Nguyễn Du
Bá vương trần tích thuộc du du,
Hán thuỷ thao thao trú dạ lưu.
Quy Hạc lưỡng sơn tương đối ngạn,
Thần tiên nhất khứ chỉ không lâu.
Thi thành thảo thụ giai thiên cổ,
Nhật mộ hương quan cộng nhất sầu.
Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ,
Bạch tần hồng liễu mãn đinh châu.
Ghi chú: Hán Dương: một huyện thuộc tỉnh Hồ bắc, cách Võ Xương một con sông. Võ Xương là nơi có lầu Hoàng Hạc. Trong bài thơ "Hoàng Hạc lâu" của Thôi Hiệu có câu: "Tình xuyên lịch lịch Hán Dương thụ, Phương thảo thê thê Anh Vũ châu" (Tản Đà dịch: Hán Dương sông tạnh cây bày, Bãi xa Anh Vũ xanh đầy cỏ non).
漢陽晚眺 - 阮攸
(Dịch thơ: Hải Đà)
Mịt mùng xa cách dấu cung vương
Cuồn cuộn đêm ngày nước Hán Dương
Quy Hạc đôi bờ phô dáng núi
Thần tiên khuất bóng bỏ lầu không
Thơ thơm cỏ biếc nghìn thu thắm
Sầu nhớ chiều quê quyến luyến thương
Tưởng nhớ đêm vàng ngân tiếng sáo
Lục hồng tần trắng ngát thơm hương.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Nguyễn Du 阮攸 (13/1/1766 - 16/9/1820) tự Tố Như 素如, hiệu Thanh Hiên 清軒, quê gốc làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh, nhưng sinh và trải qua thời niên thiếu ở Thăng Long. Cha là Nguyễn Nghiễm đã làm tới chức tể tướng triều Lê. Mẹ là bà Trần Thị Tần, vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm, người xứ Kinh Bắc (Nguyễn Nghiễm có tám vợ, hai mươi mốt người con). Mười tuổi, Nguyễn Du mồ côi cha, mười ba tuổi mồ côi mẹ. Vì thế tiếng là con quan đại thần nhưng ngay từ thời thơ ấu Nguyễn Du đã phải sống vất vả thiếu thốn. Truyện Kiều và Văn chiêu hồn, hai kiệt tác chữ Nôm của Nguyễn Du, rộng xin được giới thiệu riêng vào dịp khác. Tập sách này chỉ chọn lựa một số bài thơ chữ Hán tiêu biểu của ông.
Nguồn: Thi Viện