Monday, June 5, 2023

CÁC CƠ CHẾ TỰ VỆ CỦA TÂM LÝ (DEFENSE MECHANISMS)

Chúng ta đều có những suy nghĩ, cảm xúc, và ký ức khó đối mặt. Trong một vài trường hợp, con người đương đầu với những cảm xúc đó bằng cách sử dụng các cơ chế tự vệ của tâm lý. Những cơ chế này là những phản ứng tâm lý vô thức giúp bảo vệ chủ thể khỏi những mối đe dọa và những thứ họ không muốn nghĩ đến hoặc đối mặt.

Nguồn: Risk Management

Thuật ngữ này bắt nguồn từ phân tâm trị liệu, nhưng dần dà đã len lỏi vào ngôn ngữ đời thường. Hãy nghĩ đến lần gần đây nhất khi bạn cho rằng một ai đó đang “chối bỏ” hoặc quy cho một người đang “hợp lý hóa” điều gì đó. Cả hai ví dụ này đều chỉ một dạng cơ chế tự vệ của tâm lý.

Vậy chính xác thì cơ chế tự vệ của tâm lý là gì?

Được Freud sử dụng phổ biến trong học thuyết về nhân cách của mình, cơ chế tự vệ của tâm lý là một chiến thuật được bản ngã hình thành nhằm bảo vệ chủ thể khỏi sự lo âu. Các cơ chế tư vệ của tâm lý được coi là người bảo vệ tâm trí khỏi những cảm xúc và suy nghĩ mà ý thức khó xử lý. Có lúc, những cơ chế tự vệ này còn giúp ngăn những suy nghĩ, ham muốn không phù hợp hay không mong muốn đi vào vùng ý thức.

Các cơ chế tự vệ tâm lý hoạt động như thế nào?

Trong mô hình tính cách của Freud, bản ngã là khía cạnh tính cách thể hiện mặt cái hiện thực. Trong lúc làm nhiệm vụ, bản ngã phải xử lý cả những nhu cầu xung đột giữa bản năng và siêu ngã.

Bản năng là bộ phận tính cách nỗ lực tìm cách lấp đầy tất cả những mong muốn, nhu cầu và thôi thúc của chủ thể. Nó là bộ phận cơ bản nhất, nguyên sơ nhất của tính cách con người, nó chẳng bao giờ màng đến những thứ như đạo đức, những điều được xã hội chấp nhận hay thậm chí là tính thực tế khả thi khi đáp ứng những ham muốn và nhu cầu đó.

Siêu ngã luôn tìm cách khiến bản ngã hành xử một cách có đạo đức, đúng lý tưởng. Bộ phận này của tính cách được hình thành từ tất cả những giá trị và luân lý đạo đức ta tiếp nhận từ cha mẹ, các thành viên trong gia đình, ảnh hưởng từ tôn giáo và xã hội.

Để xử lý tình trạng lo âu, Freud tin rằng các cơ chế tự vệ của tâm lý giúp tạo nên lá chắn cho bản ngã, ngăn nó khỏi rơi vào xung đột do bản năng, siêu ngã và hiện thực tạo ra.

Vậy điều gì diễn ra khi bản ngã không thể xử lý được những nhu cầu từ bản năng, những thúc ép từ hiện thực và những tiêu chuẩn đạo đức? Theo Freud, lo âu là một tình trạng khó chịu tồn tại bên trong mà ai cũng muốn né tránh. Lo âu giống như một tín hiệu báo cho bản ngã thấy rằng mọi thứ đang đi lệch hướng. Kết quả là, bản ngã sử dụng một cơ chế tự vệ để giúp giảm đi những cảm xúc lo âu này.

Nguồn: Psychologist World

Các loại lo âu.

Không phải tất cả mọi lo âu đều được sinh ra như nhau. Chúng cũng chẳng xuất phát từ cùng một nguồn căn. Freud xác định được 3 loại lo âu:

Lo âu thần kinh là cảm giác lo lắng khó chịu, sợ rằng mình sẽ không thể kiểm soát được thôi thúc của bản năng, để rồi sẽ bị trừng phạt vì những hành vi không thích hợp của mình.

