Thursday, December 11, 2025

PHONG THỦY GIÚP "VƯƠNG TRIỀU CHÚA TRỊNH" KÉO DÀI SUỐT 12 ĐỜI

“Tiên tích đức, hậu tầm long”, phong thủy chủ yếu chỉ có thể giúp người có đức. Các giai thoại và sử liệu đều cho thấy các đời vua chúa đều do tổ tiên tích đức truyền lại cho con cháu về sau. Dưới đây là câu chuyện về “vương triều chúa Trịnh”.

Tổ tiên tích đức

Theo “Trịnh gia thế phả” và giai thoại thoại thì vào thế kỷ 15 ở Sóc Sơn, huyện Vĩnh Phúc có người tên là Trịnh Liễu nhà nghèo nhưng rất ham đọc sách.

Cuốn “Đại Việt Lê triều đế vương Trung Hưng công nghiệp thực lục” có mô tả Trịnh Liễu như sau: “Nhà nghèo, ham học, tích đức, làm việc nghĩa. Họ hàng khen hiếu, làng xóm khen đễ… sau rời đến làng Biện Thượng (nay là Bồng Thượng, xã Vĩnh Hùng), làm điều thiện không mỏi, nhân hậu có thừa.”

Trịnh Liễu lấy vợ họ Hoàng, gia cảnh nghèo khó nên hai vợ chồng phải làm ruộng và bán nước chè kiếm sống, khó khăn là thế nhưng Trịnh Liễu vẫn luôn sẵn lòng giúp đỡ người khác.

Một hôm Trịnh Liễu đi cày ở xứ Đồng trong núi, đến chỗ vực tôm thì thấy một cụ già râu tóc bạc phơ nhưng rất có thần thái. Trịnh Liễu mời ông già về ở nhà mình một đêm. Nhà Trịnh Liễu chỉ có mấy gian lợp bằng lá với một cái chõng tre, Trịnh Liễu mời cụ già lên giường nghỉ ngơi rồi làm cơm mời cụ.

Cụ già khen Trịnh Liễu rồi nói: “Lão đây vốn sành phong thuỷ, thấy trong sách đất này, chỗ Nanh Lợn, có một huyệt có khí quý, táng đó thì 4 đời sau phát Vương”.

Cũng theo “Trịnh gia thế phả”, Trịnh Liễu nghe lời đưa hài cốt cha mẹ theo cụ già táng vào chỗ đất quý. Tối hôm đó mưa gió ầm ầm, cụ già hỏi: “Có dám đi thăm huyệt không”, Trịnh Liễu đáp có rồi đến huyệt, bốn bề đêm tối giữa lúc mưa gió ầm ầm, nhưng phía mộ thấy vẫn có ánh sáng như sáng trăng, từ xa thấy có hình dáng như con rồng đen nằm ấp lên trên.

Trịnh Liễu chạy về gặp cụ già nói lại. Cụ già nói rằng: “Rồng vàng là Đế, rồng đen là Vương. Nhà ông tích lại âm công. Trời giáng phúc cho đó.”

Sau đó nghe lời cụ già, Trịnh Liễu dời nhà đến ở làng Biện Thượng, đến kỳ thi Hương thì đỗ tam trường tức tú tài.

Sau này Trịnh Liễu sinh ra Trịnh Lan, Trịnh Lan lại sinh ra Trịnh Lân, rồi Trịnh Lân sinh được Trịnh Kiểm – đây cũng chính là đời thứ tư.

Trịnh Kiểm mở đầu cho “vương triều chúa Trịnh”. (Tranh: HoTrinhPhiaNam.com)

Đi lên nhờ tài huấn luyện ngựa

Năm Trịnh Kiểm 6 tuổi thì cha mất, gia cảnh lâm vào cảnh túng quẫn, bị người ta khinh khi, gia đình phải dời nhà ở Biện Thượng đến quê cũ là Sóc Sơn. Trịnh Kiểm hàng ngày chăn trâu ở núi Lệ Sơn, thường cùng bọn trẻ dựng cờ lau đánh trận giả.

Theo “Trịnh gia thế phả” thì đến năm 17 tuổi Trịnh Kiểm đã thể hiện hùng dũng hơn người, trí lực khác thường.

Lúc này Mạc Đăng Dung cướp ngôi vua Lê, Nguyễn Kim tập hợp lực lượng chống lại nhà Mạc, phục hưng nhà Lê. Tướng nhà Mạc là Ninh Bang hầu tiến quân đến đóng ở huyện Vĩnh Ninh (Vĩnh Lộc ngày nay).

Mẹ của Trịnh Kiểm là bà Hoàng Thị Dốc đưa con đến Ninh Bang hầu xin cho làm gia thần, Ninh Bang hầu đồng ý thu nhận và cho trông coi trại ngựa ở Thọ Liêu.

Tại đây Trịnh Kiểm được người bạn gốc Chàm là Vũ Thì An dạy cho cách huấn luyện ngựa, nhờ đó mà không chỉ biết cách thu phục ngựa mà còn phân biệt được ngựa hay, ngựa quý, dần dần trở tành một kỵ mã tài giỏi.

Thế rồi có người khuyên không nên theo tướng nhà Mạc, Trịnh Kiểm nghe theo, nửa đêm chọn con ngựa chiến đầu đàn hay nhất trốn đi.

Trịnh Kiểm tìm đến đầu quân cho Nguyễn Kim lúc này đang ở Mường Sung thuộc Ai Lao (Lào ngày nay). Với tài năng của mình, đặc biệt là về kỵ binh, Trịnh Kiểm được phong làm Tri mã cơ tước Dược Mã hầu.

Trịnh Kiểm khởi đầu cho 12 đời chúa Trịnh

Lúc ấy Nguyễn Kim mới tập hợp lực lượng nên còn rất yếu, theo “Lịch sử vương quốc Đàng Ngoài” của Alexandre De Rhodes thì một lần bị quân Mạc tấn công, Nguyễn Kim bị bao vây giữa vòng vây địch, tình thế nguy cấp, ông nói rằng sẽ gả con gái cho ai giúp ông cùng nghĩa quân thoát khỏi vòng vây.

Giữa vòng vây xiết chặt, Trịnh Kiểm cưỡi ngựa xông lên cùng quân mở con đường máu cho toàn quân rút lui, tránh bị tiêu diệt. Nguyễn Kim giữ đúng lời hứa gả con gái là Ngọc Bảo cho Trịnh Kiểm.

Từ đó Trịnh Kiểm được giao nhiều trọng trách, trong đó có cả huấn luyện kỵ binh cho nghĩa quân.

Năm 1539, Trịnh Kiểm đến Ai Lao đón vua Lê Trang Tông. Vua thấy dung mạo tuấn tú, xem là tướng tâm phúc, phong làm Đại tướng quân tước Dực Quận Công.

Năm 1545, Nguyễn Kim bị Quan Tổng Trấn nhà Mạc là Dương Chấp Nhất trá hàng rồi đầu độc giết chết, lúc này mọi quyền lực nhà Lê đều lọt vào tay Trịnh Kiểm.

Năm 1546, Trịnh Kiểm lập Hành điện cho vua Lê Trang Tông ở Thanh Hóa, chiêu mộ hào kiệt, huấn luyện binh sĩ tính kế lâu dài với nhà Mạc.

Từ đó đất nước chia hai: Từ Thanh Hóa xuống phía nam là Nam Triều của nhà Lê do Thái sư Trịnh Kiểm thống lĩnh; từ Sơn Nam ra bắc là Bắc Triều của nhà Mạc.

Kiệu rước chúa Trịnh. (Tranh: Trinhtoc.com)

Trịnh Kiểm thâu tóm quyền lực ở Nam Triều như một vị Chúa Thượng. Năm 1556, khi vua Lê Trung Tông mất và không có con nối dõi, Trịnh Kiểm định nhân cơ hội này lên ngôi Vua nhưng sợ lòng người không theo. Ông cho người tìm đến Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm để hỏi.

Trạng Trình đáp rằng: “Giữ chùa thờ Phật thì ăn oản”. Trịnh Kiểm liền bỏ ý định lên ngôi, tìm dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Bang lên ngôi vua gọi là Lê Anh Tông.

Từ đó Trịnh Kiểm giữ ngôi Chúa, khởi đầu cho 12 đời chúa Trịnh kéo dài suốt 249 năm. Điều này cũng ứng với những điều năm xưa cụ già nói với cụ tổ Trịnh Liễu, rằng ngôi mộ phát Vương, chứ không phát Đế.

Trần Hưng
Theo: trithucvn

LÊ NGÔ CÁT VÀ "ĐẠI NAM QUỐC SỬ DIỄN CA"

Khác với những cuốn sử khác chỉ ghi lại các sự kiện theo ngày tháng, được xem là nhàm chán và dành cho giới nghiên cứu, cuốn “Đại Nam Quốc sử diễn ca” là cuốn sử được viết bằng thể thơ lục bát từ thuở Kinh Dương Vương dựng nước đến hết thời nhà Lê, được đánh giá là dễ nhớ và dành cho dân chúng.

