chút tin hồng văn vẳng
Chốn chinh vi xuân chẳng ấm nồng
Dưới thềm lỗ chỗ rêu phong
Trong màng ngang dọc bụi hồng sương che

Khi tống biệt hồn kia kinh hãi
Biết làm sao cho gặp lại cùng
Ước gì như nguyệt bể đông
Ước gì như thế mây hồng đầu non

Mây non, nọ may còn một thấy
Trăng bể kia soi dậy một phương
Những mong lại được gặp chàng
Dẫu nghìn muôn dặm rõ đường tương thân

Đường thăm thẳm mấy lâu xa cách
Giận chàng còn làm khách ải quan
Ngày di lư diệp mới vàng
Bây giờ đã mấy mai tàn trắng bông

Mai tán loạn gặp cùng xuân mới
Nỗi xuân riêng khôn nói cho ra
Vì chàng nên lá dương tà
Hoa rơi man mác ai là tảo nhân

Trước sân những cỏ xuân thơm nức
Ôm đàn tranh ra trước họa đường
Vàng khúc Giang Nam gảy vì chàng
Đem tình cho đến sóc phương cõi ngoài

Ngoài phương sóc xa xôi thăm thẳm
Bức âm thư nghìn dặm thấy đâu
Pha phôi áo lệ gối sầu
Dưới thềm hoa lá cùng mầu nở ra

Qua sông ấy tiếng gà xao xác
Nỗi ly nhân trường đoạn khác đâu
Đàn chưa rối ruột đã sầu
Cho nên một khúc cung sau chưa tròn

Chàng nhớ thiếp như non tình nặng
Thiếp nhớ chàng cũng chẳng tạm khuây
Hồi văn một bức thư này
Nhi phu xin sớm kịp ngày khởi quy.

Bản dịch của Ngô Thế Vinh (1803-1856), Tiến sĩ thời Tự Đức
(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

HẢI TRUNG

No comments: