Wednesday, March 8, 2017

NGHỆ THUẬT CHỬI MÓC

Chửi người ta là cốt để người ta phải tức giận và nổi xung lên. Kiểu chửi mắng gây ồn ào, lấy thịt đè người vừa thiếu văn hóa lại vừa không tạo được “hiệu quả” như mong muốn của người chửi.


Trong kho tàng văn học dân gian Việt Nam đã từng có một cuộc thi chửi để tìm hiệu quả cao nhất. Đó là chuyện của Ba Giai và Tú Xuất. Giai thoại rằng: “Ba Giai và Tú Xuất đều cho mình là tay cao thủ trong chuyện chửi xỏ xiên thiên hạ, không ai chịu kém ai. Thế nên để phân tài cao thấp, Ba Giai và Tú Xuất thi chửi thiên hạ xem ai là người bị thiên hạ chửi nhiều hơn. Tú Xuất là tay đanh đá nên đã từng chửi nhau 7 ngày với một bà hàng nước và giành chiến thắng nên rất tự tin. Tú Xuất chửi một hồi nhưng chỉ được chục người đáp lại vì không ai dại “dây với hủi”. Nhưng Ba Giai, với sự thâm trầm của mình, đi ra bến đò nhằm lúc đò đông mà rủa móc là đò sắp đắm. Không cần biết trên bờ là ai, cả trăm cái miệng đều chửi Ba Giai. Tú Xuất phục Ba Giai tài chửi hơn mình".
Việc chửi thi mồm to chỉ là chuyện "võ biền". Nói móc mới là nghệ thuật cao nhất của chửi, khiến người nghe phải phát điên và có khi … qua đời. Trong Tam Quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, Khổng Minh là bậc thầy chửi móc nên dạy quân sĩ móc Chu Du là: “ Chu Du mẹo giỏi yên thiên hạ, đã mất phu nhân lại thiệt quân”, Du nghe xong khí uất đầy ruột, thổ huyết sau đó bệnh nặng mà chết. Khi Khổng Minh sang khẩu chiến với quần nho của Giang Đông, các bên cũng nói móc nhau để tạo thế trên bàn ngoại giao. Mưu sĩ Giang Đông nói: “Lưu sứ quân từ khi có tiên sinh đánh đâu thua đấy”, Khổng Minh móc lại: “Cái chí của đại bàng thì bọn sẻ biết thế nào được”. Nhưng Khổng Minh cũng chưa phải là người nói móc đầu tiên ghi trong chuyện Tàu. Thời Xuân Thu, Án Anh, thừa tướng nước Tề khi sang Sở bị tướng Sở bắt chui lỗ chó vào thành thì chửi móc luôn: “Đi sứ nước người thì vào cửa người, đi sứ nước chó thì vào cửa chó”. Người Sở căm tức nhưng không làm gì được.


Chẳng cứ quan văn mà quan võ cũng nói móc nhau trước trận để khiến đối phương tức điên lên. Trong trận Trương Phi đại chiến Mã Siêu (Tam Quốc diễn nghĩa), Phi múa mâu tự giới thiệu theo đúng bài: “Ta là Trương Dực Đức người nước Yên”. Mã Siêu nói móc luôn: “Nhà tao đời đời làm khanh tướng, đâu biết đến loại thất phu quê kệch như ngươi”. Trương Phi vốn xuất thân từ nhà bán thịt lợn, bị nói móc dòng dõi gia đình thấp hèn nên nổi điên ngay.
Đó là trong tiểu thuyết, còn đời sống hằng ngày, chuyện nói móc nhan nhản. Nó không thô như chửi to tiếng nhưng lại làm người nghe phải đau vì mỗi câu, mỗi từ như cứa vào nỗi đau của người khác. Hai nhà hàng xóm cãi nhau, một bà chửi sang luôn nhà bên kia: “Tao không chửi mày mà cho con tao sang chửi mày”. Bà kia vốn mặc cảm muộn chồng nên bị đối thủ chửi như vậy thì cứng họng nuốt nước mắt vào lòng. Không thể đỡ nổi với kiểu chửi móc thâm như thế. Nhiều khi để tạo sự uy hiếp cho đối thủ, cao thủ chửi móc không ngại lôi nỗi đau từ đời nảo đời nào của đối thủ ra bêu riếu. Vì những điều bị biêu riếu là sự thật nên đối thủ chỉ còn nước chào thua.
Trên mạng internet hiện giờ, dù là thế giới ảo nhưng cũng có vô số cao thủ chửi móc tại nhiều diễn đàn. Gặp một vấn đề tranh luận, thấy người kia sai một chút về kiến thức thì sẽ bị móc ngay: “Trình độ như chú không đáng để bàn chuyện với anh” hoặc “Chú nên về nhà đọc sách 10 năm rồi quay lại tranh luận với anh tiếp”. Không có một từ văng tục trong câu chửi nhưng người nghe khí uất đầy ruột chỉ muốn cầm bàn phím mà đập vào màn hình. Nếu trả đũa chửi lại trên diễn đàn thì sẽ bị admin khóa nick ngay. Trò chơi kết thúc, cao thủ chửi móc sẽ ngồi một góc cười rằng: “Trình độ tranh luận như thế thì non lắm”.



Bài đọc thêm:
Ngôn ngữ chửi bới trong tiểu thuyết Kim Dung
Tiểu thuyết võ hiệp Kim Dung xây dựng thế giới của bọn hào sĩ giang hồ. Các nhân vật này sống trên đường đao mũi kiếm, ít được học hành, lại ỷ mình có chút võ công cho nên họ ăn nói rất lỗ mãng. Họ chửi bới kẻ thù, chửi bới người khác rất tự nhiên. Ngôn ngữ chửi bới đối với họ đã trở thành quán tính đến nỗi ta có thể nói không nghe tiếng chửi bới thì họ không còn là hào sĩ giang hồ.
Thông thường, bọn hào sĩ giang hồ chửi người khác bằng những cụm từ quân rùa đen, phường chó đẻ, bọn mặt dơi tai chuột, bọn trôi sông giạt chợ, quân chó lộn giống, bọn mèo què…Đàn ông thì tự xưng là “lão gia, lão tử”. Phụ nữ thì tự xưng là “lão nương” mặc dù họ chỉ mới vài ba chục tuổi. Nàng Khang Mẫn trong Thiên Long bát bộ chửi hương hồn chồng mình là Mã Đại Nguyên: “Mã Đại Nguyên, ngươi đừng làm ma nhát quỷ. Lão nương không sợ ngươi đâu”.
Giận lên, bọn hào sĩ giang hồ chửi tưới hạt sen, không tha một ai hết. Các nhà sư bị họ chửi là bọn trọc đầu, thầy chùa thối tha, thầy chùa chết đâm. Các đạo sĩ tu theo Đạo giáo của các phái Võ Đang hay Toàn Chân bị chửi là bọn lỗ mũi trâu. Minh giáo (Manicheisme - Ma Ni giáo, một tôn giáo đứng đắn bắt nguồn từ Bái Hỏa giáo) bị họ tước bỏ chữ Ni, chỉ còn Ma giáo (đạo thờ ma). Diệt Tuyệt sư thái, chưởng môn phái Nga Mi (Ỷ thiên đồ long ký) mở miệng ra là chửi là dâm tặc Ma giáo.


Tuy nhiên, kẻ chửi bới sáng tạo nhất, ngôn ngữ mới lạ nhất là Vi Tiểu Bảo, công tước của triều Thanh. Hắn xuất thân từ kỹ viện thành Dương Châu, lại được vào tu nghiệp trong hoàng cung Thanh triều. Mà hoàng cung và kỹ viện là hai nơi trá ngụy nhất trên đời nên Vi Tiểu Bảo được coi là bậc thầy của nghề chửi bới.
Hơn tất cả mọi người, hắn dám chửi thái hậu là mụ điếm già; chửi công chúa Kiến Ninh là con đượi non; chửi thượng thiện thái giám Hải lão công là Hải lão con rùa. Hắn luôn luôn đem tất cả những người phụ nữ khác, từ công chúa, quận chúa đến thứ dân so sánh với các kỹ nữ trong Lệ Xuân Viện thành Dương Châu. Sang Vân Nam, hắn chửi Bình Tây vương Ngô Tam Quế là đại hán gian; chửi Ngô Ứng HÙNG - con Ngô Tam Quế là tiểu hán gian. Hắn chửi hay đến nỗi hai vị sư phụ của hắn là Khang Hy, hoàng đế Thanh triều và Trần Cận Nam, tổng đà chúa của Thiên Địa hội chống Thanh triều đều học theo hắn mà chửi. Họ chửi thái hậu giả là mụ điếm già. Và do thù mụ điếm già mà Khang Hy đem con đượi non Kiến Ninh công chúa (trên danh nghĩa là em Khang Hy) gả cho tiểu hán gian Ngô Ứng Hùng.
Ngay trên bàn đàm phán, đang làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Thanh triều, hắn cũng chửi Phí Diêu Đa La Quả La Văn (Feodore Golovin), đại sứ đặc mệnh toàn quyền của Nga La Tư (La Sát). Gặp Kim Dung viết: “Con mẹ quân chó đẻ! Ta nguyền rủa tổ tôn mười tám đời bọn quỷ La Sát các ngươi”. Thốt xong câu đó, hắn chửi Phí Diêu Đa La ào ạt. Kim Dung viết: “Rồi tiếp đến những lời thô tục tuôn ra như nước chảy, thao thao bất tuyệt. Hắn chửi cao tổ mẫu, tằng tổ mẫu, rồi đến tổ mẫu, mẫu thân, tỷ muội, bà ngoại, a di, cô mẫu nhà Phí Diêu Đa La. Hắn chửi tưới hột sen, chửi vung xích chó. Bao nhiêu đàn bà người họ Phí của nước La Sát hắn chửi tuốt, không chừa một ai”.


Hắn chửi bằng thổ ngữ đất Dương Châu (tỉnh Triết Giang); bọn thuộc hạ của hắn là người Trung Quốc nghe mà vẫn không hiểu công tước chửi cái gì. Ấy bởi vì họ nói tiếng Quan thoại. Chửi như thế thì bảo làm sao đại sứ Sa hoàng Nga có thể nghe ra được. Thật ra, Phí Diêu Đa La không phải họ Phí mà là họ Quả La Văn. Tuy nhiên, hắn cứ đè họ Phí mà chửi vì hắn dốt nát, đâu biết được người Nga cái tên đặt ở trước cái họ.
Lịch sử chiến tranh Trung Quốc cho biết người Trung Quốc thường dùng những tên to con, tốt tướng, miệng rộng, giọng to làm mạ thủ. Mạ thủ có nhiệm vụ ở truồng, đến trước thành bên địch mà chửi để khiêu khích tướng địch mở cửa thành ra đánh. Vi Tiểu Bảo bắt được một số hàng binh Nga, cũng buộc họ làm mạ thủ chửi tướng Đồ Nhĩ Bố Thanh (Tolbusin) mở cửa thành Nhã Tát Khắc (Nertohinsky) ra đánh nhau. Tuy nhiên, hắn thất vọng vì ngôn ngữ chửi của bọn lính Nga quá tầm thường, quanh đi quẩn lại chỉ là ngươi là con heo, ngươi là đồ chó. Hắn phải công nhận chỉ có người Trung Quốc chửi mới có ca có kệ, có vần có điệu và ngôn ngữ cực kỳ phong phú.


Trong 12 bộ tiểu thuyết và 3 đoản thiên của Kim Dung tràn đầy tiếng chửi bới. Tuy nhiên, những tiếng chửi bới này đặt vào đúng những văn cảnh, những tình huống, phù hợp với cách của từng nhân vật nên khi đọc, người đọc cảm thấy vui. Kim Dung không làm dơ văn chương của mình và cũng không muốn văng tục vào cuộc đời. Nghiêm Gia Viêm, giáo sư trường Đại học Bắc Kinh nhận định: “Kim Dung đã đưa tiểu thuyết võ hiệp lên ngang hàng với văn học cung đình”.
Vũ Đức Sao Biển
(Sưu tầm trên mạng)

No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.