Lo âu hiện thực là nỗi sợ những sự kiện xảy ra trong đời thực. Nguyên nhân của nỗi lo âu này thường khá dễ xác định. Ví dụ, một người sẽ sợ bị chó cắn khi người này ở gần một con chó dữ. Cách thường gặp nhất để giảm tình trạng lo âu này là tránh né mối đe dọa.

Lo âu đạo đức là nỗi lo mình sẽ vi phạm những nguyên lý đạo đức của bản thân.

Mặc dù chúng ta có lẽ đều đã, đang sử dụng những cơ chế này, nhưng trong nhiều trường hợp, các cơ chế tự vệ này hoạt động trong vô thức nhằm bóp méo hiện thực. Ví dụ, nếu bạn bị giao cho một nhiệm vụ cực kỳ khó chịu, tâm trí bạn có thể sẽ chọn cách quên đi trách nhiệm của mình nhằm tránh né loại công việc mà cứ nghĩ đến đã thấy sợ này. Ngoài cơ chế quên, ta còn có các cơ chế khác bao gồm hợp lý hóa, chối bỏ, đè nén, phóng chiếu, loại bỏ, và hình thành phản ứng.

Mặc dù tất cả những cơ chế tự vệ này có thể không tốt cho sức khỏe nhưng chúng cũng giúp chủ thể thích nghi tốt hơn và cho phép chủ thể vận hành một cách bình thường. Những vấn đề lớn nhất sẽ xuất hiện khi những cơ chế tự vệ này bị lạm dụng quá mức để giúp chủ thể tránh không phải xử lý vấn đề. Trong phân tâm trị liệu, mục tiêu chung của điều trị là giúp khách hàng tiết lộ những cơ chế tự vệ trong vô thức này và tìm kiếm cách nào đó tốt hơn, lành mạnh hơn để xử lý lo âu và tình trạng khó chịu của bản thân.


10 Cơ chế tự vệ chính của tâm lý.

Con gái của Sigmund Freud, Anna Freud đã mô tả 10 cơ chế tự vệ khác nhau được bản ngã sử dụng. Những nhà nghiên cứu khác cũng đã mô tả khá nhiều hình thức đa dạng khác của cơ chế tự vệ.

1. Đổi chỗ.

Bạn đã bao giờ có một ngày làm việc cực kỳ tệ hại, bạn về nhà và trút hết nỗi bực dọc lên gia đình và bạn bè? Nếu vậy bạn đã trải nghiệm cơ chế tự vệ tâm lý của bản ngã có tên là Đổi chỗ.

Đổi chỗ là trút nỗi bực dọc, cảm xúc, thôi thúc đè nén của chủ thể lên những người hoặc những vật ít có khả năng đe dọa đến chủ thể hơn.

Lối hành xử hung hăng là một ví dụ thường gặp do cơ chế tự vệ đổi chỗ gây ra. Thay vì bộc lộ cơn giận theo một cách thức có thể đưa đến hệ quả tiêu cực (như cãi lại sếp), chúng ta thể hiện sự tức tối lên một người hay một vật không gây đe dọa lên chúng ta (như bạn đời, con cái, hay thú cưng).

Nguồn: saidaonline.com

2. Chối bỏ.

Chối bỏ có thể là một trong những cơ chế tự vệ thường gặp nhất, được sử dụng để mô tả những tình huống khi con người ta không thể đối mặt với hiện thực hoặc thừa nhận một sự thật (ta hay nói “Anh ấy đang chối bỏ sự thật.”) Chối bỏ là thẳng thừng từ chối thừa nhận hoặc không nhận ra điều gì đó đã xảy ra hoặc đang hiển hiện. Người nghiện ma túy và chất có cồn thường chối bỏ sự thật rằng mình đang gặp vấn đề, còn những nạn nhân của một sự kiện gây sang chấn lại chối bỏ sự thật, nhất quyết cho rằng sự kiện này chưa hề xảy ra.