(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Lê Ngô Cát

Vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 thời nhà Nguyễn, ở làng Hương Lang, huyện Chương Đức (nay là xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) có cậu bé tên Duệ họ Ngô vốn rất hiếu học. Chẳng may cha mẹ mất sớm, cậu bé Duệ được vợ chồng người cô nuôi dạy và thương như con đẻ, được ăn học thành tài và lấy tên theo họ của chồng người cô là họ Lê, gọi là Lê Ngọc Duệ.

Nhờ siêng năng học hành mà Ngọc Duệ thi đỗ cử nhân, được bổ nhiệm quan, lập gia đình và có người con trai vào năm 1827, đặt tên là Lê Ngô Cát.

Năm 1848 Triều đình mở khoa thi, Lê Ngô Cát tham dự và đỗ cử nhân, được bổ nhiệm làm Giáo thọ phủ Kinh Môn (Hải Dương), ít lâu bổ nhiệm là Tri huyện Thất Khê (Lạng Sơn) rồi thăng Hàn lâm viện biên tu.

Lê Ngô Cát chắp bút viết sử

Năm 1858 Lê Ngô Cát được bổ nhiệm làm ở Quốc sử quán. Lúc này ở Bắc hà có phong trào tìm kiếm sách cũ, một học trò ở Bắc Ninh không rõ tên dâng một cuốn sách, diễn giải sử Việt bằng thơ chữ nôm (thời đấy gọi là diễn ca), cuốn sách này được viết vào cuối thời nhà Lê.

Triều đình đưa sách đến Quốc sử quán, Lê Ngô Cát được giao dựa vào sách sử này để viết, ông chỉnh sửa lại và viết tiếp phần sử đến thời vua Lê Chiêu Thống, diễn giải thơ nôm với 1887 câu lục bát (3774 dòng), cuốn sử này được gọi là “Việt sử quốc ngữ”.

Sách được viết xong dâng lên vua Tự Đức, Vua xem thì chỉ ra một số chỗ không vừa ý, như phần viết về Bà Triệu cưỡi voi đánh quân Ngô thì vua Tự Đức đã phê rằng: “Như thế hèn cho đàn ông nước Nam lắm”, Lê Ngô Cát phải chỉnh sửa lại một số chỗ Vua không hài lòng.

Sau đó Lê Ngô Cát vốn không thích chốn công danh, lại thích ngâm nga thơ phú, nên cáo quan về với ruộng vườn.

Sau này có Phạm Xuân Quế nhuận sắc “Việt sử quốc ngữ” đã đặt tên lại gọi là “Lịch Đại Nam sử Quốc âm ca”


Phạm Đình Toái chỉnh sửa

Sau đó có viên quan Án sát Bình Định là Phạm Đình Toái, đỗ cử nhân khoa thi năm 1843 và là người rất thích thể thơ lục bát, khi xem là “Lịch Đại Nam sử Quốc âm ca” thì rất thích thú, nhưng cho rằng thơ của Lê Ngô Cát rất thật thà và khó nhớ, liền rút ngắn cuốn sử này từ 1.887 câu lục bát (3.774 dòng) thành còn 1.027 câu, đặt tên mới là “Đại Nam Quốc sử diễn ca”.

Cuốn sử này có 1.027 câu lục bát (tức 2.054 dòng): giữ 396 câu nguyên tác, đổi mới 631 câu, chép từ đời Hồng Bàng đến hết thời Lê, Mạc.

Sau khi hoàn thành Phạm Đình Toái đưa cho bạn mình là Đặng Huy Trứ xem. Đặng Huy Trứ sau khi xem thì đánh giá rất cao, cho in tại Trí Trung đường vào năm 1870.

Cuốn sử đồ sộ đầy đủ nhất hiện nay là “Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi chép những sự kiện lịch sử, như vào ngày nào đó có sự kiện gì, nên nhiều người cho rằng khá nhàm chán vốn chỉ dành cho giới nghiên cứu; còn “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” theo thể thơ dễ nhớ dành cho dân chúng, và đặc biệt dành cho người yêu thích thơ.

“Đại Nam Quốc sử Diễn ca” thể thơ lục bát dễ nhớ, một số đoạn đã được đưa vào sách giáo khoa như phần viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:

Bà Trưng quê ở châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.

Phần mở đầu “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” như sau:

“Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh”


Hay như phần anh em Trương Hống, Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gã con gái Cảo Nương cho con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang:

“Có người: Hống, Hát họ Trương
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu,
Rằng: “Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan dắt mối Châu Trần sao nên?”

Trần Hưng
Theo: trithucvn2.net

HOÁN KHÊ SA KỲ 1 (浣溪沙其一) - LÝ THANH CHIẾU (李清照)


Hoán khê sa kỳ 1

Tú diện phù dung nhất tiếu khai,
Tà phi bảo áp sấn hương tai,
Nhãn ba tài động bị nhân sai.

Nhất diện phong tình thâm hữu vận,
Bán tiên kiều hận ký u hoài,
Nguyệt di hoa ảnh ước trùng lai.


浣溪沙其一

繡面芙蓉一笑開
斜飛寶鴨襯香腮
眼波才動被人猜

一面風情深有韻
半箋嬌恨寄幽懷
月移花影約重來


Hoán khê sa kỳ 1
(Dịch thơ: Tạ Trung Hậu)

Dưới trướng phù dung nở nụ cười
Bên lò hương lộ má hồng tươi
Vừa trao mắt liếc gây nghi ngại
Một nét phong tình khó nhạt phai
Nửa tờ thư hận ghi thương nhớ
Nguyệt rời hoa ảnh nguyện theo người


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lý Thanh Chiếu 李清照 (1084-1155) hiệu Dị An cư sĩ 易安居士, người Tế Nam, Sơn Đông. Bà chẳng những là một tác gia vĩ đại trong nữ thi nhân, mà còn là một tác gia vĩ đại trong Tống từ. Bà là con gái của học giả trứ danh Lý Cách Phi. Năm 18 tuổi, bà kết hôn với con trai Tể tướng Triệu Đĩnh Chi, tức Hồ Châu thái thú Triệu Minh Thành, có thể nói là một mối nhân duyên tốt đẹp nhất thời Bắc Tống. Đôi tài tử cùng nhau xướng hoạ thơ từ, chỉnh lý văn chương, sống một đời thanh tao u nhã. Năm Tĩnh Khang 1126, quân Kim đánh Tống, bà theo chồng chạy xuống phương nam, không lâu sau trượng phu qua đời, thân gái dặm trường thực khiến người ta thương xót. Một mình phiêu bạc, vãn cảnh rất thê lương, đấy đã gây thành bối cảnh ảm đạm trong toàn bộ Sấu ngọc từ 漱玉詞 của bà.

Bà quan niệm từ khúc cần hợp luật, ý tứ thanh nhã, coi thơ và từ là hai thể loại hoàn toàn độc lập (biệt thị nhất gia). Tác phẩm của Lý Thanh Chiếu có hai thời kỳ: trước đại biến Tĩnh Khang là những từ khúc về tình yêu đôi lứa thiết tha đằm thắm. Sau khi Tống triều nam di, tác phẩm của bà là nỗi nhớ thương cố quốc, tình cảm cô liêu u tịch, phong cách kín đáo thâm trầm, xót xa cho kiếp hồng nhan bạc mệnh, hình thành phong cách riêng Lý Dị An, đẩy uyển ước từ phái lên vị trí đỉnh cao thời Lưỡng Tống. Từ của bà chỉ còn sót lại hơn 20 bài, song đều là những châu ngọc, gấm thêu.

Nguồn: Thi Viện



NHÀ TOÁN HỌC VĨ ĐẠI THIẾT LẬP GIÁ TRỊ CON NGƯỜI QUA CON SỐ 1 VÀ SỐ 0

Cách mà nhà toán học Al-Khwarizmi diễn giải để thiết lập giá trị của một con người theo các con số toán học có chút gì đó… kỳ kỳ mà đảm bảo khi xem kỹ, khối dân công sở sẽ giật mình.


Đâu là giá trị làm nên một con người? – đối diện với câu hỏi này, tin chắc rằng không ít dân công sở sẽ trả lời rằng nó nằm trong trí tuệ, sự giàu có, mức độ thành công và thậm chí là cả nhan sắc.

Bởi lẽ, hầu hết đều ngộ nhận rằng, trong môi trường làm việc, một cá nhân thông minh thì sẽ được sếp và đồng nghiệp đánh giá cao; thân thế tốt thì ít nhiều cũng nhận được sự coi trọng nhất định. Nếu thêm đẹp đẽ xinh xắn nữa thì ai ai cũng muốn ở gần để được… chiều chuộng thị giác.

Và Muhammad Musa al-Khwarizmi – nhà toán học vĩ đại người Ả Rập cũng đồng tình với những điều trên. Ấy thế nhưng, cách mà ông diễn giải để thiết lập giá trị của một con người theo các con số toán học có chút gì đó… kỳ kỳ mà đảm bảo khi xem kỹ, khối dân công sở sẽ giật mình.

Cụ thể, có câu chuyện kể rằng, lúc Khwarizmi được hỏi về giá trị của con người, ông điềm đạm đã trả lời như sau:

Nền tảng con người là đạo đức. Nếu có đạo đức, thì giá trị của bạn là 1.

Nếu cũng thông minh, thêm một số 0 và giá trị của bạn sẽ là 10.

Nếu cũng giàu có, thêm một số 0 nữa và giá trị của bạn sẽ là 100.

Nếu trên tất cả bạn lại còn xinh đẹp, lại thêm một số 0 và giá trị tổng sẽ là 1000.

Nhưng nếu bạn bị mất số 1, tương ứng với mất đạo đức, bạn sẽ mất tất cả giá trị và giá trị của bạn chỉ còn là số 0.


Quả thật, dù đạo đức là thứ không thể đo lường bằng các định lượng khách quan được, nhưng suy cho cùng từ xưa đến nay, không chỉ Khwarizmi, cổ nhân từ phương Đông cho đến phương Tây mà cả những thế hệ người lớn gần gũi xung quanh chúng ta như ông bà, bố mẹ, thầy cô đều đồng tình cho rằng nền tảng để tạo nên giá trị của một con người là nằm đạo đức.

Đúng thật là như nhiều người nghĩ, xinh đẹp, tài giỏi hay thông minh đều mang đến cho chúng ta nhiều lợi ích nhất định trong mắt người đời. Tuy nhiên, một khi nền tảng đạo đức không có thì giá trị của chúng ta chỉ dừng ở mức có và rất khó để dùng.

Riêng trong môi trường công sở mà nói. Tài giỏi mà không có đạo đức, người ta rốt cuộc cũng chỉ là kẻ tiểu nhân, dùng cái tài của mình để mưu cầu lợi ích cho bản thân hoặc xem sự tài giỏi của mình là vũ khí để công kích đồng nghiệp, uy hiếp cả sếp.

Đẹp mà không có đạo đức cũng chẳng làm gì ra hồn, không “chọc trời” cũng quay sang “khuấy nước”, gây chuyện điên đảo thị phi trong công ty. Giàu vật chất mà không có đạo đức, đời sống tinh thần chẳng lúc nào yên vui vì chất chứa tâm cơ, đồng nghiệp chán ghét.

Ngược lại, nếu dân công sở dẫu chẳng đẹp đẽ, thông minh hay tài giỏi, chỉ cần có đạo đức, biết kính trên nhường dưới, nắm rõ nghệ thuật đối nhân xử thế và tử tế tốt bụng với mọi người xung quanh, đảm bảo ai cũng yêu quý và nể trọng.


Nên nhớ, trí tuệ kiến thức có thể trau dồi nhưng nhân phẩm và đạo đức một khi đánh mất sẽ rất khó tìm lại được. Nhân phẩm tốt có thể bù đắp lại sự thiếu hụt về trí tuệ, nhưng tài vận vĩnh viễn không thể bù đắp được thiếu sót trong nhân cách.

“Tả thị Xuân Thu” có câu “trước lập đức, sau lập công”. Câu này có nghĩa là phàm làm người muốn thành danh, thành công trên con đường sự nghiệp thì trước tiên phải biết “lập đức”, tức là trau dồi nhân phẩm, dung dưỡng đạo đức và đạo làm người cho tốt cái đã.

Theo: afamily

Wednesday, December 10, 2025

NGHÈO TÚNG KHÔNG ĐÁNG SỢ BẰNG "4 KIỂU TƯ DUY NGHÈO" NÀY

Người giàu hay nghèo, hạnh phúc hay đau khổ chỉ khác ở cách tư duy. Có “4 kiểu tư duy nghèo” nên tránh xa, nếu bạn đang sở hữu chúng, hãy loại bỏ!


Người có tư duy tiêu cực nếu không thể thay đổi tư tưởng; rất khó để đạt được thành công và hạnh phúc. Chỉ có tư duy tích cực mới là cách tốt nhất cho một cuộc sống tốt đẹp và ngập tràn niềm vui. Làm người, muốn cuộc sống tốt đẹp và hạnh phúc hãy tránh 4 kiểu tư duy nghèo sau:

1. Kiểu tư duy nghèo thứ nhất: Tư duy cố định

Có một loại người luôn chấp nhận ngưỡng an toàn của hiện tại; họ khá cố chấp vào ý kiến của riêng mình. Người có tư duy cố định thường nhìn mọi thứ dưới góc nhìn hạn hẹp. Họ tin rằng những điều thuộc về cá tính, đặc điểm cá nhân của mỗi người là rất khó thay đổi. Bởi vì họ thường bị giới hạn bởi niềm tin và cách suy nghĩ. Họ cho rằng mọi người được sinh ra với những khả năng, trí thông minh khác nhau và nó khó thay đổi.

Người có tư duy cố định thường nhìn mọi thứ dưới góc nhìn cứng nhắc và khó thay đổi.

Đây là kiểu tư duy của người theo chủ nghĩa kinh nghiệm. Họ có thói quen tự cho mình là người từng trải; họ dùng kinh nghiệm và nhận thức của bản thân để đánh giá mọi việc; bất chấp có mâu thuẫn với người khác không. Dường như, tất cả mọi thứ bị ràng buộc trong loại tư duy cố định để suy nghĩ về mọi vấn đề của cuộc sống.

Họ nghĩ về những thất bại như một sự chứng thực cho sự kém thông minh và khả năng hạn chế của họ; điều đó càng khiến họ không thể đạt được mục tiêu. Họ dễ dàng bỏ cuộc với nỗi sợ thất bại và quan niệm cố hữu rằng rất khó để thay đổi điều gì.

Họ sẽ gán cho sự thất bại lý do rằng “Tôi chỉ đơn giản là không giỏi về nó. Tôi không thể trở nên tốt hơn ngay cả khi đã cố gắng“. Thay vì nỗ lực hết mình để đương đầu với thử thách; họ chỉ đơn giản là nhượng bộ vì sự thiếu tự tin.

2. Kiểu tư duy nghèo thứ 2: Tư duy con cua

Nếu chúng ta đặt một con cua vào xô; con cua sẽ tự lực dựa vào bản lĩnh của mình để bò ra ngoài. Nhưng nếu có rất nhiều con cua, thì một con không thể leo ra. Bởi vì con cua ở phía dưới sẽ liều mạng kéo cua phía trên xuống; đó là lý do vì sao cuối cùng không con cua nào có thể bò ra ngoài cái xô được.

Người có kiểu “tư duy cua” có thể ngầm hiểu rằng “Ta không được thì ngươi cũng đừng nghĩ có được, chi bằng cùng nhau ở trong vực sâu tối tăm này“. Đây chính là cách tư duy điển hình của loài cua. Con người nếu có tâm ích kỷ, tật đố, ghen tị, toan tính và cạnh tranh mạnh mẽ thì sẽ có lối tư duy cua này. Do đó họ thường là người đi ngăn cản sự tiến bộ và thành công của người khác.

Con người nếu có tâm ích kỷ, tật đố, ghen tị, toan tính và cạnh tranh mạnh mẽ thì sẽ có lối tư duy cua này.

Trong xã hội hiện nay, trong hầu hết các doanh nghiệp và doanh nhân chân chính; người ta đều theo nguyên tắc win – win. Nghĩa là hợp tác đôi bên cùng có lợi. Nếu giao du với người có kiểu tư duy cua này thì sẽ rất khó có mối quan hệ lâu dài.

Giữa người với người, việc giúp đỡ và tương trợ lẫn nhau cần thiết. Bên cạnh đó, nó còn liên quan đến phẩm chất đạo đức của con người trong tất cả các khía cạnh của cuộc sống. Do đó, người thuộc kiểu tư duy cua này cần thay đổi mới có thể gặp những điều tốt đẹp trong cuộc sống.

3. Kiểu tư duy nghèo thứ 3: Tư duy thiển cận

Có một câu chuyện nhỏ như sau: Henry sinh ra trong một gia đình nghèo; anh ấy có năng khiếu chơi bóng bầu dục rất giỏi và được huấn luyện viên đánh giá khá cao.

Có thể nói người thiển cận họ chỉ biết theo đuổi những lợi ích trước mắt; họ chỉ có cái nhìn một chiều về cuộc sống và không biết nhìn xa trông rộng.

Một lần, một người bạn giới thiệu Henry đi làm thêm và kiếm được 3,25$/ giờ. Henry đã rất xúc động và sau đó anh ta có xu hướng muốn hưởng thụ cuộc sống mà không cần nỗ lực thêm nữa.

