Băng cơ ngọc cốt,
Tự thanh lương vô hãn.
Thuỷ điện phong lai ám hương mãn.
Tú liêm khai,
Nhất điểm minh nguyệt khuy nhân,
Nhân vị tẩm,
Y chẩm thoa hoành mấn loạn.
Khởi lai huề tố thủ,
Đình hộ vô thanh,
Thời kiến sơ tinh độ hà Hán.
Thí vấn dạ như hà ?
Dạ dĩ tam canh.
Kim ba đạm,
Ngọc Thằng đê chuyển.
Đán khuất chỉ tây phong kỷ thời lai?
Hựu bất đạo lưu niên ám trung thâu hoán.
冰肌玉骨,
自清涼無汗。
水殿風來暗香滿。
繡帘開,
一點明月窺人,
人未寢,
倚枕釵橫鬢亂。
起來攜素手,
庭戶無聲,
時見疏星渡河漢。
試問夜如何?
夜已三更。
金波淡,
玉繩低轉。
但屈指西風幾時來?
又不道流年暗中偷換。
Động tiên ca
(Dịch thơ: vươngthanh)
Người nàng cốt ngọc, da băng
Từ thân mát rượi chẳng giòng mồ hôi
Ngọc cung, gió thoảng hương trời
Rèm thêu vén mở sáng ngời ánh trăng
Nàng chưa ngủ, tựa gối nằm
Thoa ngang tóc rồi bồng bềnh tơ mây
Dậy, cầm tay trắng muốt thay
Sân ngoài yên ắng, sao trời quá giang
Hỏi đêm vào khoảng mấy canh ?
Canh ba chừng đã, ánh trăng nhạt mờ
Sao đêm dần xuống lặng lờ
Bấm tay, phỏng gió tây giờ tới đây ?
Tháng năm ngầm đổi, ai hay.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô, thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ.
Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.
Nguồn: Thi Viện