Saturday, May 31, 2025

TIN VUI BẤT NGỜ CHO NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĂN CAY

Nghiên cứu cho thấy ăn cay ít nhất 4 lần một tuần làm giảm 44% nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch, theo nhật báo Express (Anh).


Cả bệnh tiểu đường và bệnh tim đều là nguyên nhân tử vong hàng đầu trên toàn thế giới. Thậm chí ngay cả bệnh tiểu đường cũng có thể làm tăng nguy cơ đột quỵ.

Quả ớt "nhỏ mà có võ"

Rất may là, có một thứ “nhỏ mà có võ” có thể làm giảm nguy cơ mắc cả hai căn bệnh chết người này.

Nhiều người đang tìm kiếm những thói quen lành mạnh và điều chỉnh lối sống để tăng tuổi thọ.

Đây có thể là một trong những bí kíp có thể thêm vào kho vũ khí giúp chống lại các bệnh nguy hiểm để kéo dài tuổi thọ.

Theo nghiên cứu, thứ “nhỏ mà có võ” có thể chống lại cả bệnh tiểu đường và bệnh tim này chính là ớt, theo Express.

Nghiên cứu cho thấy ăn cay ít nhất 4 lần một tuần làm giảm 44% nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch. Ảnh: Shutterstock

Một nhóm nghiên cứu do tiến sĩ Kiran Ahuja, thành viên nghiên cứu cấp cao tại Trường Khoa học Sức khỏe của Đại học Tasmania (Úc), dẫn đầu đã phát hiện ra ớt có khả năng ngăn ngừa 2 căn bệnh nguy hiểm chết người này.

Theo báo cáo của Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa dịch bệnh (CDC) Mỹ, có thể cắt giảm bệnh tiểu đường bằng cách lựa chọn lối sống phù hợp và chế độ ăn uống lành mạnh.

Một trong những vấn đề chính liên quan đến bệnh tiểu đường là lượng đường trong máu tăng cao.

Capsaicin và dihydrocapsaicin là gì?

Các nhà nghiên cứu đã xác định chính xác 2 thành phần hoạt tính tạo ra hiệu lực của ớt chính là capsaicin và dihydrocapsaicin.

Hai hoạt chất này có khả năng làm giảm lượng đường trong máu và giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường.

Hơn nữa, nghiên cứu còn phát hiện ra rằng ăn cay cũng có thể làm giảm lượng đường trong máu và nồng độ insulin sau bữa ăn.

Trong khi đối với bệnh tim, chất capsaicin và dihydrocapsaicin trong ớt có khả năng làm giảm sự hình thành chất béo lắng đọng trên thành động mạch và ngăn ngừa cục máu đông.

Cả chất béo lắng đọng và cục máu đông đều là những yếu tố nguy cơ gây ra bệnh tim vì hai yếu tố này “thường” là thủ phạm gây ra các bệnh tim mạch, Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh giải thích.

Ớt cũng có thể làm giảm quá trình oxy hóa cholesterol “xấu”, giảm sự hình thành mảng bám trong động mạch.

Tiến sĩ Ahuja cho biết, trong tương lai, chế độ ăn bổ sung đơn giản này có thể hỗ trợ trong việc kiểm soát các bệnh ngày càng phổ biến gồm cả bệnh tiểu đường và bệnh tim.

“Dựa trên nghiên cứu trước đây của chúng tôi, chúng tôi dự đoán rằng việc tiêu thụ ớt ở những người bị rối loạn dung nạp glucose và bệnh tiểu đường loại 2 sẽ giúp cải thiện đáng kể lượng đường trong máu sau bữa ăn, cải thiện mức insulin và các yếu tố nguy cơ khác đối với bệnh tiểu đường và bệnh tim”, tiến sĩ Ahuja nói thêm.

2 hoạt chất trong ớt có khả năng làm giảm lượng đường trong máu và giảm nguy cơ mắc bệnh tiểu đường. Ảnh: Shutterstock

Ớt còn có tác dụng gì?

Một nghiên cứu được công bố trên Tạp chí của Đại học Tim mạch Mỹ cũng đã làm rõ tác dụng của ớt.

Nghiên cứu này cho thấy ăn ớt ít nhất 4 lần một tuần làm giảm 44% nguy cơ tử vong do bệnh tim mạch vành.

Thêm vào đó, nghiên cứu này cũng cho thấy ăn ớt có thể làm giảm tỷ lệ tử vong nói chung.

Dịch vụ Y tế Quốc gia Anh khuyên có thể chống lại bệnh tiểu đường và bệnh tim bằng cách tập thể dục, ăn uống lành mạnh và duy trì cân nặng hợp lý, theo Express.

Thiên Lan / Theo: thanhnien

QUYẾT ĐỊNH DỜI ĐÔ VỀ BẮC KINH, HOÀNG ĐẾ CHU ĐỆ ĐÃ GIÚP MINH TRIỀU TRỤ VỮNG GẦN 300 NĂM

Minh Thành tổ Chu Đệ sau khi lên ngôi đã quyết định dời đô về Bắc Kinh. Quyết định táo bạo này một phần bắt nguồn từ việc Bắc Kinh năm xưa vốn là đất phong vương của ông. Và thực tế đã chứng minh quyết định đó là hoàn toàn đúng đắn.

Thành Bắc Kinh phía Bắc dựa vào núi hiểm, phía Nam khống chế bình nguyên, xung quanh lại có nhiều tiểu bình nguyên, địa thế từng được rất nhiều bậc cao nhân coi trọng. (Ảnh: Sohu)

Vùng đất sinh ra để làm nơi định đô cho thiên tử

Bắc Kinh nằm ở vùng đồng bằng Hoa Bắc, phía Tây Bắc là sơn mạch núi Yến, phía Tây Nam có sơn mạch núi Thái Hành, mặt Nam là bình nguyên Hoa Bắc, hướng Đông lại có vịnh Bột Hải. Ngoài ra quanh đây còn có hai bán đảo Sơn Đông và Liêu Đông ôm lấy Bột Hải, tạo thành tấm lá chắn bảo vệ vững chắc.

Thành này phía Bắc dựa vào núi hiểm, phía Nam khống chế bình nguyên, xung quanh lại có nhiều tiểu bình nguyên, địa thế từng được rất nhiều bậc cao nhân coi trọng.

Thời đầu nhà Nguyên, Ba Đồ Lỗ từng tiến cử với Hốt Tất Liệt: “Yến Kinh (tên cũ của Bắc Kinh) nằm ở nơi hiểm yếu, phía Bắc có núi non hùng vĩ, phía Nam có thể khống chế Trung Nguyên, lại thông với vùng Giang Hoài, liền với sa mạc. Thiên tử phải ở đó trị vì thiên hạ. Nếu vương muốn làm chủ thiên hạ, thì không thể không định đô ở đất Yên”.

Hốt Tất Liệt vì vậy quyết định chọn nơi này làm kinh đô. Bắc Kinh từ đó trở thành thủ phủ của Nguyên triều.

Sau này, Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương đem quân tiến đánh thành Bắc Kinh, Nguyên triều suy vong, giang sơn đổi chủ. Minh triều lúc đầu định đô tại Nam Kinh nên đã tiến hành dỡ bỏ cung điện của của nhà Nguyên để triệt hạ nguyên khí, tránh tiền triều có cơ hội phục hưng.

Bố cục phong thủy thành Bắc Kinh. (Ảnh: Sohu)

Tới khi Minh Thành Tổ Chu Đệ sau khi đoạt ngôi báu thành công đã quyết định dời đô về Bắc Kinh và tiến hành tu sửa, quy hoạch kinh đô này.

Quyết định táo bạo này của Chu Đệ một phần bắt nguồn từ việc Bắc Kinh năm xưa vốn là đất phong vương của ông. Chu Đệ vì vậy mà tin rằng nơi đây có “long yểm” (rồng ẩn).

Trong “Minh thực lục” phần “Thái Tông thực lục” cũng có viết: “Bắc Kinh là đất long hưng của Thánh thượng, phía Bắc gối đầu lên Cư Dung, phía Tây tựa vào Thái Hành, phía đông nối liền Sơn Hải, bao quát Trung Nguyên, đất đai màu mỡ, địa thế sơn xuyên, đủ đế khống chế tứ di, làm chủ thiên hạ, có thể giữ ngôi vương muôn đời”.

Cuốn Vạn Lịch biên soạn thời nhà Minh có đánh giá nơi đây “Xung quanh có biển làm thành trì, có núi Thái Hành che chở, lại gối đầu lên ải Cư Dung, ở giữa khống chế bên ngoài”, còn là nơi “vạn năm cường ngự, muôn đời trị an”.

Quyết định sáng suốt giúp Minh triều kéo dài cơ nghiệp

Xuyên suốt các triều đại phong kiến trong lịch sử Trung Hoa, không ít bậc cổ nhân đã từng ca ngợi Bắc Kinh là vùng đất “phong thủy bảo địa”, là nơi thích hợp nhất để định làm kinh đô.

Việc kinh thành này từng trụ vững sau bao cuộc binh biến đã chứng minh mảnh đất này được “trời định” làm kinh đô.

Hai nguy cơ quân sự từng phát sinh dưới thời Đại Minh này cũng là minh chứng rõ cho sự tất yếu, đúng đắn và sáng suốt trong quyết định dời đô của Minh Thành Tổ Chu Đệ.

Sau khi Nguyên triều diệt vong, quân Nguyên dồn về thảo nguyên Mông Cổ, nhưng vẫn không ngừng mở các đợt tấn công hòng tái chiếm lại các mảnh đất do Minh triều cai quản.

Do đó, việc dời đô về phía Bắc nằm trong toan tính của Chu Đệ, nhằm trấn áp các cuộc nổi dậy của những người ủng hộ Nguyên triều.

Trước khi được chính thức chọn làm kinh đô, Hoàng đế vẫn thường xuyên lưu lại Bắc Kinh, nhiều quan lại trong triều vì vậy mà được bố trí thuyên chuyển công tác đến nơi đây. Bắc Kinh dần dần trở thành trung tâm chính trị của nhà Minh.

Khi chính thức được chọn làm nơi định đô, Minh Thành Tổ Chu Đệ đã tiếp thu kinh nghiệm từ những triều đại đi trước, quy hoạch lại nội thành Bắc Kinh một cách khang trang, bề thế.

Chỉ vỏn vẹn trong 30 năm, Minh Thành Tổ đã tu sửa và kiến tạo nơi đây trở thành một kinh đô tân tiến bậc nhất và sở hữu hệ thống cơ sở hạ tầng, công trình kiến trúc tân tiến nhất trong số các kinh đô của những nước khác trên thế giới thời bấy giờ.