Khi huấn luyện viên biết được suy nghĩ đó của anh. Ông tức giận nói: “Từ bây giờ, em sẽ có cả cuộc đời để làm việc. Nhưng em có thể tham gia cuộc thi này bao nhiêu ngày? Giá của một giấc mơ có trị giá 3,25$ một giờ không?”

Henry tỉnh táo lại, sau đó anh đã cống hiến hết mình cho việc học tập. Sau khi tốt nghiệp đại học, gia nhập đội bóng Denver Broncos nổi tiếng và trở thành một ngôi sao bóng đá tỏa sáng được nhiều người yêu mến..

Rõ ràng, Henry trước đó đã có một kiểu tư duy thiển cận. Có thể nói người thiển cận họ chỉ biết theo đuổi những lợi ích trước mắt; họ chỉ có cái nhìn một chiều về cuộc sống và không biết nhìn xa trông rộng.

4. Kiểu tư duy nghèo thứ 4: Tư duy tiêu cực

Một số người có quá khứ không được hạnh phúc, có tuổi thơ bất hạnh thường dễ rơi vào kiểu tư duy tiêu cực.

Phần lớn chúng ta ít nhiều dễ rơi vào lối tư duy tiêu cực về một vài vấn đề nào đó trong cuộc sống. Nhưng nếu người có tư duy tiêu cực là chủ đạo thì rất không tốt. Họ có tâm lý chán ghét mọi thứ và thường hay than vãn. Thay vì phải sống lạc quan tích cực và cầu tiến; người có tư duy tiêu cực lại thường nghĩ đến điều không may.

Thay vì phải sống lạc quan tích cực và cầu tiến; người có tư duy tiêu cực lại thường nghĩ đến điều không may (ảnh minh họa: internet).

Do đó, họ dễ bị tụt mất nhiều cơ hội tốt đẹp ghé qua. Vì tư duy tiêu cực, họ thường làm cho những người xung quanh bị ảnh hưởng theo. Với bản thân họ sẽ khó có được niềm vui và hạnh phúc thật sự. Kể cả khi điều tốt gõ cửa, thì họ cũng nghĩ theo hướng tiêu cực và bất lợi. Điều này thật khó lý giải nhưng chúng ta đều có thể nghiêm nghiệm lại bản thân.

Người có tư duy tiêu cực nếu không thể thay đổi tư tưởng; rất khó để đạt được thành công và hạnh phúc. Chỉ có tư duy tích cực mới là cách tốt nhất cho một cuộc sống tốt đẹp và ngập tràn niềm vui.

Trên đây là 4 kiểu tư duy nghèo chúng ta nên nhận ra và thay đổi nếu mình sở hữu chúng. Vì cuộc sống là chuỗi ngày nổ lực và tự hoàn thiện bản thân.

Lệ Quân / Theo: tin360

THỔ DÂN DA ĐỎ CHÂU MỸ VÀ NHỮNG CÂU NÓI ĐÁNG SUY NGẪM

Với cách sống của những con người hiện đại đang khiến cho xã hội lâm vào tình trạng hỗn loạn và đầy bất ổn. Vậy hãy cùng xem, những người được coi là lạc hậu nhất thế giới – Thổ dân da đỏ châu Mỹ, họ có cách nghĩ “vượt trội” như thế nào…


Trước khi người châu Âu đến Mỹ, ước tính có khoảng chừng 1,2 triệu đến 12 triệu thổ dân da đỏ sinh sống tại đó. Dân số người da đỏ giảm xuống còn 250.000 người, do thảm sát, diệt chủng, dịch bệnh, chế độ nô lệ và tự tử.

Không nghi ngờ gì, những người này đã chịu một thảm kịch tồi tệ. Có thể cho rằng đây là một sự tàn phá kinh hoàng nhất từng xảy ra ra đối với một cộng đồng người trong lịch sử thế giới. Tuy nhiên, rất ít hoặc không có sự chú ý nào được đưa ra cho tấm thảm kịch này. Không chỉ những người da đỏ bị giết chết, mà còn nhiều phong tục, truyền thống và tín ngưỡng tâm linh đã biến mất cùng với họ.

Những người này thực sự kết nối và hòa hợp với Đất Mẹ, thường được xem như những người bảo vệ Trái đất. Họ truyền dạy “bước khoan thai trên mặt đất, sống cân bằng và hài hòa”. Có lẽ, nếu nhiều người da đỏ hơn còn sống đến hôm nay thì Trái đất sẽ không rối loạn như bây giờ.

Những thổ dân da đỏ thực sự kết nối và hòa hợp với Đất Mẹ, thường được xem như những người bảo vệ Trái đất. Nguồn: tinhhoa

Dưới đây là những câu nói nổi tiếng từ thổ dân da đỏ có thể đem đến ích lợi cho cuộc sống tinh thần và sự hài hòa trong đời sống của con người nhằm giúp Trái đất được trường tồn.

“Linh hồn vĩ đại tồn tại trong mọi thứ: ông ở trong không khí chúng ta thở. Linh hồn vĩ đại là cha chúng ta, còn Trái đất là mẹ. Đất Mẹ nuôi dưỡng chúng ta; bất cứ thứ gì chúng ta đặt vào trong đất đều sẽ được bà hồi báo“. – Big Thunder (Bedagi) của tộc người Wabanaki Algonquin.

“Điều đầu tiên quan trọng nhất chính là điều sẽ xuất hiện trong tâm hồn mỗi người khi họ nhận ra mối liên hệ và sự hòa hợp giữa bản thân với vũ trụ cùng tất cả quyền năng vũ trụ, đó cũng là lúc họ biết rằng trung tâm vũ trụ là nơi cư ngụ của linh hồn vĩ đại, nó hiện diện khắp mọi nơi, và tồn tại trong chính mỗi con người“. – Black Elk, tộc người Oglala Sioux.

“Chỉ khi cái cây cuối cùng chết đi và khi dòng sông cuối cùng bị đầu độc và con cá cuối cùng bị đánh bắt thì chúng ta mới nhận ra mình không thể ăn được tiền“. –
Cách ngôn của người Da đỏ Cree.

Nguồn: tinhhoa

“Dũng cảm tiến về phía trước. Khi bạn nghi ngờ, hãy tĩnh lặng, và chờ đợi;

Khi sự nghi ngờ không còn tồn tại, hãy dũng cảm tiến về phía trước.

Khi sương mù bao phủ, hãy tĩnh lặng;

Kiên nhẫn đợi chờ ánh dương chiếu rọi và xua tan màn sương bao phủ.

Điều đó chắc chắn sẽ xảy ra.

Cuối cùng, hãy hành động bằng dũng khí”.

– Thủ lĩnh Đại Bàng Trắng của người Ponca.

“Hãy đối xử tốt với Trái đất.

Trái đất không phải món quà cha mẹ ban tặng,

Trái đất là món nợ của bạn với con cháu.

Chúng ta không thừa kế Trái đất từ tổ tiên,

Chúng ta mượn nó từ con cháu chúng ta”.

– Cách ngôn của người Da đỏ.

Những người thổ dân truyền dạy rằng, “bước khoan thai trên mặt đất, sống cân bằng và hài hòa”. Nguồn: tinhhoa

“Con người không dệt nên mạng lưới cuộc sống. Chúng ta chỉ là một sợi dây trong đó. Bất cứ điều gì chúng ta làm với mạng lưới ấy đều tác động tới chính chúng ta. Tất cả mọi thứ đều được buộc chặt vào nhau. Tất cả mọi thứ đều kết nối với nhau“. – Tù trưởng Seattle.

“Có lẽ những ngôi sao sẽ mang buồn phiền của bạn đi xa,

Có lẽ những bông hoa sẽ lấp đầy trái tim bạn bằng vẻ đẹp,

Có lẽ hy vọng sẽ luôn lau đi giọt nước mắt của bạn.

Và hơn tất cả, có lẽ sự tĩnh lặng cho bạn sức mạnh”.

– Tù trưởng Dan George.

“Trước khi người anh em da trắng đến để mang cho chúng ta nền văn minh, chúng ta không có bất kỳ loại nhà tù nào. Vì vậy, chúng ta cũng không có tội phạm. Không có nhà tù, không có tội phạm. Thế nên, chúng ta không có ổ khóa lẫn chìa khóa, và bởi vậy mà chúng ta cũng không có trộm cướp.

Khi một người nghèo đến nỗi anh ta không có đủ tiền để mua một con ngựa, một túp lều, hay một cái mền, anh ta sẽ có được nó như một món quà. Chúng ta không văn minh để chú tâm vào những tài sản của sự văn minh. Chúng ta không biết đến bất kỳ loại tiền tệ nào nên giá trị của một người không được chúng ta đo lường bằng sự giàu có.

Chúng ta không biết đến bất kỳ loại tiền tệ nào nên giá trị của một người không được chúng ta đo lường bằng sự giàu có. Nguồn: tinhhoa

Chúng ta không đặt ra bất kỳ văn bản luật nào, cũng không có luật sư, không có chính khách, bởi vậy chúng ta không lừa đảo và bịp người khác. Chúng ta thực sự ở trong tình trạng tồi tệ trước khi người da trắng đến, và tôi không biết phải giải thích thế nào về cách quản lý những thứ cơ bản mà họ bảo với tôi là chúng rất cần thiết cho một xã hội hiện đại“. – John Lame thuộc tộc người Sioux của Lakota.

“Hỡi linh hồn vĩ đại, hãy giúp tôi luôn thanh thản khi nói lên sự thật, để có thể lắng nghe người khác với tâm hồn rộng mở, và để nhớ được rằng hòa bình chỉ có thể tìm thấy trong sự tĩnh lặng“. – Lời cầu nguyện của người Cherokee.

“Bình hòa và hạnh phúc hiện diện trong mỗi khoảnh khắc. Bình hòa có mặt trong mỗi bước đi. Chúng ta sẽ đi cùng nhau tay trong tay. Không có giải pháp chính trị cho những vấn đề tâm linh.

Nên nhớ: Nếu Đấng Sáng Thế đã đặt nó ở đó, thì đó chính là vị trí của nó. Tâm hồn sẽ không tỏa ánh quang diệu nếu đôi mắt không biết rơi lệ. Hãy bảo với người của chủng tộc các bạn rằng, kể từ khi chúng tôi được hứa hẹn sẽ không bao giờ bị đuổi đi, chúng tôi đã phải chuyển chỗ ở đến năm lần“ – Một tù trưởng Da đỏ.


Thanh Phong / Theo: tinhhoa

DẠ BÁN LẠC (夜半樂) - LIỄU VĨNH (柳永)


Dạ bán lạc

Đống vân ảm đạm thiên khí,
Biển chu nhất diệp,
Thừa hứng ly giang chử.
Độ vạn hác thiên nham,
Việt khê thâm xứ.
Nộ đào tiệm tức,
Tiều phong xạ khởi,
Cánh văn thương lữ tương hô.
Phiến phàm cao cử.
Phiếm hoạ nghịch,
Phiên phiên quá nam phố.

Vọng trung tửu bái thiểm thiểm,
Nhất thốc yên thôn,
Sổ hàng sương thụ.
Tàn nhật hạ,
Ngư nhân minh lang quy khứ.
Bại hà linh lạc,
Suy dương yểm ánh.
Ngạn biên lưỡng lưỡng tam tam,
Hoán sa du nữ.
Tỵ hành khách,
Hàm tu tiếu tương ngữ.

Đáo thử nhân niệm,
Tú các khinh phao,
Lãng bình nan trú.
Thán hậu ước đinh ninh cánh hà cứ.
Thảm ly hoài,
Không hận tuế vãn quy kỳ trở.
Ngưng lệ nhãn,
Diểu diểu thần kinh lộ.
Đoạn hồng thanh viễn trường thiên mộ.


夜半樂 - 柳永

凍雲黯淡天氣,
扁舟一葉,
乘興離江渚。
渡萬壑千岩,
越溪深處。
怒濤漸息,
樵風乍起,
更聞商旅相呼。
片帆高舉。
泛畫鷁、
翩翩過南浦。

望中酒旆閃閃,
一簇煙村,
數行霜樹。
殘日下,
漁人鳴榔歸去。
敗荷零落,
衰楊掩映。
岸邊兩兩三三,
浣沙遊女。
避行客、
含羞笑相語。

到此因念,
繡閣輕拋,
浪萍難駐。
歎後約丁寧竟何據。
慘離懷,
空恨歲晚歸期阻。
凝淚眼、
杳杳神京路。
斷鴻聲遠長天暮。


Vui lúc nửa đêm
(Dịch thơ:Nguyễn Xuân Tảo)

Mây lạnh bầu trời tê tái,
Một chiếc thuyền con,
Cao hứng rời bến bãi.
Vượt muôn thác ngàn ghềnh,
Việt Khê lần tới.
Sóng dữ lặng dần,
Gió rừng vụt thổi,
Lại nghe các lái gọi nhau.
Ngọn buồm cao vợi,
Thuyền băng băng,
Qua bến nam buông lái.

Cờ quán rượu tung bay phất phới,
Hàng cây mờ sương,
Chòm thôn toả khói.
Dưới chiều tà,
Ngư phủ trở về gác mái.
Sen rạc tả tơi,
Liễu già dầu dãi.
Bên bờ lũ lượt năm ba,
Đập sợi mấy cô.
Tránh khách lạ,
Thẹn thò cười nói.

Đến đây nghĩ lại,
Buồm gấm nhẹ rơi,
Sóng bèo chìm nổi.
Ôi, hẹn ước mai sau chắc gì chấp nối.
Buồn chia ly,
Luống giận năm cùng về trở ngại.
Tròng mắt lệ,
Đường đô thành mòn mỏi.
Tiếng nhạn dứt kêu, trời ngả tối.


Sơ lưươc tiểu sử tác giả:

Liễu Vĩnh 柳永 (khoảng 987 - khoảng 1053) tự Kỳ Khanh 耆卿, người huyện Kỳ An, tỉnh Phúc Kiến. Năng cải trai man lục nói: “Từ tự Nam Đường trở xuống, chỉ có tiểu lệnh. Mạn từ tới thời vua Tống Nhân Tông (1023-1062) trung nguyên thanh bình, Biện kinh phồn thịnh, ca đài vũ tạ, đua thưởng tân thanh. Kỳ Khanh lưu liên phường khúc, thu hết lời nói quê mùa, biên vào trong từ, cho người truyền lưu ca xướng, rồi sau có Thiếu Du và Sơn Cốc kế tiếp, nên man từ trở thành đại thịnh”. Hiện Liễu Vĩnh còn Nhạc chương tập 樂章集 3 quyển.

Nguồn: Thi Viện



NGƯU TẦM NGƯU, MÃ TẦM MÃ - AI RỒI CŨNG QUAY VỀ ĐÚNG TẦN SỐ CỦA MÌNH

Trong đời, có lẽ ai cũng từng một lần thắc mắc: “Tại sao tôi đối xử thật lòng mà người ta vẫn lạnh nhạt?” Hay: “Vì sao tôi không làm gì sai mà vẫn không được chấp nhận?”


Thật ra, đó không hẳn là vì bạn chưa đủ tốt, mà là bạn đang đứng sai tần số.

Mỗi con người mang theo một khí chất, một đạo lý sống, một tần sóng riêng biệt. Không phải ai càng cố gắng bao nhiêu thì càng hòa hợp được bấy nhiêu.

Có những người, không cần nói nhiều, ta đã thấy lòng nhẹ tênh. Có những người, dù đã nhún nhường, đã thành khẩn, mà họ vẫn thấy ta chướng tai gai mắt.

Người xưa nói: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa, không chỉ để nói về sự kết giao theo chủng loại, mà còn là cách vũ trụ vận hành trong mọi tầng lớp con người.

Người hay nói chuyện tiền tài sẽ tự thu hút người cùng mối quan tâm ấy. Người hướng về tinh thần sẽ dễ cảm mến những người sâu sắc, điềm đạm. Người thích ăn chơi sẽ khó thấy vui bên người thanh bạch. Người trọng danh vọng sẽ không hiểu được người chọn sống ẩn mình.

Mỗi người rồi cũng sẽ quy tụ về nơi phù hợp với chính mình. Không phải do ai loại bỏ ai, mà là do sự tương thích nội tâm đã phân rõ.


Chọn đúng người để đồng hành, quan trọng hơn cố gắng hòa hợp với tất cả

Xã hội hiện đại thường dạy ta kỹ năng kết nối, giao tiếp, mở rộng quan hệ. Nhưng sự trưởng thành lại dạy ta rằng: không phải ai cũng nên giữ lại.

Có những người, chỉ cần bước đi, ta mới thấy nhẹ lòng. Có người, chỉ cần rời xa, ta mới hiểu thế nào là tự do tâm hồn.

Bạn có thể là người tử tế, nhưng không phải ai cũng biết trân trọng điều đó. Bạn có thể sống chân thành, nhưng không phải nơi nào cũng phù hợp để chân tình tồn tại. Đó không phải là lỗi, chỉ là không hợp tầng khí chất.

Khi bạn còn quá để tâm đến việc được lòng người khác, bạn sẽ dễ đánh mất bản sắc của chính mình. Càng cố gắng làm vừa lòng số đông, bạn càng xa rời cái “trung tâm nội tại” mà bạn đáng lẽ phải giữ gìn. Người sống có nguyên tắc, có chiều sâu và có cá tính… sẽ ít bạn hơn, nhưng mối giao kết đó lại bền hơn, sâu hơn và thực hơn.

Ở đời, không thể có chuyện trăm người như một

Có người đến, có người đi. Có người khiến bạn mở lòng, có người khiến bạn khép lại. Đó là quy luật.

Một khu rừng không chỉ có một loại cây, một bản nhạc không chỉ có một nốt trầm. Con người cũng vậy, không thể ai ai cũng nghĩ giống nhau, sống giống nhau, thích giống nhau.

Sự khác biệt là điều tự nhiên. Điều quan trọng không phải là khiến ai cũng thuận theo ý mình, mà là học cách chọn người phù hợp để gần gũi, và buông nhẹ những người không cùng lối.

Khi bạn hiểu điều này, bạn sẽ thôi kỳ vọng vô lý vào người khác. Bạn sẽ thôi tổn thương vì những ánh mắt hờ hững hay những lời phán xét vội vàng.

Bạn sẽ nhận ra rằng: việc không hợp ai đó không phải là một thất bại, mà là một cơ hội để bạn bước gần hơn đến những người thật sự đồng điệu.


Thay vì cưỡng cầu, hãy sống đúng với mình, rồi người cùng tầng sẽ đến

Khi nội tâm bạn thanh sạch, bạn sẽ tự khắc hấp dẫn những người cùng hướng. Khi bạn không bon chen, không giả tạo, bạn sẽ gặp những người đến với bạn vì chính bạn, chứ không vì những gì bạn sở hữu. Đó là sự kết giao lành mạnh, lâu dài, và không cần nịnh bợ để duy trì.

“Chúng ta không cần phải cố gắng chen vào đám đông. Khi ánh sáng đủ rõ, tự nhiên bóng tối sẽ rời đi.”

Bạn không cần được tất cả yêu mến, chỉ cần được đúng người thấu hiểu.

Không cần là trung tâm của mọi nhóm, chỉ cần thuộc về một nơi, nơi bạn có thể thở nhẹ, không phòng bị, không gồng mình.
Người không hợp, đừng cố giữ. Người hợp với bạn, không cần giữ họ cũng sẽ ở lại.

Vì suy cho cùng, duyên chân thật không do cưỡng cầu, mà là sự dung hợp tự nhiên của tâm hồn.

Nguyên Tác An Hậu
Theo: vandieuhay

VÌ SAO NGƯỜI XƯA LUÔN DÙNG RĂNG ĐỂ THỬ VÀNG? LÝ DO QUÁ THÔNG MINH

Người xưa có khoảng 4 cách để xác định vàng, trong đó phổ biến nhất là dùng răng cắn trực tiếp vào vàng, nguyên nhân là do nghề thủ công cổ xưa chưa phát triển.


Dùng răng thử vàng có chính xác không?

Để tạo ra những món đồ trang sức bằng vàng mới lạ hơn, người xưa tạo ra nhiều hơn một quá trình “tôi luyện” để làm giảm độ cứng của vàng và tăng độ dẻo dai của vàng, có thể kéo dài và dát mỏng, do đó, bạn có thể nhìn thấy dấu răng ngay khi bạn cắn vào nó. Nếu không có vết răng nghĩa là có lẫn tạp chất, lượng vàng không đủ, như đồng thau, thì không thể cắn được. Phương pháp kiểm tra thô này đã có từ lâu vì tính tiện lợi cao.

Có phương pháp nào khác để kiểm tra?

Phương pháp thứ hai là hỏa thiêu, khi người xưa không thể phân biệt được vàng thật, giả bằng mắt thường, sẽ dùng phương thức hỏa thiêu, khi đốt vàng sẽ quan sát thấy vàng đổi màu, toát ra thể khí là màu xanh lá, lại không sợ lửa thiêu, bởi vàng không phản ứng với oxi ở nhiệt độ cao.

Phương pháp thứ ba là cân trọng lượng, như chúng ta đã biết vàng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nguyên liệu, người có kinh nghiệm chỉ cần lấy vàng đặt ở trên tay ước lượng một chút sức nặng, sẽ biết vàng trong tay là thật hay giả.

Phương pháp cuối cùng là nhìn vào màu sắc, như người ta thường nói, vàng là “thất thanh, bát hoàng, cửu tử, thập xích” (bảy xanh, tám vàng, chín tím và mười đỏ), có nghĩa là độ tinh khiết của vàng xanh-vàng là khoảng 70%, độ tinh khiết của màu vàng. vàng là khoảng 80%, và độ tinh khiết của vàng tím là 90%, còn độ tinh khiết của vàng đỏ là gần như 100%.


Ngày nay có những cách kiểm tra nào?

Nhận biết bằng kem nền trang điểm

Bạn hãy thoa một lớp kem nền dạng lỏng lên mu bàn tay và chờ kem khô lại, sau đó chà tay lên bề mặt vàng.

Nếu thấy để lại một vệt trên chỗ kem vừa thoa thì đó là vàng thật, nếu không thấy gì thì là vàng giả.

Nhận biết bằng giấm

Lưu ý: Cách này chỉ có thể áp dụng với các loại trang sức bằng vàng 99.99%. Các thiết kế đính đá, vàng tây hoặc ngọc trai sẽ không nhận biết được.

Bạn hãy chuẩn bị một cốc giấm, sau đó cho trang sức vào ngâm khoảng 15 - 30 phút và quan sát màu nước trong cốc.

Nếu giấm chuyển sang màu đen, xanh lục hoặc nâu khói thì là vàng giả, còn không thấy có hiện tượng đổi màu thì là vàng thật.

Nhận biết bằng nam châm

Sử dụng một thỏi nam châm đưa đến gần vàng để kiểm tra. Nếu xảy ra lực hút thì đó là vàng giả, còn vàng thật sẽ không phản ứng gì với nam châm.


Nhận biết bằng gốm không tráng men

Lưu ý: Cách này sẽ không thể phân biệt được các loại vàng giả nhưng có lớp mạ bên ngoài là vàng thật, hoặc các loại vàng giả về độ tuổi, trọng lượng.

Bạn hãy lấy vàng chà xát mạnh lên bề mặt gốm tráng men (lúc này có màu trắng), nếu xuất hiện vệt màu vàng thì là vàng thật, còn vệt màu đen là vàng giả.

Nhận biết bằng cách kiểm tra trọng lượng vàng

Đầu tiên, bạn cần cân trọng lượng của chỗ vàng cần kiểm tra. Tiếp đến, chuẩn bị một lọ nước có chia vạch theo mililit (ml), đổ đầy nước vào nửa lọ và cho vàng vào ngâm.

Ghi chú lại mực nước trước và sau khi cho vàng vào để tính thể tích nước tăng thêm.

Cuối cùng bạn hãy áp dụng công thức tính tỷ trọng dưới đây:

Tỷ trọng = trọng lượng/thể tích tăng thêm

Nếu như tỷ trọng tặng thêm là gần 19g/ml thì đó là vàng thật.

Ví dụ, vàng có trọng lượng là 38 g, thể tích tăng thêm đo được là 2 ml thì tỷ trọng sẽ là 38/2 = 19 g/ml. Vậy trang sức đó là vàng thật.

Trang Hạ / Theo: xevathethao

Tuesday, December 9, 2025

KHÁM PHÁ TIÊU DAO DU CỦA TRANG TỬ: CÁI THẤY CỦA TA KHÔNG PHẢI LÀ TOÀN BỘ SỰ THẬT

Trong Tiêu Dao Du viết: Tại biển Bắc có một con cá tên là Côn, lớn đến mức không biết mấy nghìn dặm. Cá này khi hóa thân sẽ trở thành chim Bằng, với lưng rộng không kém phần vĩ đại. Khi vỗ cánh bay lên, đôi cánh của nó xòe ra như mây che kín cả bầu trời. Biển động, Bằng bay về phía Nam – nơi gọi là Ao Trời.


Tề Hải – một sách cổ ghi chép các hiện tượng kỳ dị – chép rằng: chim Bằng lúc bay ngang biển Nam vỗ cánh làm nổi sóng ba nghìn dặm; nhờ gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm cao, mất sáu tháng mới dừng lại.

Trang Tử không chỉ kể một điển cố huyền hoặc. Qua hình ảnh đó, ông mở ra cánh cửa dẫn tới một trong những tư tưởng thâm sâu nhất của Đạo gia: sự tiêu dao đích thực – tự do tuyệt đối không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ vật thể, hình thức hay danh tướng nào.

Côn hóa Bằng – Một cú nhảy vượt thoát khỏi giới hạn

Côn là cá, sống dưới nước; Bằng là chim, bay trên trời. Hai hình thái này không chỉ biểu trưng cho sự chuyển hóa tự nhiên, mà còn tượng trưng cho hành trình của con người vượt qua chính mình. Côn quá lớn để bơi trong dòng nước cạn. Bằng quá đồ sộ để bay nếu gió không dày, trời không rộng.

Trang Tử viết: “Nước không sâu thì không chở nổi thuyền lớn. Gió không dày thì không nâng nổi cánh lớn của Bằng.”

Vậy thì muốn tiêu dao, muốn tự do, thì không thể trông vào điều kiện nông cạn, hay sức người hữu hạn. Phải cưỡi lên khí trời – thuận theo Đạo, thì mới có thể bứt ra khỏi trói buộc của thế tục mà bay thẳng về phương Nam (Nam Thiên Môn, cánh cửa Thiên Quốc) – nơi ẩn dụ cho sự viên mãn và siêu thoát.


Màu xanh của trời là thật hay là ảo?

Trang Tử không chỉ là một người kể chuyện. Ông là một người hỏi những câu hỏi vượt khỏi giới hạn tri thức đương thời: “Cái màu xanh xanh của trời kia có phải là màu thật của nó, hay chỉ là màu của vô cùng thăm thẳm?”

Một câu hỏi tưởng như đơn giản, nhưng đã chạm vào tận cốt lõi của nhận thức học, bản thể học, và cả thực tại luận hiện đại. Ngày nay, khoa học xác nhận rằng màu sắc ta thấy không phải là màu của vật, mà là ánh sáng phản chiếu vào mắt, là cảm nhận chủ quan, không phải sự thật tuyệt đối.

Trang Tử – từ hơn hai ngàn năm trước – đã nghi vấn điều mà con người hiện đại phải dùng máy móc mới dám khẳng định. Ở đó, ông muốn nhấn mạnh: cái thấy của ta không phải là toàn bộ sự thật. Chúng ta không biết trời là xanh, hay vì mắt ta giới hạn mà thấy xanh. Chúng ta không biết mình là ai – hay chỉ là những vai diễn nối tiếp nhau qua các cơn mộng của cuộc đời.

Trang Chu mộng điệp – Thức hay mộng?

Có thể ai đó đã từng nghe câu chuyện: Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, bay lượn tự do. Khi tỉnh dậy, không biết là Chu mộng thấy hóa bướm, hay bướm mộng thấy hóa Chu.

Tưởng như huyền hoặc, kỳ lạ. Nhưng thực ra, đó là lời cảnh tỉnh sâu sắc: Chúng ta đang sống trong mộng, hay đang tỉnh trong một giấc mộng khác?

Con người sinh ra, lớn lên, đóng vai học sinh, rồi trở thành cha mẹ, thầy giáo, nhân viên, người của xã hội – và cứ thế trôi qua trong hàng loạt nhập vai. Trong những lần hóa thân ấy, họ dần đánh mất chân ngã, rồi đồng hóa mình với vai diễn, chấp vào cái tôi giả tạo, quên mất bản thể vốn là một phần của trời đất, vốn tự do.


Vì sao Côn phải hóa thành Bằng? Vì sao Trang Tử luôn dùng “mộng” và “hóa”?

Bởi vì ông muốn thức tỉnh ta khỏi cơn mộng vai trò, danh phận và hình tướng. Con người nếu không biết buông vai trò, sẽ mãi bị dẫn dắt bởi hoàn cảnh. Khi Côn không chấp là Côn, khi Bằng không chấp là Bằng, khi Chu không còn chấp là Chu, và bướm không còn là bướm, thì mới đạt tới trạng thái “vật hóa” – trạng thái mà con người không còn phân biệt mình và vạn vật, ngã và vô ngã.

Tiêu dao thật sự là gì?

Người đời sau thường gọi Trang Tử là “nhà văn học lãng mạn duy tâm”, là một nhà văn triết lý. Nhưng gọi vậy là hạn hẹp. Trang Tử không phải người viết văn chơi chữ, mà là một người tu hành, là người thật sự có trải nghiệm vượt ngoài nhục nhãn (mắt thịt của người thường), nhìn được thế giới trong hồ lô, thấy được chân tướng của vạn pháp.

Ông nói: “Triêu khuẩn bất tri hối sác, huệ cốc bất tri xuân thu” (Nấm sớm không biết đến hoàng hôn, ve sầu không hiểu được xuân thu)

Là muốn chỉ rằng: Con người nếu chỉ biết chạy theo cái thấy, cái nghe, cái lợi trước mắt, mà không tự tu dưỡng, không phản chiếu nội tâm, thì mãi mãi như ve sầu – sống theo mùa, không biết có một đại chu kỳ vũ trụ mà mình đang lặp lại và bị cuốn trôi.

Không phải chỉ là bay lên, không phải chỉ là hóa thành chim Bằng, hay biến thành cánh bướm. Mà là không chấp vào việc mình đang bay hay đang hóa, không còn phân biệt giữa mộng và tỉnh.


Tiêu dao thật sự là khi tâm không bị ràng buộc, ngã không bị chấp thủ (sự bám víu, níu kéo, hoặc dính mắc vào một cái gì đó, không muốn buông bỏ), và vạn vật đều đồng (cùng) thể. Khi đó, biển Bắc – biển Nam – bầu trời xanh – hạt bụi – ta và người – đều là Đạo.

Trang Tử không dạy chúng ta bay đi, mà dạy chúng ta vượt ra khỏi cái đang trói tư tưởng – nhận thức trong chính mỗi con người.

Mỹ Mỹ biên tập
Theo: vandieuhay

TẠP THI KỲ 1 (雜詩其一) - ĐÀO TIỀM (陶潛)


Tạp thi kỳ 1

Nhân sinh vô căn đế
Phiêu như mạch thượng trần
Phân tán trục phong chuyển
Thử dĩ phi thường thân
Lạc địa vi huynh đệ
Hà tất cốt nhục thân?
Đắc hoan đương tác nhạc
Đấu tửu tụ tỉ lân
Thịnh niên bất trùng lai
Nhất nhật nan tái thần
Cập thời đương miễn lệ
Tuế nguyệt bất đãi nhân


雜詩其一

人生無根蒂
飄如陌上塵
分散逐風轉
此已非常身
落地為兄弟
何必骨肉親
得歡當作樂
斗酒聚比鄰
盛年不重來
一日難再晨
及時當勉勵
歲月不待人


Thơ tạp kỳ 1
(Dịch thơ: Trần Trọng Dương)

Bụi người chẳng biết từ đâu
Phiêu linh ấy cũng một màu thế nhân
Tơi bời theo gió xoay vần
Cái thân bụi bặm là thân vô thường.
Kết anh em há đường cốt nhục?
Ai cũng là mảy tục trần gian
Khi vui khúc nhạc cung đàn
Xóm giềng tụ tập uống tràn canh thâu.
Mùa này được mùa sau lại mất
Một ngày khó hai lúc bình minh,
Vụ mùa mình gắng sức mình
Thoi đưa ngày tháng chùng chình chi đâu


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.

Sách Tấn thư chép Đào Tiềm là người đất Sài Tang đời Tấn (nay thuộc Cửu Giang, Giang Châu), tính tình cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thơ văn. ông có soạn truyện Ngũ liễu tiên sinh để tự ví mình. Nhà nghèo có cha mẹ già, ông phải ra làm chức Tế tửu - chức quan nhỏ trong huyện, nhưng không chịu gò bó nên từ quan về nhà. Về sau, ông lại ra làm huyện lệnh Bàng Trạch, được hơn 80 ngày, nhân cuối năm phái viên đốc hưu (chức quan giúp quan quận thú coi việc kiểm tra đôn đốc các huyện trong quận) đến huyện, nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề để đốc hưu. Ông ngậm ngùi than rằng: “Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa” (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Rồi ngay hôm ấy ông trả ấn bỏ quan mà về. Sau khi từ quan về, ông hay ẩn nằm ngũ dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy Hoàng. Ông vui cảnh an bần lạc đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui. Tính ông chuộng cúc, cứ đến ngày trùng cửu (mùng 9/9), ông lại cùng bạn bè bày tiệc rượu bên khóm trúc để thưởng hoa.

Nguồn: Thi Viện



THẠCH LÀM TỪ LOÀI CÂY QUÝ Ở ĐÀI LOAN

Thạch Aiyu (愛玉凍) được làm từ hạt của loài cây quý thuộc họ dâu tằm Ficus, sinh trưởng trên những vùng núi cao 1.000 m.


Một trong những món tráng miệng thanh mát và độc đáo của Đài Loan phải kể đến thạch Aiyu, tên tiếng Việt là thạch bông cỏ. Aiyu nguyên chất không chứa đường, ít calo và giải nhiệt hiệu quả nên còn được mệnh danh là "thánh phẩm" mùa hè, có thể kết hợp uống cùng trà sữa, nước trái cây... hoặc ăn trực tiếp với hỗn hợp mật ong, nước cốt chanh và đá bào.

Cái tên Aiyu (Ái Ngọc) bắt nguồn từ chính loại hạt làm nên món thạch này. Hạt Ái Ngọc còn có tên Ngọc chỉ, là một biến chủng của sắn dây, thuộc họ dâu tằm Ficus. Aiyu sinh trưởng ở những ngọn núi cao trên 1.000 m so với mặt nước biển, là sản vật của xứ Đài và là cây dây leo quý của thế giới, thường sống bám trên vách đá hoặc trên cây gỗ của rừng thứ sinh. Mà hiện tại nhiều nơi có độ cao thấp hơn cũng đã canh tác nhân tạo được.