Chối bỏ giúp bảo vệ bản ngã khỏi những thứ mà chủ thể không thể đối phó. Mặc dù chối bỏ có thể giúp ta tránh được nỗi đau hoặc sự lo âu nhưng nó cũng khiến ta phải tốn kha khá năng lượng. Vì vậy, chủ thể cũng sẽ áp dụng một số cơ chế tự vệ khác để giúp ngăn những cảm xúc khó chấp nhận này không đi vào vùng ý thức.

Nguồn: Beginnings Treatment Centers

Trong nhiều trường hợp, dù đã có bằng chứng rõ rằng chỉ ra một sự thật nào đó hiển hiện nhưng chủ thể sẽ tiếp tục chối bỏ sự thật hay sự tồn tại của nó vì chủ thể không thể đối mặt với sự khó chịu nó mang lại.

Chối bỏ có thể là sự khước từ thẳng thừng sự tồn tại của hiện thực hoặc một sự thật nào đó. Cũng có khi, việc một người thừa nhận sự hiện hữu của một điều gì đó nhưng lại giảm thiểu tầm quan trọng của nó cũng gọi là chối bỏ. Đôi lúc con người ta sẽ chấp nhận sự thật và sự nghiêm trọng của sự thật đó nhưng họ sẽ vẫn tiếp tục chối bỏ trách nhiệm và thay vào đó lại đổ lỗi cho người hoặc một thế lực bên ngoài nào khác.

Nghiện là một trong số những ví dụ dễ thấy nhất về sự chối bỏ. Người gặp vấn đề lạm dụng chất thường sẽ thẳng thường chối bỏ việc mình đang có những hành vi không tốt. Trong một số trường hợp khác, họ có thể thừa nhận bản thân có sử dụng ma túy hoặc chất có cồn nhưng lại tuyên bố rằng việc sử dụng chất này của họ không phải vấn đề và cũng không gây ra vấn đề gì.

3. Đè nén và đàn áp.

Đè nén cũng là một cơ chế tự vệ phổ biến khác. Đè nén giúp giữ thông tin không xâm nhập vào vùng ý thức. Tuy nhiên, những ký ức này không biến mất đi; chúng sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng lên hành vi. Ví dụ, một người đè nén ký ức bị bạo hành khi còn nhỏ có thể sẽ gặp khó khăn trong việc tạo dựng những mối quan hệ sau này khi lớn lên.

Đôi khi, ta ý thức được mình đang làm điều này bằng cách dồn ép những thông tin không mong muốn ra khỏi ý thức, hay còn gọi là đàn áp. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, việc loại bỏ ký ức gây lo âu này ra khỏi ý thức thường xuất hiện trong vô thức.

Nguồn: Therapy in London

4. Thăng hoa.

Thăng hoa là một cơ chế tự vệ giúp ta bộc lộ những thôi thúc không được chấp nhận bằng cách cải biến những hành vi này theo cách thức dễ được chấp nhận hơn. Ví dụ, một người trải nghiệm cơn giận tột độ có thể sẽ lao vào chơi đấm bốc, lấy đó là phương tiện để trút giận. Freud tinh rằng thăng hoa chính là dấu hiệu của sự trưởng thành, giúp con người ta vận hành một cách bình thường, được đông đảo xã hội chấp nhận.

Nguồn: Women Business Owners

5. Phóng chiếu.

Phóng chiếu là một cơ chế tự vệ khi chủ thể lấy những cảm xúc hay phẩm chất khó chấp nhận của bản thân và gán chúng lên người khác. Ví dụ, nếu bạn cực kỳ không ưa một ai đó, bạn có thể tin rằng người đó cũng chẳng ưa gì bạn. Phóng chiếu cho phép chủ thể bộc lộ những khao khát hoặc thôi thúc ra ngoài nhưng bản ngã không nhận ra sự thể hiện này, chính vì vậy lo âu của chủ thể mới nhờ đó mà giảm xuống.

6. Tri thức hóa.

Trí thức hóa giúp giảm lo âu thông qua việc suy nghĩ về những sự kiện theo một phong cách chuyên môn, lạnh lùng không cảm tính. Cơ chế tự vệ này cho phép chúng ta tránh suy nghĩ về những khía cạnh căng thẳng, quá “đậm đà” cảm xúc của tình huống, mà thay vào đó, chỉ tập trung vào yếu tố kiến thức. Ví dụ, một người vừa bị chẩn đoán mắc một căn bệnh nan y sẽ tập trung tìm hiểu mọi kiến thức về căn bệnh để tránh không cảm thấy đau buồn và vẫn duy trì được khoảng cách giữa mình với hiện thực đang diễn ra.

7. Hợp lý hóa.

Hợp lý hóa là cơ chế tự vệ diễn ra khi chủ thể giải thích một hành vi hay cảm xúc không được chấp nhận theo một cách thức hợp lý, có lô-gíc, tránh né những lý do thực sự đằng sau hành vi. Ví dụ, một người bị người mình thích từ chối không đi hẹn hò cùng có thể sẽ hợp lý hóa tình huống này bằng cách cho rằng mình cũng chẳng bị người kia thu hút gì lắm. Một sinh viên có điểm bài kiểm tra tệ hại có thể sẽ đổ lỗi cho người hướng dẫn thay vì thừa nhận mình thiếu sự chuẩn bị.

Hợp lý hóa không chỉ giúp ngăn ngừa lo âu, nó còn giúp bảo vệ lòng tự trọng và cách ta nhìn nhận về bản thân. Khi đối mặt với thất bại hoặc thành công, con người ta có xu hướng quy thành tích mình đạt được cho những phẩm chất và kỹ năng của bản thân, còn nếu gặp thất bại thì đó là lỗi do người khác hoặc những thế lực bên ngoài.

8. Thoái lui.

Khi đối mặt với những sự kiện gây căng thẳng, con người ta đôi khi lại ruồng bỏ những chiến lược đối phó mình vốn nên làm và quay trở lại với những hành vi trước đây. Anna Freud gọi đây là cơ chế tự vệ thoái lui, là khi con người ta thể hiện những hành vi bị cắm chốt từ một giai đoạn phát triển tâm lý tính dục nào đó. Ví dụ, một người bị cắm chốt ở giai đoạn phát triển tâm lý tính dục ban đầu có thể sẽ khóc lóc hoặc hờn dỗi khi nghe được thông tin không mấy dễ chịu.

Hành vi liên quan đến thoái lui có thể biến động rất nhiều tùy thuộc vào việc chủ thể bị cắm chốt ở giai đoạn nào. Một người bị cắm chốt tại giai đoạn miệng có thể bắt đầu ăn uống hoặc hút thuốc quá mức, hoặc có thể có những lời nói hung hăng. Cắm chốt ở giai đoạn hậu môn có thể đưa đến tình trạng ngăn nắp hoặc bừa bộn quá mức.

Nguồn: Who needs normal?! – WordPress.com

9. Hình thành phản ứng ngược.

Hình thành phản ứng làm giảm lo âu bằng cách thể hiện những cảm xúc, thôi thúc hay hành vi theo hướng trái ngược. Một ví dụ về cơ chế này là việc đối xử với người bạn cực kỳ không ưa theo một cách quá mức thân thiện nhằm che dấu cảm xúc thực của bản thân. Tại sao người ta lại hành xử như vậy? Theo Freud, họ đang sử dụng cơ chế tự vệ hình thành phản ứng ngược nhằm che dấu cảm xúc thật bằng việc hành xử ngược lại hoàn toàn.

10. Các cơ chế tự vệ khác.

Kể từ lần đầu tiên Freud mô tả những cơ chế tự vệ tâm lý ban đầu, những nhà nghiên cứu khác đã tiếp tục mô tả những phương thức làm giảm lo âu khác. Một số bao gồm:

– Quấy phá: Trong dạng tự vệ này, chủ thể ứng phó với căng thẳng bằng hành động cụ thể rõ ràng, hơn là chỉ phản ánh lại những cảm xúc nội tại.

– Liên kết: Tìm kiếm sự trợ giúp từ người khác.

– Hạn chế mục tiêu: Trong dạng tự vệ này, chủ thể sẽ chấp nhận điều chỉnh mục đích ban đầu của mình (ví dụ như chỉ trở thành một huấn luyện viên bóng rổ tại trường trung học thay vì là một vận động viên chuyên nghiệp)

– Vị tha: Thỏa mãn nhu cầu nội tại bằng cách giúp đỡ người khác.

– Né tránh: Từ chối xử lý hoặc đối mặt với những vật thể hoặc tình huống gây khó chịu.

– Đền bù: Thể hiẹn xuất sắc quá mức trong một lĩnh vực để bù lại cho thất bại trong lĩnh vực khác.

­– Óc hài hước: Chỉ ra những khía cạnh hài hước hay châm biếm của một tình huống.

– Hung hăng thụ động: Gián tiếp thể hiện cơn giận.

– Mộng tưởng: Né tránh hiện thức bằng cách lui vào một nơi an toàn nào đó trong tâm trí.

– Làm lại: Cố tìm cách bù đắp cho những suy nghĩ, cảm xúc hay hành vi không phù hợp. Nếu bạn làm ai đó tổn thương, bạn có thể làm điều tốt cho họ để làm khuây khỏa bớt nỗi lo âu của mình.

Mặc dù các cơ chế tự vệ của tâm lý thường bị coi là những phản ứng tiêu cực, nhưng chúng ta đều cần chúng để tạm thời xua đi căng thẳng và bảo vệ lòng tự trọng trong những thời điểm then chốt, cho phép TA tập trung vào thứ cần thiết trong thời điểm đó. Sẽ có cơ chế này hữu ích hơn cơ chế kia. Ví dụ, sử dụng óc hài hước để vượt qua tình huống căng thẳng, gây lo âu có thể là một cơ chế tự vệ tốt giúp chủ thể thích nghi tốt hơn.


Kết luận.

Một vài cơ chế tự vệ phổ biến đã trở thành một phần thường gặp trong ngôn ngữ thường nhật. Chúng ta có thể mô tả một người đang “chối bỏ” một vấn đề họ gặp phải. Khi một ai đó “ngựa quen đường cũ”, ta có thể gọi người này đang “thoái lui” về thời điểm ban đầu của sự phát triển.

Cần nhớ rằng các cơ chế tự vệ có thể vừa tốt vừa xấu. Chúng có thể có vai trò hữu ích giúp bảo vệ bản ngã khỏi căng thẳng và mang đến những lối thoát lành mạnh. Nhưng cũng có khi, những cơ chế này có thể kìm giữ bạn khiến bạn không thể đối mặt với hiện thực và có thể là một kiểu tự lừa dối bản thân.

Nếu bạn thấy mình đang lạm dụng một số cơ chế tự vệ nhất định và việc này gây ảnh hưởng tiêu cực lên đời sống của bạn thì hãy cân nhắc trao đổi thêm với bác sĩ, nhà tâm lý, hoặc những chuyên gia sức khỏe tâm thần khác để được trợ giúp. Cân nhắc thử làm các bài kiểm tra về cơ chế tự vệ của tâm lý để xem khả năng của mình đến đâu trong việc xác định những dạng tự vệ nào đang tồn tại.

Tham khảo.

Burgo, J. why Do I Do That? Psychological Defense Mechanisms and the Hidden Ways They Shape Our Lives. Chapel Hill, NC: New Rise Press; 2012.

Corey, G. Theory and Practice of Counseling and Psychotherapy (8th ed.). Belmont, CA: Thomson Brooks/Cole; 2009.

Nguồn:
https://www.verywellmind.com/defense-mechanisms-2795960

Như Trang / Theo: trangtamly



No comments:

Post a Comment

Note: Only a member of this blog may post a comment.