Những công trình kiến trúc nổi bật còn lưu lại tại Bắc Kinh ngày nay như Cố Cung, Thiên Đàng… đều được đặt nền móng từ thời nhà Minh. (Ảnh: Sohu)

Việc lựa chọn Bắc Kinh làm trung tâm chính trị, quân sự không chỉ bắt nguồn từ yếu tố phong thủy mà còn để chống lại sự tấn công của Mông Cổ, đảm bảo sự toàn vẹn của giang sơn, lãnh thổ. Nếu không có bước đi đột phá này, Minh triều chưa chắc đã làm chủ giang sơn Trung Hoa lâu đến vậy.

Việc Bắc Kinh trụ vững sau hai nguy cơ quân sự to lớn dưới đây là minh chứng cho thấy quyết định dời đô của Minh triều là hoàn toàn đúng đắn. Hai cuộc binh biến xảy ra vào năm 1449 và 1550, chỉ cách nhau 101 năm.

Nguy cơ quân sự lớn đầu tiên được sử cũ nhắc đến với tên gọi “Sự biến Thổ Mộc Bảo”.

Bấy giờ, Mông Cổ có bộ tộc Ngõa Lạt hết sức lớn mạnh, người đứng đầu của tộc này là Dã Tiên. Năm đó, Dã Tiên đem quân đánh nhà Minh, lực lượng vô cùng hùng mạnh, một mặt tấn công Liêu Đông, mặt khác lại công kích Đại Đồng Sơn Tây.

Hoàng đế Minh triều bấy giờ là Minh Anh Tông – một vị vua trẻ còn chưa có nhiều kinh nghiệm thực chiến. Bấy giờ, Minh Anh Tông nghe theo lời xúi giục của Vương Chấn, tên hoạn quan vẫn tìm cách xu nịnh, che mắt Hoàng đế, lũng đoạn triều chính.

Kết quả là đại quân bị giết, Anh Tông bị quân địch bắt sống, còn Vương Chấn chôn thây nơi chiến trường. Hay tin Hoàng đế bị bắt, Bắc Kinh rơi vào tình trang vô cùng hỗn loạn.

Trong thành lúc này chỉ còn lại tàn binh già yếu, lại như rắn mất đầu, tình thế nguy cấp, nhiều quan viên thậm chí còn tìm cách chạy nạn. Khi đó, những người sinh ra ở phía Nam đề nghị hoàng tộc dời đô về Nam Kinh vì cho rằng Bắc Kinh nhất định sẽ thất thủ.

Trước luồng ý kiến này, Binh bộ Thị lang Vu Khiêm kiên quyết phản đối, vì ông tin rằng thành Bắc Kinh đủ sức trụ vững. Trong khi đó, việc dời đô về Nam Kinh sẽ khiến cả khu vực Hoàng Hà trở về phía Bắc nhất định đều lâm nguy.

Chủ trương của Vu Khiêm được em ruột Anh Tông là Thành vương Chu Kỳ Ngọc ủng hộ. Vì vậy, Vu Khiêm được hoàng tộc giao trọng trách tổ chức bảo vệ kinh đô.

Vu Khiêm trước nhất tổ chức lực lượng quân sự, bố trí việc phòng ngự, phối hợp với dân chúng thủ thành.

Trước khi Ngõa Lạt đổ bổ tới gần kinh đô, Vu Khiêm thông báo với tất cả các tướng sĩ: “Chúng ta hiện tại đã có Hoàng đế mới (ý chỉ Chu Kỳ Ngọc lên ngôi thay anh trai), phải thủ vững kinh thành”.

Quả nhiên sau đó, Dã Tiên bắt Anh Tông đến bên ngoài cổng thành và nói: “Hoàng đế của các người đã trở về, mau chóng mở cổng thành ra”.

Dã Tiên và Ngõa Lạt vốn định dùng Anh Tông làm con cờ để có thể chiếm thành Bắc Kinh mà không phải đổ máu. Nhưng quan binh thủ thành đã theo lệnh của Vu Khiêm mà đáp trả: “Chúng ta nay đã có vua mới rồi”.

Hai nguy cơ quân sự lớn từng đe dọa sự tồn vong của Minh triều đều đến từ Mông Cổ. (Ảnh: Sohu)

Trận chiến thành Bắc Kinh xảy ra trong hoàn cảnh như vậy. Quân Minh dưới sự chỉ huy của Vu Khiêm đã chống trả vô cùng mãnh liệt và giành thắng lợi trong cuộc chiến thủ thành.

Đúng lúc này, viện quân từ khắp nơi cũng lũ lượt đổ về. Dã Tiên nhận thấy tình thế không ổn, liền quyết định lui binh. Kinh đô Bắc Kinh được giữ vững, cả khu vực phía Bắc Hoàng Hà cũng được an toàn.

Từ sự biến quân sự trên, có thể thấy rõ nếu năm xưa Minh Thành Tổ Chu Đệ không dời đô về Bắc Kinh, thì có lẽ đến năm 1449, nhà Minh khó có thể chống lại sự tấn công của quân đội Ngõa Lạt.

Hơn một thế kỷ sau, tức năm 1550, một nguy cơ quân sự khác lại đe dọa tới sự tồn vong của Minh triều. Đó là thế lực khác từ Mông Cổ, do Yểm Đáp thủ lĩnh, sử cũ gọi đây là “Loạn Yểm Đáp”.

Đội quân này xuất binh bay vây Bắc Kinh, tình thế kinh đô lúc đó phải dùng cụm từ “ngàn cân treo sợi tóc” để miêu tả. Nhưng trải qua đấu tranh gian khổ, thành Bắc Kinh vẫn trụ vững trước mưa tên bão đạn của quân địch. Sau cùng, quân đội Yểm Đáp chỉ có thể lui binh.

Bắc Kinh có thể trụ vững sau hai thử thách binh biến này, đủ để thấy nơi đây quả thực là kinh đô “trời định” của Trung Hoa, cũng là minh chứng cho thấy việc Minh triều dời đô về nơi đây là quyết định tất yếu và sáng suốt.

Tuệ Tâm / Theo: Tinh Hoa
Link tham khảo:


CỔ NHÂN CHO RẰNG "NẰM NGỬA KHÔNG SỐNG LÂU": VẾ SAU CÒN NHẮC CHUYỆN MẤT MẶT NHIỀU NGƯỜI MẮC

Trong suốt chiều dài lịch sử, cổ nhân đã để lại những câu nói ngắn gọn nhưng bao hàm tất cả các khía cạnh của cuộc sống, từ ăn mặc, nhà ở, đi lại cho đến đám cưới, đám tang, lễ hỷ...


Một số lời dạy đã bị mai một và lãng quên do thời gian và không còn "hợp thời". Tuy nhiên, vẫn có những câu nói trường tồn do vẫn còn giá trị. Có thể nói, kinh nghiệm mà người xưa tích lũy không hoàn toàn là vô lý. Lấy câu “Nhạng ngọa bất dưỡng thọ, trương khố nhân nhân mạ” (仰臥不養壽, 張胯人人罵) tạm dịch: "Nằm ngửa không sống lâu, ngồi sai người người mắng") là một ví dụ điển hình.

Dù đã có từ rất lâu đời song ý nghĩa của nó vẫn còn đúng trong cuộc sống hiện đại.

Ngày nay với sự phát triển vượt bậc của xã hội, áp lực cuộc sống của con người cũng ngày càng cao. Áp lực từ công việc, tiêu chuẩn xã hội khiến con người phải thay đổi. Điều này đã dẫn đến thay đổi nếp sống. Người hiện đại thường xuyên đối mặt với tình trạng thức khuya, mất ngủ, rụng tóc... Chính vì vậy mà cơ thể chúng ta dần rơi vào trạng thái không cân bằng.

NẰM NGỬA KHÔNG SỐNG LÂU

Hình minh họa. Ảnh: Toutiao

Về chủ đề giữ gìn sức khỏe, người xưa đã nghiên cứu rất nhiều về lĩnh vực này. Lấy giấc ngủ làm ví dụ. Vì người ta cho rằng giấc ngủ ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe và tuổi thọ nên họ luôn tìm cách để có thể ngủ ngon nhất.

Điển hình, cổ nhân Trung Quốc từng có câu "Muốn dễ ngủ thì chân không được để hướng Tây, đầu không quay về hướng Đông". Điều này ám chỉ tư thế ảnh hưởng đến chất lượng giấc ngủ cũng như sức khỏe nói chung. Vậy tại sao lại nói "nằm ngửa thì không sống lâu"?

Trước hết phải khẳng định, câu nói này hoàn toàn có cơ sở khoa học. Trong cuốn "Thiên kim yếu phương" của Tôn Tư Mạc có ghi như sau: "Nằm gối nghiêng đầu có lợi cho khí lực, tốt hơn nằm ngửa rất nhiều".

Khoa học hiện đại cũng đã chứng minh điều này. Tư thế ngủ thích hợp nhất là nằm nghiêng sang bên trái. Điều này có thể làm giãn cơ toàn thân, có lợi cho các mô cơ đồng thời xua tan mệt mỏi, hỗ trợ quá trình lọc chất thải và giảm áp lực đối với các cơ quan nội tạng.

Khi nằm ngửa, phần mông và lưng của cơ thể tiếp xúc với giường, thắt lưng ít nhận được sự nâng đỡ, dễ gây đau lưng, mỏi lưng. Trước đây khoa học kỹ thuật tương đối lạc hậu nên không có cơ sở khoa học. Ngày nay, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nằm ngửa không có lợi cho tuổi thọ.

NGỒI SAI NGƯỜI NGƯỜI MẮNG

Hình minh họa. Ảnh: Toutiao

Vế này đề cập đến vấn đề tư thế ngồi thường ngày của mọi người. Ý nghĩa của nó bị ảnh hưởng một phần từ quan điểm phong kiến.

Thời xưa những quy tắc mà nữ giới phải tuân theo rất khắt khe, nhất là khi ngồi phải chú ý để hai chân chụm vào nhau, khi đứng cũng chú ý không nhìn nghiêng. Theo quan niệm của người xưa, điều này cho thấy phẩm chất của một người đàng hoàng.

Cũng theo người xưa, việc ngồi dạng chân rất khó coi và bất lịch sự. Tư thế ngồi như vậy là biểu hiện của người thiếu tu dưỡng. Về sau, câu nói này trở thành quy tắc chung cho cả nam và nữ. Lý do là bởi giữ hình tượng đẹp trước mặt người ngoài vẫn là điều rất cần thiết, nhất là đối với những mối quan hệ ngoài xã hội.

Nhìn chung, tư thế ngủ có thể ảnh hưởng đến sức khỏe thể chất và tư thế ngồi thì ảnh hưởng đến ngoại hình của chúng ta trong mắt người khác. Cả hai đều rất quan trọng đối với cuộc sống của mỗi người. Cơ thể khỏe mạnh là điều bất cứ ai cũng mong muốn. Song song bên cạnh đó, chúng ta cũng cần xây dựng hình ảnh tốt khi ra ngoài.

Câu nói “Nhạng ngọa bất dưỡng thọ, trương khố nhân nhân mạ” thể sự khôn ngoan và kinh nghiệm đúc kết của người xưa. Nó không chỉ đề cập đến vấn đề sức khỏe cá nhân, mà còn phản ánh sự tu dưỡng của một người. Đó là muốn hoàn hảo hơn thì phải chú ý từ những điều nhỏ nhặt nhất. Đây vẫn sẽ là lời dạy được thế hệ sau lưu truyền và tiếp nối.

Thuy Anh / Theo: Pháp Luật & Bạn Đọc
Link tham khảo:


PHẢN CHIÊU HỒN - NGUYỄN DU


Phản chiêu hồn - Nguyễn Du

Hồn hề! Hồn hề! Hồ bất quy?
Đông tây nam bắc vô sở y.
Thướng thiên há địa giai bất khả,
Yên, Dĩnh thành trung lai hà vi?
Thành quách do thị, nhân dân phi,
Trần ai cổn cổn ô nhân y.
Xuất giả khu xa, nhập cứ toạ,
Toạ đàm lập nghị giai Cao, Quỳ.
Bất lộ trảo nha dữ giác độc,
Giảo tước nhân nhục cam như di!
Quân bất kiến Hồ Nam sổ bách châu,
Chỉ hữu sấu tích, vô sung phì.
Hồn hề! hồn hề! suất thử đạo
Tam Hoàng chi hậu phi kỳ thì.
Tảo liễm tinh thần phản thái cực,
Thận vật tái phản linh nhân xi,
Hậu thế nhân nhân giai Thượng Quan
Đại địa xứ xứ giai Mịch La,
Ngư long bất thực, sài hổ thực,
Hồn hề! hồn hề! nại hồn hà?


反招魂 - 阮攸

魂兮!魂兮!胡不歸,
東西南北無所依。
上天下地皆不可,
鄢郢城中來何為。
城郭猶是人民非,
塵埃滾滾汙人衣。
出者驅車入踞坐,
坐談立議皆皋夔。
不露爪牙與角毒,
咬嚼人肉甘如飴。
君不見湖南數百州,
只有瘦瘠無充肥。
魂兮!魂兮!率此道,
三皇之後非其時。
早斂精神返太極,
慎勿再返令人嗤。
後世人人皆上官,
大地處處皆汨羅。
魚龍不食豺虎食,
魂兮!魂兮!奈魂何。


Chống bài “Chiêu hồn”
(Dịch thơ: Trương Việt Linh)

Hồn ơi! Hồn chẳng về sao
Đông, Tây, Nam, Bắc nơi nào tựa nương
Lên trời xuống đất khôn đường
Mà thành Yên Dĩnh vấn vương nỗi gì?
Thành quách cũ người thì đã khác
Bụi mịt mù y phục bẩn nhàu
Lâu đài xe cộ lau nhau
Sánh mình ngang tựa Cao Quì ghê thay
Ngoài bộ mặt không bày nanh vuốt
Nhai thịt người ngọt xớt như đường
Trăm châu ở đất Hồ nam
Ốm xơ ốm xác gầy còm thảm thay
Hồn ơi hồn nếu quay lối cũ
Sau Tam Hoàng thế sự khác rồi
Thôi thôi sớm liệu về trời
Lại đây chi nữa cho người mỉa mai
Họ Thượng Quan đời nay khắp thảy
Dòng Mịch La tuôn chảy khắp nơi
Cá không đớp, hùm cũng xơi
Biết làm sao hỡi! Hồn ơi! Hỡi hồn!

Chú thích:
Chiêu hồn là một bài từ của Tống Ngọc 宋玉, người cùng thời với Khuất Nguyên 屈原. Trong bài có nói Tống Ngọc thương Khuất Nguyên hồn phách sắp tiêu tan nên làm bài từ để gọi hồn cho sống lâu hơn. Nguyễn Du phản lại ý đó, ý muốn nói hồn không nên trở lại cõi trần gian có đầy những kẻ gian ác thâm hiểm.

Nguồn: Thi Viện

CHỊ DẬU THỜI NAY

Cô gái bán hoa dành ngàn bạc lẻ
Mua nhành Huệ viếng mộ mẹ mình
Cô đau nghĩ đồng tiền ô uế
Lại mua về vẻ đẹp trắng trinh.
(HOA của Võ Tấn Cường)


Viết sau khi đọc bài thơ HOA của Võ Tấn Cường.

Chị Dậu ngày xưa còn có mấy con chó để đem ra chợ bán; chị Dậu thời nay chó cũng bị chúng nó bắt trộm mất rồi. Vào đường quẩn bách, chẳng còn cách nào khác, chị đành phải đem thân đi bán. Khổ nỗi thân này là cha mẹ chị sanh ra, danh chính ngôn thuận nó là tài sản của chị. Nhưng đã nói đến chuyện mua bán thì nó thuộc phạm trù kinh doanh, mà đã kinh doanh thì phải dựa trên cơ sở luật pháp, và phải đóng thuế cho nhà nước.

Nhà nước chưa có luật kinh doanh cho ngành bán thân, nên chị đành thông qua lũ cò mồi, ma cô, đem thân bán chui vào thị trường chợ đen. Tạm gọi nghề bán thân của chị là buôn lậu, trốn thuế.

Mà đã buôn lậu thì có chuyến được chuyến mất. Chuyến nào trót lọt thì chị được chia 50/50 với lũ cò mồi, chuyến nào bị quỵt thì coi như chị mất trắng. Rồi một ngày kia, chị bị bắt quả tang khi đang bán cái tài sản của mình. Chị bị đưa vô trại phục hồi nhân phẩm. Mà nhân phẩm là cái thứ vô hình ảnh, không sắc, không mùi vị. Nó đâu phải cái xe, cái máy hay những dạng vật chất hữu hình để mà đem ra phục hồi đơn giản. Nó là cả một quá trình giáo dục, từ khi con người ta vừa mới chào đời, bằng sự cố gắng của cả nhân loại. Từ gia đình, trường học, xã hội. Thế nhưng, cái nhân phẩm của chị vẫn được đem ra để nguyên cứu phục hồi.

Khốn thay! Những kẻ phục hồi nhân phẩm cho chị không phải là những kỹ sư tâm hồn, mà lại chính là những kẻ đã từng là khách hàng mua thân của chị, trong những ngày tấm thân còn phẩm chất. Nay họ khoác trên mình cái áo của kẻ bề trên. Họ rao giảng cho chị về những cái giá trị bla bla bla … Những cái điều mà bản thân chị biết rành hơn họ, chị từng trải qua nhiều hơn họ…

Ảnh minh họa

Rồi nhân phẩm của chị cũng đã hết thời hạn phục hồi, chị ra về với cái nghề may nửa quê nửa tỉnh. Cầm tấm giấy giới thiệu, chị đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm để tìm nơi tiếp nhận cái nghề của chị. Đi tới đâu chị cũng gặp những ánh mắt e dè, những cái bĩu môi khinh bỉ, những tiếng xầm xì của làng xóm mỗi khi chị đi ngang. Thời gian không chờ chị, đồng hồ vẫn cứ quay, và cái bụng nó vẫn cứ sôi òng ọc mỗi khi tới bữa.

Nghề của chị không có đất để xài, nhưng thân của chị thì vẫn còn có giá, dù nó không được săn đón như ngày xưa nữa. Bằng chứng là lũ ma cô vẫn cho chị vài chục mỗi khi chị quá bữa, đói lòng.

Rồi trong cái vòng xoáy của cuộc đời, ở cái nơi không ai chờ ai đó, chị lại cùng với đám ma cô quay về với cái nghề bán thân của chị. Dân gian vẫn quen gọi là “ngựa quen đường cũ”. Nhưng đâu phải chị vì quen đường cũ mà cố tìm lối quay về. Chỉ là phía trước chẳng thấy có con đường nào cho chị, hoặc giả có con đường mới, nhưng sức khoẻ thể trạng và sức khoẻ tâm thần đã không còn đủ để chị phát dọn một lối đi mới cho riêng chị nữa. Ừ thì chị ngựa quen đường cũ.

Và những lần buôn lậu thân xác chị, lại vẫn diễn ra dưới sự bảo kê của đám giang hồ, vẫn tỉ lệ 50/50, vẫn những lần bị quỵt, vẫn đôi khi gặp lại những cố nhân từng phục hồi cái nhân phẩm của chị. Khi đến mua thân chị, họ không còn mang chiếc áo của kẻ bề trên nữa, mà họ hiện nguyên hình con quỷ dâm gian với bộ mặt nham nhở. Và có lẽ, sẽ có một ngày chị lại vào nơi ấy, để đem cái nhân phẩm kia cho bọn họ phục hồi.

Ừ thôi! Kệ mẹ nó đi em!

Đời chị chưa có gì là chưa trải qua, chưa chuyện gì là chưa nhìn thấy. Chỉ tiếc là cái nhân phẩm rách bươm này, chưa một lần chị đem ra tự giặt.

Vài người trong số 136 cô gái gọi Việt Nam (tuổi 21-38) vừa được giải thoát khỏi động bán dâm ở Mã Lai Á. Tin Malaysia’s New Straits Times, 4 January, 2015). Nguồn: Thanhnienews.com

Mà giặt làm cái gì cơ chứ? Em có biết còn biết bao nhiêu chị Dậu ở cái đất nước này đang đi buôn lậu thân thể của họ khắp thế giới hay không? Có những chị Dậu chỉ có ngày ra đi nhưng không có ngày về hay không?Và cả những chị Dậu đến cái xác còn không được tìm thấy kia em! Họ chưa một lần được nhắc đến, trừ cái tên của họ, đôi lần được ghi vội trên những tờ bảng kê lúc gửi tiền về.

Quang Thi Truong

Friday, May 30, 2025

MẪU ĐỊA - VỊ THẦN ĐỊA NGỤC CỦA NGƯỜI VIỆT

Quảng Cung Công chúa hay Mẫu Địa Phủ trong Đạo Mẫu là vị nữ thần cai quản âm phủ, địa ngục, thậm chí đứng trên cả Thập Điện Diêm Vương.

Hình minh hoạ mình lấy là Diêu Trì Địa Mẫu, vì không có hình của Mẫu Địa

Bà vốn là con gái của Ngọc Hoàng. Tương truyền khi sinh ra cơ thể bà đã bị phân hủy, bốc mùi hôi thối xấu xí vô cùng làm ai cũng sợ hãi tránh xa bà. Buồn bã vì bị mọi người xa lánh, bà rời khỏi Thiên đình. Khi hạ phàm, bà đào một cái hang sâu tận lòng đất tới mức một tia sáng cũng không thể lọt vào được để không ai phải nhìn thấy mình nữa. Bà đặt tên cho ngôi nhà mới của mình là Địa Phủ. Thế nhưng tháng ngày u buồn quá chán nản, bà tự cắt chiếc bóng của mình ra và hóa phép để chúng làm những người bạn tâm sự cùng mình. Vì chúng được tạo ra từ tâm trạng u uất của bà nên hình dáng cũng chẳng mấy xinh đẹp, lại chẳng có bóng của riêng mình vì chính bản thân chúng đã là chiếc bóng, dân gian về sau gọi đó là "ma", "quỷ". Thế nên mới có câu: "Xấu như ma chê quỷ hờn".

