Vương Tuấn lâu thuyền há Ích Châu,
Kim Lăng vương khí ảm nhiên thâu.
Thiên tầm thiết toả trầm giang để,
Nhất phiến hàng phan xuất Thạch Đầu.
Nhân thế kỷ hồi thương vãng sự,
Sơn hình y cựu chẩm hàn lưu.
Tòng kim tứ hải vi gia nhật,
Cố luỹ tiêu tiêu lô địch thu.
Núi Tây Tái nay ở huyện Đại Trị, tỉnh Hồ bắc, xưa là nơi Tôn Sách đánh Hoàng Tổ. Có sách nói rằng Lưu Vũ Tích cùng Vị Sở Khách, Nguyên Chẩn đến chơi nhà Bạch Cư Dị. Trong tiệc rượu, bốn người này ước hẹn mỗi người làm một bài thơ Kim Lăng hoài cổ. Sau khi Vũ Tích làm xong bài Tây Tái sơn hoài cổ, Bạch Cư Dị thán phục nói: trong bốn người đi kiếm loài ly long, bác đã bắt được ngọc châu trước, còn lại vẩy móng, thì dùng làm gì nữa! Rồi cả ba người đều thôi không làm tiếp.
西塞山懷古
王濬樓船下益州
金陵王氣黯然收
千尋鐵鎖沈江底
一片降旛出石頭
人世幾回傷往事
山形依舊枕寒流
從今四海為家日
故壘蕭蕭蘆荻秋
Nghĩ lại chuyện xưa ở núi Tây Tái
(Dịch thơ: Trần Trọng San)
Vương Tuấn xuôi thuyền xuống Ích Châu,
Kim Lăng vương khí ủ ê rầu.
Đáy sông chằng chịt giăng xiềng sắt,
Cờ trắng lơ thơ ló Thạch Dầu.
Nhân thế bao lần thương chuyện cũ,
Hình non còn gối lạnh dòng sâu.
Từ nay bốn bể nhà chung một,
Lũy cũ, lau thu tiếng xạc xào.
Lưu Vũ Tích 劉禹錫 (772-842) tự Mộng Đắc 夢得, người Bành Thành (nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Vân, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Lãng Châu thứ sử. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương, Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào. Tác phẩm có Lưu Vũ Tích tập.
Nguồn: Thi Viện