Tuesday, November 8, 2016

WASABI


Chắc chắn là chẳng ai lạ gì Wasabi, một loại chất cay phải có khi ăn Sashimi và các món ăn khác của Nhật Bản. Trong các tài liệu về loại cây Wasabi thì đây là một loại cây khó trồng nhất trên thế giới (the hardest plant to grow) vả lại người Nhật cũng không muốn các nước khác trổng được loại cây này, gần như nó phải được trồng trong thiên nhiên nước Nhật và một loại cây độc quyền của họ.
Chiều nay xem một tập khác của Food Source (食在好源头) giới thiệu về nước Úc mới biết rằng ở Úc cũng có một người rất can đảm bỏ ra hàng triệu bạc để xây dựng một khu nông trại trồng Wasabi theo phương pháp trồng cây trong nước (the hydroponically grow). Đó là anh Stephen Welsh, hiện nông trại Wasabi của anh ở Port Sorell, phía Bắc Tasmania. Nông trại của anh bán củ, lá non và hoa cho các nhà hàng ở Úc.


Đặc biệt lá và hoa của Wasabi đều cay và hăng lên mũi. Nếu Horseradish thường bán khoảng $30.00 một ký thì Japanese Horseradish (wasabi) được bán hơn $150.00 một ký.
Bây giờ thì mời các bạn đọc một bài giới thiệu về loại cây này:(LKH)

WASABI
Wasabi (tiếng Nhật: わさび, ワサビ, tiếng Hoa 山葵 (Sơn Quỳ), nguyên thủy viết là 和佐比 (Hòa Tá Bì), tiếng Việt thường gọi là Bồ Tạt; danh pháp hai phần: Eutrema japonicum, đồng nghĩa: Cochlearia wasabi, Wasabi japonica, Lunaria japonica, Wasabia wasabi, Wasabia pungens) là một thành viên của họ Cải (Brassicaceae), có họ hàng với các loài cải bắp, cải ngựa, cải dầu và mù tạc. Được biết đến như là "cải ngựa Nhật Bản", rễ (củ) của nó được dùng làm gia vị và có vị cay cực mạnh. Vị cay của nó giống như của mù tạc hơn là vị cay của capsaicin trong ớt, sinh ra hơi có tác dụng kích ứng mũi hơn là tác dụng lên lưỡi. Loài cây này mọc tự nhiên dọc theo lòng suối trong các thung lũng triền sông miền núi ở Nhật Bản. Các loài khác trong chi này như W. koreana và W. tetsuigi cũng dược sử dụng làm gia vị. Hai giống cây trồng chính trên thương trường là W. japonica var. Daruma và var. Mazuma, nhưng còn có nhiều giống khác.


Wasabi nói chung hoặc là được bán dưới dạng củ (wasabi tươi), và nó phải được nạo (mài) mịn trước khi dùng hoặc dưới dạng bột nhão có thể dùng ngay, thường trong tuýp với kích thước và hình dáng tương tự như tuýp thuốc đánh răng dùng khi đi du lịch. Khi ở dạng tuýp dùng ngay nó phải được che đậy kín cho đến khi dùng để tránh mất mùi và vị do bay hơi. Vì lý do này, trong món sushi người ta thường cho wasabi vào giữa cá và cơm.
Lá non của wasabi cũng có thể ăn được và có vị cay gần giống như của rễ wasabi. Nó có thể được dùng dưới dạng xà lách wasabi bằng cách ngâm qua đêm với muối ăn và dấm hay trần qua với một chút xì dầu. Ngoài ra, lá có thể làm thành bột nhão và rán thành các miếng mỏng.


Cảm giác cay và nóng do nó sinh ra là ngắn ngủi khi so với các tác động của ớt, đặc biệt là khi người ta dùng nước để loại bỏ vị của gia vị.
Wasabi thường được dùng cùng các món như sushi hay sashimi, nói chung hay được kèm với xì dầu. Hai loại này cũng hay được trộn lẫn cùng nhau để tạo ra một loại nước xốt ngâm, gọi là wasabi-joyu.
Kem wasabi là phát kiến gần đây nhưng có độ phổ biến ngày càng gia tăng.


Nghiên cứu gần đây chỉ ra rằng wasabi chứa các hóa chất tự nhiên có tác dụng chống lại một số tế bào ung thư nhất định. Loài rau ăn củ này cũng có thể sử dụng trong vệ sinh và phòng chống nhiễm trùng đường miệng. Người ta cho rằng wasabi có thể ngăn ngừa các bệnh tim mạch như đột quỵ, tăng huyết áp và đau tim. Nó cũng có thể có tác dụng tốt trong phòng chống tiêu chảy, loãng xương, hen suyễn, viêm khớp và dị ứng.



(theo Wikipedia)

Nếu các bạn muốn biết thêm về nông trại Wasabi ở Tasmania xin vào xem link dưới đây:
(Sưu tầm trên mạng)

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.