Lúc bấy giờ những lớp người sinh sôi rồi lại chết đi, linh hồn của họ không có nơi để đi nên quanh quẩn trần thế, không ít những hồn ma bóng quế quấy hại người sống. Ngọc Hoàng thấy vậy lệnh cho Mẫu Địa thu nhận những âm hồn ấy về chốn Địa Phủ. Quảng Cung Công chúa vâng lệnh, bà nhìn thấy tuy những linh hồn kia đã mất đi xác thân nhưng bản tính vẫn còn, trăm nghiệp lúc sống vương vấn quanh mình nên cũng muốn chúng được đối xử bình đẳng. Địa Mẫu vốn là một người ưa công bằng nên bà không chấp nhận việc các linh hồn được đối xử như nhau dù lúc sống đã gây ra nhiều sai phạm. Thế là bà lập ra nơi phân xử công tội của con người sau khi chết, những chiếc bóng của bà thì trở thành quỷ sai hành tội.

Trong tín ngưỡng dân gian ta, Mẫu Địa Phủ ngồi trên một cỗ xe ngựa, cầm thòng lọng đi thu gom linh hồn người đã khuất. Hồn nào bị thòng lọng của bà tròng qua đầu thì phải hồi quy Địa Phủ nghe lệnh.

Người sinh ra ngày càng nhiều, thiên tai, loạn lạc, con người giết hại lẫn nhau khiến cho số hồn ma bóng quỷ cũng nhiều đếm không xuể, nên bà chọn ra linh hồn của mười người đã tạo đủ phước đức lúc sinh thời và phong họ là Thập Điện Diêm Vương. Địa Phủ từ đó mà chia ra mười cửa ngục đế phán xét các âm hồn.

Bọn ma cũ sau khi chịu tội xong không còn nơi nào để đi bèn tiếp tục ở lại Địa Phủ, chúng cứ thế hợp sức cùng bọn ma mới để làm loạn. Thánh Mẫu là người nhân đức muốn dùng đạo để thu phục chúng nên ngày đêm nghĩ cách giải quyết ổn thỏa việc này, đúng lúc đó lũ quỷ dẫn đến hai linh hồn. Một người nam thì kể ra cuộc đời của tất cả nhân sinh cho tới thượng cầm hạ thú như thể anh ta sống cuộc đời của tất cả chúng sinh vậy, còn người nữ thì không nhớ bất kỳ thứ gì kể cả mình là ai cũng chẳng nhớ.

Hình minh họa Mẫu Liễu Hạnh (Mẫu Địa Tiên)

Biết ngay đây là người của nhà Trời phái xuống giúp việc, bà bèn phong người nam làm Chuyển Luân Vương cai quản luân xa, ngự trên bánh xe luân hồi mà lo việc đầu thai chuyến thế cho âm hồn, nhờ đó Địa Ngục đỡ bị "quá tải". Còn người nữ kia gọi là Mạnh Bà đảm nhận công việc pha cháo lú cho linh hồn ăn để bọn họ quên hết tất cả mọi thứ ở kiếp này trước khi được đầu thai.

Ngày nay bà không còn được thỉnh trong vấn hầu nữa, không rõ tại sao.

Nhận xét: Cái chi tiết "bà sinh ra xấu xí, thân thể lở loét bốc mùi như người chết" khá là "lạ" so với motif truyện cổ Việt Nam và Trung Quốc, nhưng lại từng xuất hiện trong một tôn giáo đồng văn khác, đó là THẦN ĐẠO NHẬT BẢN.

Tích của bà có rất nhiều điểm chung với nữ thần Inzanami. Phải chăng có sự liên hệ hoặc ảnh hưởng lẫn nhau ở đây?

P/S: Nhờ có Đạo Mẫu mà phụ nữ ở VN so với các nước trong văn hóa đồng văn khác dễ thở hơn rất nhiều.

Theo: viendongonline

"KHE VỰC MA ÁM" Ở NHẬT BẢN NƠI TỪNG VÙI XÁC CỦA 55 KỸ NỮ HOA KHÔI THỜI PHONG KIẾN NHẬT

Thời điểm đó 1570 là Shingen gần chết, lúc đó vừa làm hoà với nhà Uesugi để tiến đánh Tokugawa, ngoài gạo với muối ra thì kim loại, vàng cũng là nguồn tài nguyên rất quan trọng mà các daimyo cần để có tiền nuôi quân, xây lâu đài.


Nếu có dịp du lịch Nhật Bản, bạn sẽ được nghe kể nhiều về các địa điểm ma ám, những địa danh bí hiểm đó được khai thác du lịch rất hạn chế (như rừng Aokigahara) hoặc bị cấm tiệt bén mảng vào trong địa phận (ví dụ làng Inunaki). Vực Hoa Khôi (Oiran Buchi) cũng là một nơi như thế.

Đi dọc theo cao tốc số 411 đến vùng núi thuộc tỉnh Yamanashi, du khách có thể gặp một cây cầu treo nhỏ bắc ngang qua vực thẳm hẹp và tối, được bao phủ xung quanh bởi những cánh rừng rậm rạp. Khu vực này có nhiều mỏ đá, mỏ vàng quý hiếm được gia tộc Takeda chiếm giữ vào thời điểm những năm 1570.


Trong quá trình khai thác mỏ, nhà Takeda đã xây dựng nhiều nhà thổ, quy tụ ca kỹ, gái mại dâm đến đây để mua vui cho thợ mỏ, quân lính, bao gồm cả các oiran (hoa khôi) đến phục vụ những nhân vật quan trọng thuộc tầng lớp quý tộc. Oiran là kỹ nữ cao cấp, là những người có tài năng về nghệ thuật, trà đạo, hoa đạo, thư pháp, họ chỉ khác geisha ở chỗ là chấp nhận bán thân với giá cực cao.

Quân lính được lệnh xây dựng một cái bệ bằng gỗ, bắc qua khe vực như một sân khấu lớn, nhà Takeda ra lệnh mở tiệc linh đình và mời các oiran đến nhảy múa thâu đêm. Khi các oiran bước lên bệ gỗ, quân lính của nhà Takeda bắt đầu chặt dây buộc ở hai bờ vực thẳm khiến sân khấu sụp đổ, tất cả kỹ nữ đã rơi xuống.


Tổng cộng có 55 cô gái đã bị vùi xác nơi đáy vực, hoặc bị dòng nước chảy xiết bên dưới cuốn đi mà chết.

Mãi đến ngày nay, người ta vẫn có thể nghe thấy tiếng gào khóc của những cô gái bị c.h.ế.t oan, có lời đồn rằng oan hồn của các oiran đã biến thành ác linh lang thang dưới đáy vực. Đôi khi, người ta nghe cả tiếng đàn hát, cười đùa của các oiran, vì vậy mà gọi là "vực Hoa Khôi".


Khách du lịch thập phương thường tò mò đến Oiran Buchi vì cảnh rừng nguyên sinh nơi này rất ấn tượng, cây cầu treo bắc qua khe vực có nhiều góc đẹp. Mặc dù vậy, không có nhiều hình ảnh chụp nơi này vì người ta lo ngại sẽ thu vào khung hình một oan hồn nào đó.

* Thực chất có một khoảng thời gian mà gia tộc takeda đánh thua một trận chiến lớn. Mà gia tộc này không muốn đối thủ chiếm được mỏ vàng dễ dàng như vậy, nên họ đã thủ tiêu hết tất cả những người biết vị trí, bao gồm cả các Oiran

TH / Theo: viendongonline



BẠN ĐÃ NGHE NÓI VỀ THE RUNIT DOME CHƯA?, KHỐI BÊ TÔNG BÍ MẬT CỦA MỸ GIỮA THÁI BÌNH DƯƠNG

The Runit Dome được biết đến là “cỗ quan tài” bất khả xâm phạm được xây dựng từ cuối thập thập niên 1970 trên đảo Runit, thuộc đảo san hô Enewetak, Quần đảo Marshall.

Ảnh: Cre: World Beauties and Wonders

Địa điểm này do quân đội Hoa Kỳ xây nên để tập kết rác thải từ các vụ thử hạt nhân, chất thải phóng xạ được đổ xuống miệng hố thể tích 83.000m3 và che lại bằng mái vòm bê tông dày 45cm.

Là một công trình của Mỹ liên quan đến chương trình thử nghiệm hạt nhân. Vào những năm 1940 và 1950, quân đội Mỹ đã thực hiện một loạt các thử nghiệm hạt nhân trên quần đảo Marshall, dẫn đến sự di dời của hàng ngàn người dân địa phương.

Sau khi các thử nghiệm được hoàn thành, Mỹ đã quyết định chôn vùi phần lớn chất thải phóng xạ trong một khu vực gọi là "đống đổ nát" trên đảo Runit. Để ngăn chặn chất thải phóng xạ từ việc xâm nhập vào đất đai và nước biển xung quanh, Mỹ đã xây dựng một khuôn viên bao bọc bằng bê tông, gọi là Runit Dome. Khuôn viên này có đường kính 350 feet và được làm bằng bê tông dày 18 inch và thép.

Hiện nay The Runit Dome đang có hiện tượng rò rỉ, nứt nẻ và gây ra mối đe dọa nghiêm trọng đối với môi trường và sức khỏe cộng đồng. Các chất phóng xạ thực sự đã thoát ra khỏi mái vòm và xâm lấn vào môi trường đất bao xung quanh.

Theo các chuyên gia vấn đề trong tương lai là Trái đất đang biến đổi khí hậu và sẽ khiến mực nước biển dâng lên và dần xâm nhập vào “cỗ quan tài” hạt nhân này. Lúc đó các hải lưu sẽ phân phối chất thải hạt nhân trên khắp thế giới.


Vấn đề của Runit Dome đã thu hút sự quan tâm của cộng đồng quốc tế và được coi là một trong những hệ quả tiêu cực của chương trình thử nghiệm hạt nhân của Mỹ. Hiện nay, việc xử lý chất thải phóng xạ trên đảo Runit đang là một trong những vấn đề nóng bỏng được cộng đồng quốc tế quan tâm và đòi hỏi sự hợp tác của cả Mỹ và quốc tế để giải quyết.

Chính quyền khu vực đảo Marshall đang đau đầu tìm cách để giải quyết vấn đề xử lý rác thải hạt nhân này trong khi phía Mỹ thì tuyên bố không chịu trách nhiệm đối với bất cứ vấn đề gì phát sinh từ những vụ thử nghiệm hạt nhân trước đây.