Quả Aiyu cái cho hạt Ái Ngọc, là nguyên liệu chính làm nên món thạch cùng tên. Ảnh: Shutterstock

Bề ngoài quả Aiyu trông tựa quả xoài xanh, chia làm quả đực và quả cái. Trong quả cái có chứa khoảng 20.000 bông hoa nhỏ quấn chặt lại với nhau. Đặc biệt, người ta đã khám phá ra bên trong quả Aiyu đực chính là nơi cư trú của rất nhiều con ong nhỏ. Chúng khoan vô số lỗ nhỏ dưới đáy quả, bò ra bò vào, rồi bò sang quả cái để thụ phấn cho những bông hoa nhỏ bên trong, sau đó kết thành một quả nhỏ, gọi là "quả gầy" hay "ngọc ái tử" (hạt Ái Ngọc) cũng chính là nguyên liệu dùng làm thạch. Quả đực vì vậy còn gọi là quả "Trùng anh", và không được dùng để làm thạch Aiyu.

Chính vụ thu hoạch quả Aiyu kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12. Sau khi hái quả cái về, người ta gọt bỏ vỏ ngoài, bổ đôi và lộn ngược lại để phần hạt lộ ra ngoài, đem hạt ấy phơi khô là có được thành phẩm. Trong hạt Aiyu có chất keo, khi chà xát trong nước lạnh sẽ giải phóng pectin làm nước cô dính và đông lại thành thạch. Thạch Aiyu tự nhiên có tính thấm nước và rất mềm, khi ăn vào miệng sẽ lập tức tan chảy. Màu thạch vàng nhạt, bề mặt hạt còn các sợi tơ nhỏ sót lại nên nhìn có vẻ hơi đục. Ngoài ra thạch Aiyu thật sự sau khi đun nóng sẽ không bị tan chảy, giúp phân biệt với loại thạch tổng hợp làm từ bột Aiyu, gặp nóng liền tan.

Quả Aiyu cái đã được lộn ngược để lộ ra phần hạt bên trong. Ảnh: Shutterstock

Cũng như những món ngon khác, thạch Aiyu cũng có nguồn gốc của nó gắn liền với những câu chuyện, những giai thoại thú vị. "Sự tích" Aiyu được cho là xảy ra vào khoảng thế kỷ 19, kể về một thương nhân buôn trà trong lúc dừng chân nghỉ ngơi ở núi Đào Viên thì tình cờ phát hiện những miếng thạch trong veo, đang nổi lững lờ trên dòng suối gần đó, nếm thử thì thấy chúng có vị thanh mát lạ lùng. Thương nhân đảo mắt nhìn quanh và phát hiện những cây leo có trái màu tím nổi bật, bèn hái nó rồi vò thử trong dòng nước suối đang nhẹ chảy. Dòng nước chảy qua tay nhưng cảm giác rin rít hơi dính cứ còn ở lại. Ông cho rằng nó hẳn là nguyên liệu đã tạo nên những miếng thạch nhỏ trôi nổi trên dòng nước kia, bèn mang về, chế biến thử và đã thành thạch. Để tăng thêm hương vị, ông còn thêm mật ong và chanh khiến nó trở thành một món giải khát độc đáo mà ai cũng thích. Thương nhân đã đặt tên cho loại cỏ mình mang về là Aiyu (Ái Ngọc), theo tên cô con gái cưng của ông.

Thạch Aiyu dẻo, mềm và mát lạnh, kết hợp cùng mật ong và nước cốt chanh tạo nên hương vị chua ngọt hấp dẫn. Ảnh: Shutterstock

Nhờ sự tinh khiết, thanh mát và công dụng giải nhiệt tuyệt vời mà món thạch Aiyu đã trở thành thức quà mùa hè được ưa chuộng trên toàn Đài Loan, cũng như nhiều nơi khác ngoài hòn đảo xinh đẹp này. Giá của hạt bông cỏ cũng vì thế mà tăng mạnh hơn, một hecta có thể thu hoạch được 400-500 kg bông. Mỗi kg có giá khoảng từ 700 TWD, xấp xỉ 577.000 đồng ở thời điểm hiện tại.

Yến Nhi tổng hợp
Theo: VNExpress



MÓN THỊT HEO XAY, ĂN SỐNG CỦA NGƯỜI ĐỨC

Người Đức thích ăn "Mett" - loại bánh mì phết thịt heo sống - và nhận xét hương vị béo ngậy, tinh tế như pate cao cấp.


Mettbrotchen hay Mett là món ăn nhẹ truyền thống ở miền Bắc và miền Đông nước Đức. Món này đơn giản là nửa ổ bánh mì tròn (Brotchen) được phết lớp thịt heo xay sống, nêm muối, tiêu đen và hành tây băm nhỏ phía trên. Ở một số vùng phía Bắc, người ta còn gọi nó là Hackepeter nhưng hiện nay từ "Mett" thành cách gọi phổ biến nhất cả nước.

Từ "Mett" xuất phát từ tiếng Đức cổ, nghĩa chung là "thức ăn", cũng là nguồn gốc của từ "meat" trong tiếng Anh ngày nay. Ban đầu, từ này chỉ các loại thịt xay nhưng từ thế kỷ 19 trở đi, nó dần được dùng riêng cho thịt heo xay sống, được nêm gia vị sẵn.

Cách ăn phổ biến nhất là phết trực tiếp thịt sống lên bánh mì, tạo thành món Mettbrotchen nhiều người Đức yêu thích trong bữa sáng hoặc bữa nhẹ giữa ngày.

Những lát bánh mì phủ thịt sống làm món Mett. Ảnh: RP Online

Mettbrotchen từng có thời kỳ hoàng kim trong giai đoạn những năm 1950 đến 1970, trùng với giai đoạn "phép màu kinh tế" (Wirtschaftswunder) sau Thế chiến thứ hai. Khi đời sống người dân được cải thiện và thịt không còn là thực phẩm xa xỉ, thịt heo sống trở thành biểu tượng của sự sung túc.

Một số người từng thử nhận xét thịt heo sống có vị dễ ăn, béo ngậy hơn thịt bò sống rất nhiều, gần giống pate cao cấp nhưng tươi hơn. Khi kết hợp với bánh mì giòn, chút hành tây cay nồng và hạt tiêu đen mới xay, món ăn mang lại cảm giác "thuần khiết, mộc mạc", thể hiện trọn vẹn hương vị tự nhiên của thịt heo. Chính sự đơn giản đó đã giúp Mettbrotchen tồn tại qua nhiều thế hệ.

Trong chính trong thời kỳ này, món Mettigel - "con nhím thịt" nổi tiếng - ra đời và nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi bữa tiệc gia đình. Người ta nặn toàn bộ khối thịt heo sống thành hình con nhím, dùng những lát hành tây cắt khúc hoặc que bánh vòng cắm làm gai, đôi khi dùng olive đen làm mắt và mũi. Hình ảnh những chú nhím thịt màu hồng đặt giữa bàn tiệc đã trở thành một phần ký ức tuổi thơ của nhiều người Đức sinh ra trong khoảng những năm 1950-1970.


Ngày nay, dù lỗi thời so với ẩm thực hiện đại, Mettbrotchen vẫn hiện diện khắp nơi, đặc biệt ở Berlin và các thành phố miền Bắc. Du khách dễ dàng bắt gặp chúng ở hầu hết quầy thịt truyền thống, tiệm bánh mì, quán cà phê với những chiếc bánh làm sẵn từ sáng sớm.

Về mặt an toàn thực phẩm, thịt dùng để làm Mett tại Đức chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt bậc nhất châu Âu. Pháp luật quy định thịt sống chỉ được phép bán và tiêu thụ trong cùng ngày xay, phải luôn được bảo quản lạnh cho đến lúc phục vụ. Bất kỳ phần thịt thừa nào còn lại cuối ngày đều phải được nấu chín, tuyệt đối không được bán sống vào hôm sau.

Dù vậy, cây viết Smith của Tasting Table tiết lộ quy trình kiểm soát ở một số cửa hàng không gắt như nhiều người vẫn nghĩ. Anh đã mua một phần Mett để ở nhiệt độ phòng nhưng may mắn không gặp vấn đề gì về tiêu hóa, ngộ độc.


Nhờ các tiêu chuẩn này kết hợp với việc kiểm soát ký sinh trùng Trichinella trong chăn nuôi hiện đại, nguy cơ từ thịt heo sống ở Đức đã giảm xuống mức rất thấp. Tuy nhiên, giống như mọi loại thực phẩm sống khác, Mett vẫn tiềm ẩn rủi ro vi khuẩn như salmonella, yersiniosis, campylobacter dù tỷ lệ thực tế thấp.

Hoài Anh / Theo: Tasting Table, German Culture
Link tham khảo: