Thursday, December 11, 2025

LÊ NGÔ CÁT VÀ "ĐẠI NAM QUỐC SỬ DIỄN CA"

Khác với những cuốn sử khác chỉ ghi lại các sự kiện theo ngày tháng, được xem là nhàm chán và dành cho giới nghiên cứu, cuốn “Đại Nam Quốc sử diễn ca” là cuốn sử được viết bằng thể thơ lục bát từ thuở Kinh Dương Vương dựng nước đến hết thời nhà Lê, được đánh giá là dễ nhớ và dành cho dân chúng.

(Tranh minh họa: Họa sĩ Sỹ Hòa, Báo Bình Phước Online)

Lê Ngô Cát

Vào cuối thế kỷ 18 đầu thế kỷ 19 thời nhà Nguyễn, ở làng Hương Lang, huyện Chương Đức (nay là xã Thụy Hương, huyện Chương Mỹ, Hà Nội) có cậu bé tên Duệ họ Ngô vốn rất hiếu học. Chẳng may cha mẹ mất sớm, cậu bé Duệ được vợ chồng người cô nuôi dạy và thương như con đẻ, được ăn học thành tài và lấy tên theo họ của chồng người cô là họ Lê, gọi là Lê Ngọc Duệ.

Nhờ siêng năng học hành mà Ngọc Duệ thi đỗ cử nhân, được bổ nhiệm quan, lập gia đình và có người con trai vào năm 1827, đặt tên là Lê Ngô Cát.

Năm 1848 Triều đình mở khoa thi, Lê Ngô Cát tham dự và đỗ cử nhân, được bổ nhiệm làm Giáo thọ phủ Kinh Môn (Hải Dương), ít lâu bổ nhiệm là Tri huyện Thất Khê (Lạng Sơn) rồi thăng Hàn lâm viện biên tu.

Lê Ngô Cát chắp bút viết sử

Năm 1858 Lê Ngô Cát được bổ nhiệm làm ở Quốc sử quán. Lúc này ở Bắc hà có phong trào tìm kiếm sách cũ, một học trò ở Bắc Ninh không rõ tên dâng một cuốn sách, diễn giải sử Việt bằng thơ chữ nôm (thời đấy gọi là diễn ca), cuốn sách này được viết vào cuối thời nhà Lê.

Triều đình đưa sách đến Quốc sử quán, Lê Ngô Cát được giao dựa vào sách sử này để viết, ông chỉnh sửa lại và viết tiếp phần sử đến thời vua Lê Chiêu Thống, diễn giải thơ nôm với 1887 câu lục bát (3774 dòng), cuốn sử này được gọi là “Việt sử quốc ngữ”.

Sách được viết xong dâng lên vua Tự Đức, Vua xem thì chỉ ra một số chỗ không vừa ý, như phần viết về Bà Triệu cưỡi voi đánh quân Ngô thì vua Tự Đức đã phê rằng: “Như thế hèn cho đàn ông nước Nam lắm”, Lê Ngô Cát phải chỉnh sửa lại một số chỗ Vua không hài lòng.

Sau đó Lê Ngô Cát vốn không thích chốn công danh, lại thích ngâm nga thơ phú, nên cáo quan về với ruộng vườn.

Sau này có Phạm Xuân Quế nhuận sắc “Việt sử quốc ngữ” đã đặt tên lại gọi là “Lịch Đại Nam sử Quốc âm ca”


Phạm Đình Toái chỉnh sửa

Sau đó có viên quan Án sát Bình Định là Phạm Đình Toái, đỗ cử nhân khoa thi năm 1843 và là người rất thích thể thơ lục bát, khi xem là “Lịch Đại Nam sử Quốc âm ca” thì rất thích thú, nhưng cho rằng thơ của Lê Ngô Cát rất thật thà và khó nhớ, liền rút ngắn cuốn sử này từ 1.887 câu lục bát (3.774 dòng) thành còn 1.027 câu, đặt tên mới là “Đại Nam Quốc sử diễn ca”.

Cuốn sử này có 1.027 câu lục bát (tức 2.054 dòng): giữ 396 câu nguyên tác, đổi mới 631 câu, chép từ đời Hồng Bàng đến hết thời Lê, Mạc.

Sau khi hoàn thành Phạm Đình Toái đưa cho bạn mình là Đặng Huy Trứ xem. Đặng Huy Trứ sau khi xem thì đánh giá rất cao, cho in tại Trí Trung đường vào năm 1870.

Cuốn sử đồ sộ đầy đủ nhất hiện nay là “Đại Việt Sử ký Toàn thư” ghi chép những sự kiện lịch sử, như vào ngày nào đó có sự kiện gì, nên nhiều người cho rằng khá nhàm chán vốn chỉ dành cho giới nghiên cứu; còn “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” theo thể thơ dễ nhớ dành cho dân chúng, và đặc biệt dành cho người yêu thích thơ.

“Đại Nam Quốc sử Diễn ca” thể thơ lục bát dễ nhớ, một số đoạn đã được đưa vào sách giáo khoa như phần viết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng:

Bà Trưng quê ở châu Phong
Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên
Chị em nặng một lời nguyền
Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân.

Phần mở đầu “Đại Nam Quốc sử Diễn ca” như sau:

“Nghìn thu gặp hội thăng bình,
Sao Khuê sáng vẻ văn minh giữa trời.
Lan đài dừng bút thảnh thơi,
Vâng đem quốc ngữ diễn lời sử xanh”


Hay như phần anh em Trương Hống, Trương Hát đã can Triệu Việt Vương đừng gã con gái Cảo Nương cho con trai của Lý Phật Tử là Nhã Lang:

“Có người: Hống, Hát họ Trương
Vũ biền nhưng cũng biết đường cơ mưu,
Rằng: “Xưa Trọng Thuỷ, Mỵ Châu,
Hôn nhân là giả, khấu thù là chân.
Mảnh gương vãng sự còn gần,
Lại toan dắt mối Châu Trần sao nên?”

Trần Hưng
Theo: trithucvn2.net