Theo: viendongonline
Link tham khảo:
https://www.zmescience.com/ecology/the-crumbling-runit-dome-the-hidden-nuclear-nightmare-of-the-marshall-islands/



Thursday, May 29, 2025

MÓN ĂN NGÀY HẠ CHÍ

Hạ chí là tiết khí thứ 10 trong 24 tiết khí, nghĩa là sắp bắt đầu nóng như lửa đốt. Trước đây có câu “Có thực mới vực được đạo”, do đó mỗi tiết khí trong năm đều có món ăn truyền thống tiêu biểu. Vậy trong ngày Hạ chí, người Trung Quốc thường ăn gì, hãy cùng tìm hiểu nhé!

Món ăn ngày Hạ chí
 
Mì Hạ chí (夏至面)

Ăn mì vào ngày Hạ chí là một phong tục quan trọng tại nhiều vùng ở Trung Quốc. Dân gian có câu “Ăn mì vào ngày hạ chí thì một ngày sẽ ngắn hơn” và “Há cảo Đông chí, mì Hạ chí”. Mỗi nơi lại có một loại mì khác nhau như mì khô (干汤面), mì thịt sợi (肉丝面), mì tương đen (炸酱面), mì qua cầu (过桥面), mì trộn dầu mè (麻油凉拌面),…

Theo phong tục, vào những ngày giữa hè nóng nực thì ăn một bát mì Hạ chí là thích hợp nhất, vừa để giải nhiệt, vừa có cảm giác thèm ăn. 

Mì Hạ chí (夏至面)

Hoành thánh (馄饨)

Ở Vô Tích – thành phố vùng non nước Giang Nam có phong tục ăn hoành thánh vào ngày Hạ chí. Trước đây có truyền thuyết Bàn Cổ là người khai thiên lập địa, trước khi thế giới được mở ra thì trời đất “hỗn độn” như một quả trứng gà. Người Trung Quốc xưa cho rằng hình dạng của hoành thánh giống quả trứng, mà trong tiếng Trung, từ “hỗn độn” lại đồng âm với “hoành thánh”.

Các cụ từng nói: “Ngày Hạ chí ăn hoành thánh, mùa hè sẽ không bị sốt nhiệt.” Ăn hoành thánh vào ngày này chứa đựng một ước nguyện tốt lành, cầu mong một mùa hè an lành, trẻ con sẽ tăng cân và trở nên khỏe mạnh hơn. 

Hoành thánh (馄饨)

Bánh đậu (豌豆糕)

Ăn bánh đậu là một phong tục trong ngày Hạ chí ở Nam Kinh. Hàng năm vào ngày Hạ chí, người cao tuổi ở Nam Kinh sẽ làm một ít bánh đậu ở nhà cho trẻ em ăn. Việc ăn bánh đậu mang ý nghĩa tiến xa hơn và cầu bình an, may mắn.

Ngoài ra, khai vị bằng bánh đậu có thể giảm bớt cái nóng trong những ngày thu hoạch. Có thể làm bánh đậu bằng hạt đậu tươi có màu xanh và thoang thoảng mùi thơm, tạo cho người ăn cảm giác mát dịu. 

Bánh đậu (豌豆糕)

Bánh Hạ chí (夏至饼) – Món ăn ngày Hạ chí

Vào ngày này, nhiều nơi ở Trung Quốc vẫn có phong tục ăn bánh bột mì. Có câu nói, “Ngày Hạ chí hãy ăn bánh lúa mì”. Sau khi thu hoạch vào mùa hè, lúa mì mới được bán trên thị trường. Do đó có phong tục nếm thử món mới. Cách làm bánh khá đơn giản, cán bột để làm lớp bánh mỏng. Sau đó thêm rau xanh, đậu, đậu phụ, thịt xông khói,… Có thể thưởng thức sau khi cúng tổ tiên. Tục gọi loại bánh này là bánh Hạ chí (夏至饼).

Khi thưởng thức có vị thanh mát, ngọt nhưng không ngấy, là món ăn phù hợp với mọi lứa tuổi.

Bánh Hạ chí (夏至饼)

Trứng Hạ chí (夏至蛋) – Món ăn ngày Hạ chí

Trứng Hạ chí là trứng luộc vào buổi sáng sau ngày Hạ chí, được bóc vỏ và nấu với táo tàu. Phong tục ăn trứng Hạ chí này chủ yếu phổ biến ở Hồ Nam, Trung Quốc. Khi ăn trứng xong, mọi người thường cho trẻ em cân cân nặng với mong muốn trẻ tăng cân khỏe mạnh và ít ốm vặt. 

Trứng Hạ chí (夏至蛋)

Chè lạnh (清补凉汤) – Món ăn ngày Hạ chí

Chè lạnh là một loại nước đường ở Quảng Đông, được ăn để giải nhiệt vào mùa hè. Chè lạnh ở mỗi nơi có công thức nấu khác nhau nhưng thành phần chủ yếu thường là táo tàu, hạt sen, đậu xanh, lúa mạch, ý dĩ,… Đây đều là những nguyên liệu thường thấy trong cuộc sống hàng ngày nên mọi người thường nấu món ăn này để giải nhiệt và bổ sung nước. Mùi vị dịu ngọt, vừa miệng, man mát khác với chè đậu xanh. 

Chè lạnh (清补凉汤)

Bánh ú (粽子) – Món ăn ngày Hạ chí

Hầu hết mọi người đều cho rằng bánh ú là món ăn truyền thống vào Tết Đoan Ngọ ở Trung Quốc nhưng trên thực tế, ở vùng Tây Bắc, bánh ú cũng được ăn vào ngày Hạ chí. Ăn bánh ú vào ngày Hạ chí cũng rất được coi trọng. Gạo nếp trong bánh ú là thực phẩm bổ dương, ăn bánh ú có nghĩa là tạm biệt mùa “dương”. Sau Hạ chí, khí dương sẽ giảm dần và khí âm tăng lên. Do đó, người ta truyền tải thông điệp về sự thay đổi các mùa qua thực phẩm. 

Bánh ú (粽子)

Trên đây là những giới thiệu của ChineseRd về phong tục ẩm thực của người Trung Quốc trong ngày Hạ chí. Mong rằng thông tin trên có ích cho bạn! Nếu có cơ hội thưởng thức thì đừng bỏ qua những món ăn dân dã và mang đậm ý nghĩa trên nhé!

Nguồn: chinesrd (中文路)

TẠI SAO NGƯỜI XƯA TREO NGẢI CỨU VÀ XƯƠNG BỒ TRƯỚC CỬA NHÀ VÀO NGÀY TẾT ĐOAN NGỌ

Trong “Hồng Lâu Mộng – Hồi thứ 31” có miêu tả về cảnh Tết Đoan Ngọ như thế này: “Hôm ấy chính là ngày Tết Đoan Ngọ, cài cành ngải cứu và xương bồ lên cửa, bùa hổ đeo tay.”

Vào ngày Tết Đoan ngọ, người xưa thường treo ngải cứu và xương bồ trước cửa nhà. (Ảnh: Epoch Times)

Vào ngày Tết Đoan Ngọ, treo một nắm lá ngải cứu và xương bồ trên đầu cửa, có ý nghĩa tượng trưng “bệnh dịch không đến cửa nhà”, nhằm xua đuổi ôn dịch, phòng và chữa trị bách bệnh. Đây cũng là phong tục cổ xưa lưu truyền lại cho đến ngày nay. Vậy tại sao lại chọn hai loại cây ngải cứu và xương bồ này?

Tết Đoan Ngọ rơi vào giữa mùa hè, thời tiết rất oi bức, là thời gian oi bức và ẩm thấp nhất trong một năm. Thời cổ người ta gọi tiết Đoan Ngọ là “Thiên Trung”, cho nên Tết Đoan Ngọ còn được gọi là “Tết Thiên Trung”. Trong “Sự vật dị danh lục – Tuế thời bộ – Ngũ nguyệt” của Lệ Thuyên đời nhà Thanh có ghi chép: “(Hoàng lịch) giờ Ngọ ngày 5 tháng 5 là tiết Thiên Trung.” Sự ẩm thấp và nóng bức của Thiên Trung khu động lũ trùng độc, lúc này chính là ngũ độc bắt đầu cùng xuất hiện. Vậy nên hàng năm vào tiết Đoan Ngọ, cổ nhân cũng chú trọng phương pháp phòng chống dịch bệnh bảo vệ sức khỏe.

Ngũ độc, Ngũ thụy là gì?

“Ngũ độc” thông thường là chỉ con rết, rắn, bọ cạp, cóc, và nhện, những con độc trùng này có mang độc tính. Người hiện đại thường dùng dược phẩm hóa học để diệt ngũ độc. Cổ nhân thì cơ trí hơn, họ sử dụng thực vật “ngũ thụy” (5 bảo vật) thuần thiên nhiên để khắc chế “ngũ độc”. Vì là thuần thiên nhiên nên “ngũ thụy” sẽ không mang lại tác dụng phụ hoặc di chứng cho con người và môi trường.


Ngũ Thụy của Đoan Ngọ còn có tên riêng là “Thiên Trung Ngũ Thụy”, chính là chỉ 5 loại thực vật sau đây: Xương bồ, Ngải cứu, Lựu, Tỏi và Hoa thuyền rồng. “Ngũ Thụy” có công dụng khu trừ nóng ẩm độc hại, có công hiệu cường lực kiện thân rõ ràng, trong đó có loại mang độc tính, có thể lấy độc trị độc.

Công hiệu của Ngũ Thụy

Xương bồ

Ăn bánh ú, tắm bằng nước xương bồ, uống rượu xương bồ, và treo cành xương bồ lên cửa, đây là hoạt động thường thấy trong ngày Tết Đoan ngọ. Vì vậy, Tết Đoan ngọ cũng được gọi là “Tết Xương bồ”.

Xương bồ là đại biểu của “Thiên Trung Ngũ Thụy”, cũng là một trong “Hoa cỏ tứ nhã” trong suy nghĩ của các văn nhân.

Cây xương bồ có rất nhiều chủng loại, sinh sống ở những nơi khe suối mát mẻ, ngày đêm ngâm mình trong dòng suối lạnh, rễ cây có nhiều đốt, khoảng 9 hay 10 đốt, đâm sâu xuống đất. Những chiếc lá nhỏ dài, mỏng manh rất dẻo dai, có lá dài đến hơn 30cm. Cây xương bồ nở hoa vào đầu mùa hạ, cành mọc thành trụ tròn dài, hoa rất nhỏ. Toàn cây xương bồ có mùi thơm đặc biệt, có công dụng diệt khuẩn, có thể trồng làm thuốc hoặc làm cây cảnh.

Vì lá xương bồ cứng chắc không cong như thanh kiếm Thái A thời cổ, cho nên người xưa còn gọi là “Xương bồ kiếm”. Đặc tính của xương bồ cũng giống như hình dáng bề ngoài giống thanh kiếm, rất cứng cỏi và chịu được lạnh.

Có thể nhìn thấy rễ cây xương bồ rất khỏe mạnh, trời sinh có tính chí dương nên hàn khí không thể làm hại. Vì vậy, xương bồ đã trở thành một trong những loại cây tiêu biểu trong tết Đoan Ngọ.

“Bản Thảo Cương Mục” nói, thông thường dùng “xương bồ nước” (khê tôn) để khu trùng (xua đuổi côn trùng). Toàn bộ cây xương bồ đều có thể tinh chế dầu thơm, dùng để xua đuổi côn trùng có hại, khắc chế “ngũ độc”.

Cây Xương bồ nước thường mọc ở khe nước đầm nước. (Ảnh: pixabay)

Thời nhà Chu vào ngày Tết Đoan Ngọ, người dân Hoa Hạ dùng cây xương bồ tắm gội sạch sẽ, trừ độc bảo vệ sức khỏe, còn gọi là “Dục lan thang” (nước tắm cây cỏ lan). Theo “Đại đái lễ – Hạ tiểu chính”: “Tháng 5… trữ cây cỏ lan để tắm gội”. Thời Nam Bắc triều gọi ngày mùng 5 tháng 5 là tết tắm cỏ lan.

Thời đó còn cắt xương bồ thành từng khúc nhỏ, cho vào vò rượu thành rượu xương bồ.Rượu hùng hoàng nổi tiếng xua đuổi côn trùng gây hại vào dịp Tết Đoan Ngọ cũng là cho thêm rễ cây xương bồ. Trong “Thanh Gia Lục” có nói: “Nghiền nhỏ hùng hoàng, rễ xương bồ cắt nhỏ cho vào rượu để uống, gọi là rượu hùng hoàng. Lại lấy rượu này bôi vào trán và lòng bàn tay bàn chân của trẻ nhỏ, vẩy lên tường nhà để xua đuổi côn trùng độc hại”.

Tết Đoan Ngọ ở Hàn Quốc dùng nước Xương bồ gội đầu, phảng phất tái hiện phong tục “Dục lan thang” ngày xưa . (Ảnh: Toàn Vũ / Epoch Times)

Cây ngải cứu

Ngày tết Đoan Ngọ, rất nhiều gia đình đều treo một bó ngải cứu trên cánh cửa nhà mình, vì vậy ngày tết Đoan Ngọ này còn gọi là “Ngải tiết”.

Cây ngải cứu còn gọi là ngải khao. Trong “Bản Thảo Cương Mục” nói ngải cứu là loại thực vật “thuần dương”. Cây ngải cứu thuần dương, tính nhiệt mạnh, có tác dụng tăng dương khí và sát khuẩn rất mạnh. Lá ngải cứu cắt nhỏ cho vào túi thơm mang bên mình có thể xua đuổi côn trùng, bảo vệ sức khỏe. Lá ngải cứu sau khi phơi khô ngâm nước rồi chưng lên có thể tiêu độc hết ngứa.

Bào Cô thời Tấn, một trong “bốn nữ thầy thuốc nổi tiếng” của Trung Quốc, chính là dùng ngải cứu để chữa bệnh. Bà có cái nhìn và hiểu biết đặc biệt về ngải cứu, tự tìm tòi nghiên cứu sáng tạo ra môn tuyệt học về ngải cứu. Bà hành nghề y ở Lĩnh Nam, cứu được vô số người.

Lá ngải cứu là một trong “Ngũ thụy” của Thiên Trung. (Ảnh: Fotolia)

Trong cuốn phong thổ chí “Kinh Sở Tuế Thời Ký” thời Nam Bắc triều có ghi chép lại tỉ mỉ phong tục dùng cây ngải cứu trong tết Đoan Ngọ: Vào ngày mùng 5 tháng Năm, trước lúc gà gáy sáng, mọi người nhanh chóng đi ra ngoài hái cây ngải cứu, “treo ngải cứu trên cánh cửa để trừ tà khí; dùng dây tơ tằm ngũ sắc buộc vào cánh tay, trừ ma quỷ cầu bình an, lại có thể ngăn nhiễm ôn dịch.”

Nếu hái được ngải cứu “hình người” thì hiệu quả càng cao hơn. Vào thời ấy, cũng có người dùng ngải cứu làm thành “hình người” hoặc bện thành hình con hổ, hoặc là dùng tơ lụa, vải gấm cắt thành hình dáng con hổ rồi gắn trên cây ngải cứu hoặc đeo bên người, mục đích là trừ khí độc và ôn dịch. Cho đến ngày nay chúng ta vẫn còn nhìn thấy tập tục mọi người đeo túi hương, túi thơm hình con hổ nhỏ vào ngày tết Đoan Ngọ.

Trong “Sư Khoáng chiêm” có ghi chép, Hoàng Đế hỏi Sư Khoáng làm sao biết được cát hung của một năm? Sư Khoáng nói với Hoàng Đế rằng: “Tuế dục bệnh, bệnh thảo tiên sinh, ngải dã.” (Năm nào có nhiều bệnh, cây thuốc chữa bệnh sẽ mọc sớm, hãy xem cây ngải cứu vậy). Ý rằng, nếu là một năm có nhiều bệnh tật, thì vào năm đó cây ngải cứu sẽ mọc sớm, là để cho người ta dùng chữa bệnh. Người xưa tin rằng “vạn vật đều có linh tính”, đây chính là một hiện tượng kỳ diệu của giới tự nhiên, phải chăng cũng là sự từ bi của Thần đối với con người nơi thế gian?

Vì xương bồ và ngải cứu có tính dương mạnh, cho nên đã trở thành vật chính yếu nhằm tránh tà trừ độc trong Tết Đoan Ngọ của mọi gia đình. Ngày Tết Đoan Ngọ, mọi người lấy xương bồ làm kiếm, ngải cứu làm cờ: “Cửa treo cờ ngải xua bách bệnh, nhà cài kiếm xương bồ chém thiên tà”. Tập tục từ xa xưa lưu truyền cho đến ngày nay, kỳ thực chính là nguyên lý khoa học xuyên suốt bên trong đó, vô cùng thâm sâu.

Từ xưa đến nay tết Đoan Ngọ còn có tên gọi khác là “Ngải tiết” (Tết ngải cứu) hay “Bồ tiết” (Tết xương bồ), cho thấy tầm quan trọng của hai loại cây ngải cứu và xương bồ trong dịp Tết Đoan ngọ.

Tỏi

Trong tỏi chứa nhiều hợp chất Hydro sulfide (H₂S) và Allicin, là một trong những chất kháng khuẩn mạnh. Thời xưa, cổ nhân đã biết sử dụng nước ép tỏi để khử trùng vết thương, chống nấm mốc, vi khuẩn và xua đuổi ký sinh trùng. “Bản thảo cương mục” ghi rằng tỏi có thể điều trị viêm tuyến bạch huyết ở bẹn, các vết loét nhiễm độc và sâu độc. Nếu bị rắn, bọ cạp, rết cắn gây lở loét, có thể lấy nước cốt tỏi xay uống, bã thì đắp lên vết loét.

Tỏi là một trong “Ngũ thụy” của Thiên Trung. (Ảnh: Pixabay)

Cây lựu

Lựu hay còn gọi là An lựu, là một loại trái cây du nhập từ Tây Vực vào thời kỳ nhà Hán, ra hoa vào tháng 5 và tháng 6. Trái lựu rất giàu vitamin, có tác dụng giải rượu và khử độc. Vỏ cây lựu chứa chất kiềm có tác dụng xua đuổi và diệt ký sinh trùng trong cơ thể người.

Hoa thuyền rồng

Hoa thuyền rồng là tên gọi dân dã, ở vùng Phúc Kiến và Chiết Giang miền nam Trung Quốc, mùa chèo thuyền rồng vào Tết Đoan Ngọ cũng chính là mùa loài hoa này khai nở, cho nên người ta thường gọi là “Hoa thuyền rồng”. Ngoài ra loài hoa này còn có tên gọi là Hoa tháng 5, Hoa sơn đan, Cỏ trinh nữ, Hoa trạng nguyên… Hoa thuyền rồng trắng là một biến thể của Hoa thuyền rồng đỏ. Đem tán hoa phơi khô trong bóng râm và nghiền thành bột mịn, trộn với rượu gạo có thể dùng làm thuốc bôi chấn thương ngoài da, có tác dụng giảm đau tiêu sưng.

Hoa thuyền rồng. (Ảnh: wikipedia)

Xương bồ, ngải cứu, và tỏi còn có tên gọi khác là “Đoan Ngọ tam hữu” (ba người bạn của Tết Đoan Ngọ). Người ta dùng xương bồ làm thanh kiếm, ngải cứu làm roi, tỏi hóa thân làm búa, là tượng trưng của “ba loại vũ khí” xua rắn, đuổi côn trùng, chống bệnh khuẩn. “Ngũ thụy” khắc chế “ngũ độc”, đây là phương pháp phòng chống dịch bệnh trong dịp Tết Đoan Ngọ của người xưa.

Sương Sương và Tiểu Minh biên dịch
Theo: Epoch Times

TRÊN THẾ GIỚI CÓ 3 CÁNH CỬA "KHÔNG THỂ MỞ ĐƯỢC", NGAY CẢ KHI BIẾT CHỨA KHO BÁU VÔ TẬN ĐẰNG SAU, NGUYÊN NHÂN VÌ SAO?

Có những cánh cổng dường như được xây dựng không phải để mở, mà ẩn chứa nhiều bí mật thú vị.


Cánh cổng trong các công trình kiến trúc, nhất là các danh thắng như đền thờ đều mang những ý nghĩa quan trọng. Chúng không chỉ là lối đi ra vào mà còn là rào chắn để đảm bảo an toàn. Vào thời cổ đại, sự phát triển của các thành phố không thể tách rời sự tồn tại của cổng thành. Khi cổng thành đóng lại, thành phố trở thành pháo đài vững chắc chống lại các mối đe dọa từ bên ngoài, cho dù đó là sự xâm lược của kẻ thù hay thiên tai.

Thế nhưng có một số cánh cửa có vẻ khác với những cánh cửa khác. Chúng dường như không tồn tại để mở. Những cánh cửa này được giấu ở những nơi bí ẩn, dẫn đến những khu vực không xác định và dường như cần có chìa khóa hoặc mật khẩu đặc biệt mới mở được. Những cánh cửa này không nhằm mục đích làm nơi ra vào mà mang một ý nghĩa sâu xa hơn.

Trên thế giới, có 3 cánh cửa được mệnh danh là "không thể mở", và quả thực người đời sau dù thế nào cũng đã tôn trọng và không tìm cách khai phá những bí mật bên trong chúng.

Đền Taj Mahal


Cánh cửa đầu tiên là đền Taj Mahal nổi tiếng của Ấn Độ. Taj Mahal là một thắng cảnh mang tính biểu tượng ở Ấn Độ và được bầu chọn là một trong 7 kỳ quan thế giới. Taj Mahal được xây dựng bởi Shah Jahan của triều đại Mughal để tưởng nhớ người vợ lẽ yêu dấu của mình. Nhà vua đã vô cùng đau buồn trước cái chết của người vợ lẽ nên đã huy động hàng vạn người và hơn 10 năm để xây dựng nên Taj Mahal.

Sự lộng lẫy của Taj Mahal là vô song. Shah Jahan vì muốn gìn giữ tình yêu của mình với người vợ mãi mãi nên đã xây dựng lăng mộ này dài 508 mét và rộng 350 mét. Vì mục đích này, ông gần như làm cạn kiệt của cải của triều đại.

Ngày nay, Taj Mahal là bảo vật quốc gia của Ấn Độ và không ai được phép mở cánh cổng chính của nó ra. Truyền thuyết kể rằng Taj Mahal chứa thi hài của Shah Jahan và các phi tần của ông cũng như kho báu vô tận.

Đền Padmanabhaswamy


Ở Kerala, miền nam Ấn Độ, có một ngôi đền bí ẩn và kỳ dị ẩn giấu tên Padmanabhaswamy, từ lâu đã trở thành thánh địa để người dân thờ cúng. Ở sâu trong đền có 6 căn phòng bị phong ấn. Khi hậu thế mở một trong những căn phòng bí mật, họ đã phải choáng ngợp vì đây là những căn phòng chứa kho báu. Ước tính sơ bộ của các chuyên gia khảo cổ học cho rằng giá trị của những kho báu này lên tới hơn 10 tỷ USD. Tuy nhiên, người Ấn Độ không sử dụng những bảo vật này mà vẫn cất giữ chúng trong đền.

Mặc dù những căn phòng bí mật đã được mở và một lượng lớn bảo vật, hiện vật cổ đã được phát hiện nhưng cánh cửa thứ 6 vẫn chưa bao giờ được mở. Một mặt là vì 5 căn phòng bí mật đầu tiên đã khiến các nhà khảo cổ bận rộn và không có thời gian để mở căn phòng bí mật thứ 6. Mặt khác, việc mở căn phòng cuối cùng bị hoãn lại do gặp khó khăn về phương pháp.

Lăng Tần Thủy Hoàng


Ở Trung Quốc - một đất nước cũng có nền văn hóa lâu đời, cánh cửa "không thể mở" chính là Lăng Tần Thủy Hoàng. Kể từ khi phát hiện Lăng Tần Thủy Hoàng, người ta đầy tò mò về những di tích văn hóa bên trong nó, nhưng việc mở cửa lăng là điều vô cùng khó khăn.

Lăng Tần Thủy Hoàng được khởi công xây dựng từ năm đầu tiên ông lên ngôi và mất 39 năm mới hoàn thành. Trong thời gian này, nước Tần đã thống nhất thiên hạ, khiến lăng mộ trở nên xa hoa hơn tưởng tượng rất nhiều.

Theo một cuộc khảo sát khảo cổ học năm 1962, diện tích Lăng Tần Thủy Hoàng ít nhất là hơn 56km2. Đây không chỉ là một ngôi mộ biệt lập mà còn là một quần thể lăng mộ khổng lồ với hơn 400 ngôi mộ nằm rải rác xung quanh, là một khám phá khảo cổ học khổng lồ.

Các chiến binh và ngựa bằng đất nung canh gác ngoài Lăng Tần Thủy Hoàng đã thu hút sự chú ý của thế giới. Mặc dù các chuyên gia đã xác định chắc chắn cấu trúc chung của chúng thông qua các dụng cụ hiện đại nhưng họ vẫn từng mắc sai lầm trong quá trình khai quật và nghiên cứu, khiến khi Chiến binh và Ngựa đất nung bị bạc màu. Để tránh những sai sót tương tự xảy ra với Lăng Tần Thủy Hoàng, các chuyên gia không dám mở nó một cách hấp tấp.

Một vấn đề nữa là Lăng Tần Thủy Hoàng rất nhiều thủy ngân, cực kỳ độc hại. Qua nhiều năm, phần lớn thủy ngân trong ngôi mộ đã bốc hơi và những cây gần đó sinh ra trái cây độc hại. Những khó khăn, rủi ro này khiến Lăng Tần Thủy Hoàng trở thành một “cánh cửa” không thể dễ dàng mở ra, và con người vẫn đầy sự tò mò vô hạn đối với những bí mật bên trong.

Nguồn: Sohu
Thu Lê / Theo: Đời sống và Pháp luật



KARL MARX LÀ NGƯỜI NHƯ THẾ NÀO?

Cuộc đời và tâm lý bất ổn của Marx đã gây ra những ảnh hưởng chí mạng cho hàng triệu con người.

Du khách đi ngang qua bức tượng của Karl Marx (1818–1883) và Friedrich Engels (1820–1895) ở trung tâm thủ đô Berlin ngày 28/04/2009. (Ảnh: Theo Heimann /DDP/AFP via Getty Images)

“Con người bắt đầu những thay đổi mang tính cách mạng vì những lý do liên quan đến cuộc sống cá nhân của họ.” — Triết gia Aristotle

Hệ quả từ những lý tưởng của Karl Marx đã làm chao đảo mọi trí tưởng tượng. Tư tưởng của ông ta đã định hình lịch sử. Nhiều đế chế trỗi dậy rồi suy tàn dựa trên luận đề của ông ta. Những giấc mộng và tầm nhìn nở rộ rồi tan vỡ. Hồng thủy cách mạng dâng trào, quét qua bờ biển của các thềm lục địa vì người đàn ông này, và cuộc sống của hàng triệu người đã thay đổi — hoặc kết thúc — do hệ tư tưởng của ông ta. Dưới hình thức biến thể, những lý tưởng của Marx tiếp tục thầm thì vang vọng qua các hành lang của những tổ chức giáo dục đại học và thậm chí là các hội trường chính phủ. Tuy nhiên, người đàn ông này là ai mà lời nói của ông ta lại rền vang như sấm sét đáng sợ xuyên suốt lịch sử thế kỷ 20 và 21? Một cái nhìn thoáng qua về tính cách của người đàn ông này — bức chân dung về con người, đức tin, cuộc sống cá nhân và sự nghiệp — sẽ giúp chúng ta làm sáng tỏ câu hỏi này.

Con người Karl Marx

Karl Marx là người như thế nào? Mặc dù chúng ta không thể đánh giá giá trị của một lý tưởng nếu chỉ dựa trên đức hạnh hay thói xấu của tác giả, nhưng việc hiểu được người đã tạo ra chủ nghĩa Marx có thể sẽ làm sáng tỏ bản chất của học thuyết này — và những hậu quả thảm khốc thường đi kèm với nó.

Một bức chân dung của Karl Marx. (Ảnh: John Jabez Edwin Mayall, colored by Olga Shirnina/CC BY-SA 2.0)

Năm 1848, Marx viết như sau “một bóng ma đang ám ảnh châu Âu — bóng ma của chủ nghĩa cộng sản.” Lần này, lời nói của ông ta rất chính xác. Nhưng dường như bóng ma đó cũng đang ám ảnh cả Marx, một linh hồn u ám trầm cảm, cuồng nộ, bạo lực, và khát vọng tận thế. Trong cuốn sách “The Devil and Karl Marx” (Ác Quỷ và Karl Marx), tác giả Paul Kengor đã phác thảo lại nội dung đáng lo ngại trong các tác phẩm thơ và kịch thời kỳ đầu của Marx, những thứ đã ra đời trước “công trình học thuật” của ông ta. Chúng tiết lộ đời sống nội tâm đầy giằng xé của Marx. Trong một bài thơ, Marx đã miêu tả một nghệ sỹ vĩ cầm cuồng nhiệt đang chơi vũ điệu hủy diệt điên cuồng, triệu hồi một cơn bão đen tối và đe dọa sẽ đâm gục thính giả của mình:

Nhìn xem, lưỡi gươm đẫm máu của ta sẽ đâm
Không chút sai lệch vào tâm hồn ngươi
Thượng đế chẳng biết cũng chẳng tôn vinh nghệ thuật
Hơi địa ngục bốc lên lấp đầy bộ não,

Cho đến khi ta phát điên và trái tim hoàn toàn thay đổi
Nhìn lưỡi gươm này đi — Quỷ vương Bóng tối đã bán nó cho ta.
Vì hắn gõ nhịp và đưa ra ký hiệu.
Ta càng liều lĩnh chơi vũ điệu tử thần


“Vũ điệu tử thần” — từ ngữ vừa hay tuôn ra từ ngòi bút của kẻ mà hệ tư tưởng của hắn đã cướp đi sinh mạng của ít nhất 100 triệu người, theo một số ước tính. Giọng điệu âm ám này lại tiếp tục và mang tính hủy diệt thế giới trong một trong những vở kịch của Marx, nơi nhân vật có tên Oulenam tuyên bố, “Tất cả đã mất! Thời giờ đã hết, và thời gian/Dừng lại. Vũ trụ nhỏ bé tầm thường này sẽ sụp đổ./ Sớm thôi, ta sẽ nắm lấy Sự Bất diệt và gầm lên/ Lời nguyền khổng lồ của con người vào tai ngươi./ Vĩnh hằng! Đó chính là nỗi đau vĩnh hằng.”

Hình ảnh về nỗi thống khổ vĩnh hằng lại lần nữa xuất hiện trong bài thơ “The Pale Maiden” (Thiếu Nữ Xanh Xao), khi người thiếu nữ rên rỉ hỏi, “Vậy là, ta đã đánh mất Thiên đường rồi/ Ta biết rõ điều đó./Linh hồn ta từng ngay thật với Chúa/ Nhưng giờ đây đã chọn vào Địa ngục./

Nhìn chung, nội dung chính trong các tác phẩm văn học của Marx đều thể hiện nỗi ám ảnh của con người về cái chết, địa ngục, ngày tận thế, và những giao ước với ma quỷ. Về mặt tôn giáo, Marx là kẻ vô thần, mặc dù ông ta được sinh ra trong một gia đình Do Thái Giáo ở thành phố Trier, nước Đức, sau đó cải đạo sang Tin Lành vào thời điểm Marx chào đời năm 1818. Năm 16 tuổi, Marx bác bỏ mọi đức tin mà ông ta có thể có. Quả thật, sau này ông ta đã viết những lời thù ghét chống lại Do Thái Giáo và người Do Thái.

Về xuất phát điểm vô thần của Marx, ông Kengor trích dẫn lời một nạn nhân của chủ nghĩa cộng sản là Linh mục Richard Wurmbrand, người đã trải qua 14 năm trong nhà tù cộng sản và bị tra tấn vì đức tin Cơ Đốc của mình. Ông Wurmbrand nêu rõ, “Marx thù ghét bất cứ khái niệm nào về Chúa và các vị Thần. Hắn quyết tâm trở thành kẻ trục xuất Chúa.”

Một nhà bất đồng chính kiến với chủ nghĩa cộng sản nổi tiếng khác và cũng là nạn nhân của các trại cải tạo lao động Liên Xô (Soviet gulags), ông Aleksandr Solzhenitsyn cũng đưa ra nhận xét tương tự: “Trong hệ thống triết học của Marx và Lenin, và trong cốt lõi tâm lý của họ, sự thù hận Thiên Chúa là động lực chính, cơ bản hơn tất cả những tham vọng chính trị và kinh tế của họ.”

Ông Aleksandr Solzhenitsyn cùng gia đình tại phi trường Zurich vào tháng 03/1974. Ông Solzhenitsyn là nạn nhân của những vi phạm nhân quyền nghiêm trọng dưới bàn tay của những người Xô Viết ủng hộ các triết lý độc hại của Marx. (Ảnh: Tư liệu công cộng)

Thoát khỏi những đắn đo về tôn giáo, Marx hoạt động mà không có bất cứ sự ràng buộc nào về mặt đạo đức. Khi còn là sinh viên ở thành phố Bonn, Đức, và sau đó là Đại học Berlin, ông ta lười biếng, phung phí tiền bạc của cha mình, và say xỉn. Đối với người được cho là có rất nhiều kiến thức về kinh tế, Marx lại thể hiện một sự bất lực lạ lùng trong việc quản lý tiền bạc. Trong suốt cuộc đời mình, ông ta sống bám vào những người khác, trong đó có cả người bạn kiêm đồng tác giả Friedrich Engels.

Dù Marx nhặt nhạnh được một số ý tưởng triết học nửa vời thời còn học đại học, bám theo và chỉnh sửa phép biện chứng Hegel đang thịnh hành thời bấy giờ, thì ông ta vẫn chỉ là một học giả hạng hai. Ông ta đã đạo văn. Marx xử lý các nguồn tư liệu một cách vô trách nhiệm, thậm chí là lừa bịp, và đôi khi còn bóp méo các trích dẫn nhằm hỗ trợ cho lý tưởng của riêng mình, như sử gia Paul Johnson đã viết trong cuốn sách “Intellectuals” (Tri Thức). Marx chưa bao giờ đến thăm một công xưởng, một nhà máy, hoặc một công trình công nghiệp nào, và ông ta chỉ quen biết vỏn vẹn hai người có liên quan đến giới tài chính và công nghiệp. Nhưng ông ta lại dành cả ngày trong tháp ngà để nghĩ ra những lý thuyết chưa được kiểm chứng về các chủ đề này.

Đời sống cá nhân dơ bẩn

Đời sống cá nhân của Marx thậm chí còn kinh tởm hơn cả cái gọi là “sự nghiệp” của ông ta. Có một câu hỏi đặt ra là, liệu làm việc chỗ này chỗ kia với tư cách là ký giả và biên tập cho một tờ báo thất bại, xin xỏ tiền bạc từ gia đình và bạn bè, tham gia các câu lạc bộ cách mạng cực đoan, thì có thể được coi là “sự nghiệp” hay không.

Cuối cùng, khi Marx kết hôn với Jenny von Westphalen, gia đình họ sống trong cảnh túng quẫn vì Marx từ chối đi làm. Một gia đình thường cần đến tiền bạc, thực phẩm, nơi ăn chốn ở, và chăm sóc y tế, còn gia đình họ thì không có gì. Nhiều đứa con của Marx đã qua đời, có thể là vì điều kiện sống nghèo nàn của họ. Thay vì kiếm sống, Marx nhất quyết muốn mẹ và những người khác chu cấp tiền cho gia đình mình, khiến bà phải hét lên giận dữ rằng, bà ước gì “Karl sẽ làm việc để tích lũy của cải chứ không chỉ viết về nó.” Những cuộc giao tiếp giữa Marx và mẹ chủ yếu là để vòi vĩnh tiền từ bà.

Con tem năm kỷ niệm 150 năm ngày sinh Karl Marx thời Liên Xô cũ (1968).

Sự lười biếng của nhà chủ nghĩa xã hội này cuối cùng cũng khiến ông bị đuổi khỏi căn hộ. Chủ nhà đã mất hết kiên nhẫn với việc thiếu tiền thuê nhà và tình trạng vệ sinh tệ hại của người thuê. Marx uống rượu và hút thuốc như cơm bữa, không tập thể dục, và hiếm khi tắm rửa, những điều khá đơn giản, khiến ông ta bốc mùi hôi hám. Nó gây bùng phát mụn cóc và mụn nhọt mưng mủ trên khắp cơ thể ông ta. Sử gia Paul Johnson cho rằng những thứ mụn nhọt này cũng góp phần tạo nên tính khí cáu kỉnh và bạo lực của Marx. Bạn sẽ không muốn trở thành kẻ thù hay bạn bè của Marx vì những vấn đề đó. [Dù là kẻ thù hay bằng hữu thì] cả hai bên cũng thường xuyên bị tấn công bằng những lời lẽ chỉ trích và thù hận.

Marx cũng đối xử tệ bạc với người hầu trong gia đình, bà Helen Demuth, còn được gọi là “Lenchen.” Mặc dù Marx tuyên bố bản thân là người bảo vệ cho người nghèo, giai cấp công nhân, chỉ trích chống lại giai cấp tư sản, và đòi hỏi phân phối của cải bình đẳng hơn, nhưng ông ta chưa bao giờ trả cho người hầu của mình bất cứ thứ gì. Lenchen bị đối xử như một nô lệ. Hơn thế nữa, Marx còn làm bà có thai, và bà đã sinh ra đứa con của ông ta. Marx từ chối nhận cậu bé và họ của đứa trẻ bị bỏ trống trên giấy khai sinh. Engels đứng ra dọn dẹp hậu quả thay bạn mình, ông nhận làm cha đứa bé để xóa bỏ nỗi xấu hổ xã hội cho Marx. Vào năm 1895, Engels đã tiết lộ bí mật này cho một trong những cô con gái của Marx khi đang hấp hối vì căn bệnh ung thư.

Suốt nhiều năm, nhiều chính phủ Âu Châu rất cảnh giác đối với Marx và công cuộc cách mạng của ông ta. Năm 1849, Marx bị trục xuất khỏi Đức vì tội “kích động nổi loạn vũ trang.” Marx đã chuyển đến Luân Đôn nơi mà rõ ràng là chính phủ Phổ vẫn luôn theo dõi ông ta, kể từ khi một báo cáo gián điệp của cảnh sát Phổ năm 1850 ghi lại những hỗn loạn trong gia đình Marx:

“Mặc dù Marx thường xuyên rảnh rỗi trong nhiều ngày liền, nhưng ông ta sẽ làm việc bền bỉ không mệt mỏi cả ngày lẫn đêm khi có nhiều việc cần làm.”

“Ông ta không có giờ giấc ngủ và thức dậy cố định. Ông ta thường thức cả đêm và sau đó nằm vật trên ghế sofa vào giữa trưa với nguyên bộ quần áo đó, và ngủ đến tận tối, hoàn toàn không bận tâm đến bất cứ ai ra vào [căn phòng].

“Không có một món đồ nội thất nào sạch sẽ và nguyên vẹn. Mọi thứ đều hư hỏng, rách rưới, và tơi tả, bụi phủ dày cả phân lên mọi thứ và sự bừa bộn tột cùng ở khắp mọi nơi.”

“Khi bước vào phòng của Marx, khói thuốc và mùi hôi hám sẽ khiến bạn chảy nước mắt. Mọi thứ đều dơ dáy và phủ đầy bụi, đến nỗi việc ngồi xuống cũng trở thành một hành động mạo hiểm. Đây là chiếc ghế chỉ có ba chân. Trên một chiếc ghế khác bọn trẻ đang chơi trò nấu ăn. Chiếc ghế này may mắn có bốn chân. Nó dành riêng cho khách ngồi, nhưng đồ chơi nấu ăn của bọn trẻ chưa được dọn dẹp và nếu ngồi xuống bạn sẽ có nguy cơ hỏng mất chiếc quần.”

Như báo cáo này đã ghi rõ, vợ con Marx phải chịu đựng muôn vàn đau khổ dưới lối sống bất ổn và sự cai trị độc đoán của người đã đề xướng ra chủ nghĩa xã hội. Marx viết một cách đầy miệt thị về cuộc sống hôn nhân và gia đình, mặc dù theo ông Johnson, Marx cũng rất yêu thương người vợ Jenny của mình, ít nhất là trong một thời điểm nào đó. Ông Kengor trích dẫn lời Marx như sau: “Không có gì ngu xuẩn hơn việc những người có hoài bão lớn lao lại kết hôn và đầu hàng trước những đau khổ nhỏ nhặt của cuộc sống gia đình và đời tư.”

Có lẽ, do kết quả của quá trình nuôi dạy đầy đau thương, mà hai cô con gái của Marx đều tự sát sau khi cha họ qua đời. Một trong số họ tự sát cùng chồng, cũng là người thường xuyên bị Marx chế giễu. Vậy là, kết thúc câu chuyện đầy nhơ nhớp và bi thảm về gia đình Marx, còn những người con khác của ông ta thì đều đã qua đời trước đó.

Theo lời sử gia Warren Carrol trong cuốn sách “The Crisis of Christendom,” (Cuộc Khủng Hoảng của Cơ Đốc Giáo), bất chấp tất cả sự cuồng nộ và sôi sục của mình, Marx không phải là nhân vật chính trị hay triết học quan trọng thời bấy giờ, và nếu không có cuộc cách mạng thành công của Lenin, thực hiện dưới danh nghĩa của Marx, thì có lẽ lịch sử thậm chí còn không nhớ tới con người nhỏ bé thô lỗ, bất ổn, và quái gở này. Chính thành công về mặt quân sự của những người đi theo Marx đã nâng ông ta lên vị trí thống trị lịch sử thế giới — một cách không đáng có.

Bích chương Chống-Bolshevik, trong đó miêu tả Lenin khoác chiếc áo choàng màu đỏ hô hào những người Bolshevik khác hy sinh nước Nga dưới bức tượng của Karl Marx, khoảng năm 1918-1919. (Ảnh: Tư liệu công cộng)

Giá như mọi chuyện có thể khác đi.

(Ông Walker Larson giảng dạy văn học tại một học viện tư nhân ở tiểu bang Wisconsin, nơi ông đang sống cùng vợ và con gái. Ông có bằng thạc sĩ văn học và ngôn ngữ Anh, và có những bài viết được đăng trên các ấn phẩm như The Hemingway Review, Intellectual Takeout, và nền tảng Substack của ông, “TheHazelnut”. Ông cũng là tác giả của hai cuốn tiểu thuyết “Hologram” và “Song of Spheres”.)

Walker Larson / Hoàng Long biên dịch
Theo: epochtimes
Link tham khảo: