Tuesday, September 30, 2025

7 NGUYÊN TẮC SỐNG BẤT DI BẤT DỊCH CỦA ĐẠI BÀNG

Đại bàng chính là lòai chim thống trị bầu trời, cũng là lòai chim được vinh dự chọn làm biểu tưởng của nước Mỹ, vậy tại sao lòai chim này lại đặc biệt đến vậy, hãy cùng khám phá 7 nguyên tắc sống của đại bàng nhé...


Nguyên tắc 1:

Đại Bàng bay một mình ở một tầm rất cao, nó không bay với chim sẻ, hoặc chen lẫn vào với các loài chim khác nhỏ hơn như ngỗng, vịt trời.
Hãy tránh xa những con chim sẻ và quạ hoặc những người khác luôn cản trở và níu kéo công việc của bạn. Đại Bàng bay chỉ với những con Đại Bàng khác.
Nguyên tắc 2:

Đại Bàng có tầm nhìn rất xa, có khả năng tập trung vào một cái gì đó lên đến khoảng cách 5 cây số. Khi phát hiện ra con mồi của nó, thậm chí là một động vật gặm nhấm từ xa, nó chú tâm và dành sự tập trung của mình vào con mồi và thiết lập ra cách tiếp cận để bắt được con mồi đó.

Không có vấn đề gì có thể cản trở được nó, con Đại Bàng sẽ không thay đổi mục tiêu con mồi cho đến khi nó bắt được.
Có một tầm nhìn và tập trung cao độ làm việc thì sẽ không có vấn đề gì trở ngại và bạn sẽ thành công.


Nguyên tắc 3:

Đại Bàng không ăn những thứ đã chết. Nó chỉ ăn những con mồi tươi. Kền kền thường ăn động vật chết, nhưng Đại Bàng thì không. Hãy cẩn thận với những gì bạn mắt thấy và tai nghe, đặc biệt là những hoàn cảnh trong các bộ phim và trên truyền hình.
Chúng ta luôn phải nhớ rằng những cái gì đang tồn tại trong chúng ta sẽ bị cũ đi và sẽ lỗi thời, vì vậy. Luôn luôn làm mới bản thân mình bằng cách học hỏi và thay đổi liên tục.
Nguyên tắc 4:

Đại Bàng rất thích các cơn bão. Là loài chim duy nhất yêu thích các cơn bão. Khi những đám mây xám xịt kéo đến thì đó là lúc những chú chim Đại Bàng rất vui mừng. Đại Bàng sử dụng sức gió của cơn bão để nâng nó bay cao hơn. Một khi nó thấy gió của cơn bão, Đại Bàng sử dụng sức mạnh của cơn bão hoành hành để nâng nó lên trên những đám mây. Điều này cho phép các con Đại Bàng một cơ hội để lướt cao hơn từ đôi cánh của nó. Trong khi đó, tất cả các loài chim khác thường ẩn trong lá, cành, hốc cây.
Chúng ta có thể sử dụng những cơn bão của cuộc sống để nâng chúng ta lên tầm cao mới. Thưởng thức những thành qủa đạt được từ những thách thức và biến những cơn bão cuộc sống thành lợi nhuận cho chúng ta.

Nguyên tắc 5:

Đại Bàng luôn có bài kiểm tra trước khi nó đặt niềm tin vào con khác!

Ví dụ: Như khi một con Đại Bàng Cái gặp một con đực và cả 2 muốn giao phối, con Cái bay xuống mặt đất trong khi con đực đang theo đuổi nó. Và nó cắp một cành cây khô và bay trở lại vào không trung cùng với con đực đang theo đuổi nó. Khi nó đã đạt đến một tầm cao mà nó mong muốn thì nó sẽ thả nhành cây, lúc đó nhành cây rơi tự do. Khi đó con đực đuổi theo cành cây này. Con Đực thả mình nhanh hơn so với cành cây đang rơi tự do mà nó đang đuổi. Con đực sẽ bắt lại cành cây trước khi để nó rơi xuống đất. Nó sẽ mang nhành cây đó đưa lại cho con Đại Bàng cái. Tiếp tục con Đại Bàng Cái tiếp tục cắp cành cây này và bay lên với một tầm cao hơn và lại thả cành cây đó lại để cho con đực đuổi theo. Điều này diễn ra đến hàng giờ đồng hồ, với chiều cao ngày càng tăng cho đến khi con Đại Bàng cái được đảm bảo rằng con Đại Bàng đực cam kết đã làm chủ được nghệ thuật nhặt lại cành cây này. Chỉ sau đó, con cái mới cho phép con đực giao phối với nó.
Cho dù trong cuộc sống riêng tư hay trong kinh doanh, một trong những thử nghiệm cam kết của mọi người dành cho mối quan hệ đối tác trước khi chúng ta hợp tác cùng thành công.
Nguyên tắc 6:

Khi đã sẵn sàng đẻ trứng, con Đại Bàng đực và con Cái xác định một vị trí rất cao trên vách đá nơi không có động vật săn mồi có thể tấn công được. Con đực sẽ bay xuống mặt đất và chọn những cành cây khô chắc chắn và đặt chúng trên các kẽ hở của vách đá, sau đó bay trở lại mặt đất một lần nữa để thu nhặt các cành cây nhỏ hơn và xếp vào tổ cần làm.

Nó bay trở lại mặt đất và chọn các cành cây khô có gai và đặt dưới các lá cây. Rồi nó thu nhặt các đám cỏ mềm để trải trên các cành cây có gai. Khi lớp tổ đầu tiên xây dựng được hoàn thành, Đại Bàng đực bay trở lại mặt đất và chọn cây có gai nhiều hơn, đưa nó vào tổ, nó lại bay xuống mắt đất lấy cỏ để phủ lên các cành cây có gai, sau đó rũ lông của mình lên để hoàn thành tổ.


Các gai ở bên ngoài của tổ bảo vệ nó khỏi những kẻ xâm nhập vào tổ. Cả hai con Đại Bàng đực và cái tham gia trong việc bảo vệ Đại Bàng con. Con cái có nhiệm vụ đẻ trứng và bảo vệ chúng, Con đực xây dựng tổ và đi kiếm mồi. Trong thời gian dạy cho những con Đại Bàng con tập bay, Đại Bàng mẹ ném những con Đại Bàng con ra khỏi tổ. Bởi vì các con non đang sợ hãi, nó sẽ lại nhảy vào tổ.

Tiếp theo, Đại Bàng mẹ ném chúng ra lại và sau đó nó tiếp tục trút bỏ hết các lớp mềm lót trong tổ, để lại các gai trần. Khi các Đại Bàng con sợ hãi và một lần nữa nhảy lại vào tổ thì chúng bị vết chích bởi các gai. Nó thét lên và bị chảy máu. Nó phải nhảy ra khỏi tổ và trong lúc này nó tự hỏi tại sao mẹ và người cha yêu thương nó rất nhiều bây giờ lại tra tấn nó.

Tiếp theo, mẹ con Đại Bàng đẩy chúng ra khỏi vách đá vào không trung. Khi tiếng thét trong sợ hãi, Đại Bàng cha bay ra ngoài và bắt chúng trở lại trước khi nó bị rơi và đưa chúng trở lại vào vách đá. Điều này sẽ diễn ra liên tục cho đến khi các con Đại Bàng con có thể bắt đầu vỗ cánh và bay được. Nó cần phải tiếp thu những kiến thức này thì mới có thể bay được.
Việc chuẩn bị dạy chúng ta những thứ cần thay đổi, việc dạy dỗ của gia đình chúng ta cùng với sự tích cực học tập của bản thân sẽ dẫn đến thành công, việc bị chích bằng các gai nhọn cho chúng ta biết rằng đôi khi quá thoải mái, khi chúng ta cần kết quả hoặc không. Chúng ta không được trải nghiệm cuộc sống, không phát triển và không học tập được những gì từ cuộc sống. Gai của cuộc sống đến để dạy chúng ta rằng chúng ta cần phải phát triển, hãy ra khỏi tổ và sinh sống. Chúng ta có thể không biết nó, nhưng thiên đường dường như cảm thấy thoải mái và an toàn vẫn có thể có gai.

Những người yêu thương chúng ta không để cho chúng ta suy yếu, lười làm việc và hãy đẩy chúng ta vào con đường khó khăn để chúng ta có thể phát triển và thịnh vượng. Ngay cả trong hành động của họ dường như làm khó hay gây khó khăn cho chúng ta nhưng thực ra đó là những ý định tốt của họ dành cho chúng ta.


Nguyên tắc 7:


Đại Bàng chuẩn bị cho tuổi già … Khi Đại Bàng trở nên già nua, lông của chúng trở nên yếu và không thể giúp nó còn nhanh nhẹn như trước. Khi nó cảm thấy yếu và sắp chết, nó tìm đến một một nơi xa trong đá. Ở đó, nó nhổ hết tất cả lông trên cơ thể của mình cho đến khi nó rụng hoàn toàn sạch lông. Nó ở lại trong nơi ẩn náu cho đến khi cơ thể đã phát triển mới lông, sau đó nó mới có thể ra khỏi hang và trở lại cuộc sống.
Thỉnh thoảng chúng ta cần phải rũ bỏ những thói quen cũ và các cám dỗ đem lại gánh nặng cho chúng ta, những thứ không cần thiết trong cuộc sống của chúng ta.

Nguồn:Lặng Nhìn Cuộc Sống

THÙ DU PHÁN - VƯƠNG DUY


Thù du phán

Kết thực hồng thả lục,
Phục như hoa cánh khai.
Sơn trung thảng lưu khách,
Trí thử phù dung bôi.


茱萸沜 - 王維

結實紅且綠
復如花更開
山中倘留客
置此芙蓉杯


Bờ thù du
(Dịch thơ: Lương Trọng Nhàn)

Quả ra vừa đỏ vừa xanh,
Như hoa lại nở thêm lần thứ hai.
Lưu trong núi khách ngày dài,
Phù dung sẵn chén đem bày thưởng hoa.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Năm 19 tuổi, Vương Duy đến Trường An, được Kỳ vương Lý Phạm mến tài, đỗ đầu kỳ thi của phủ Kinh Triệu. Năm 21 tuổi, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm Ðại nhạc thừa rồi bị giáng làm Tham quân ở Tế Châu. Sau nhân Trương Cửu Linh làm Trung thư lệnh, ông được mời về làm Hữu thập di, Giám sát ngự sử, rồi thăng làm Lại bộ lang trung. Trong thời gian này, thanh danh của ông và em là Vương Tấn vang dậy Trường An. Sau đó đến lượt Trương Cửu Linh lại bị biếm, Vương Duy đi sứ ngoài biên ải và ở Lương Châu một thời gian.

Nguồn: Thi Viện



VÌ SAO CON NGƯỜI MÊ MẨN THUYẾT ÂM MƯU?

Vào năm 331 trước Công Nguyên, có điều không ổn xảy ra với Thành Rome. Khắp thành phố, hàng loạt những người đàn ông xuất sắc đều ngã bệnh, và tất cả bọn họ đều đang chết dần. Tổn thất ghê gớm, mọi người hoảng loạn.


Và rồi ngày nọ, một nữ nô lệ tiến lại gần một vị quan tòa và nói nàng biết lý do vì sao.

Nàng dẫn quan quân đến vài căn ngôi nhà, nơi cô nói họ sẽ tìm ra một nhóm các phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu đang bí mật điều chế độc dược.

Họ tìm ra thật.

Các nghi phạm bị giải ra giữa quảng trường trung tâm, được yêu cầu chứng minh bản thân vô tội. Vì họ cho rằng họ điều chế là để làm thuốc chữa bệnh, vậy họ có dám uống không?

Lạy trời, hai nghi phạm bị ép uống - và lập tức ngã ra chết.

Sau đó, nhiều cuộc bắt bớ trên diện rộng xảy ra; có thêm 170 phụ nữ nữa bị cho là có dính líu đến.

Đây là vụ gây phẫn nộ cực lớn. Sau đó, người dân thành Rome bầu một viên quan để tiến hành nghi lễ xua đuổi tà ma, nghi thức trước đây thường được viện tới như giải pháp cuối cùng sau một vụ náo động dữ dội trong dân chúng.

Hay, ít nhất, đó là phiên bản câu chuyện về sự việc được nhà sử học đáng kính Livy ghi lại trong tâm thế đầy trách nhiệm.

Ông ra đời vài trăm năm sau sự kiện đó. Nhưng ông không tin rằng những phụ nữ là thủ phạm, và cả các chuyên gia thời hiện đại cũng không tin điều này.

Livy chỉ ra một nguyên nhân có lý hơn nhiều: đó là dịch bệnh đã xảy ra.

Thời đó, thành phố bị bủa vây bởi những dịch bệnh không ai rõ là gì - đây là nguyên nhân phổ biến gây chết người thời cổ đại.

Mặt khác, đầu độc hàng loạt lại là nguyên nhân chưa từng nghe đến. Vụ án mà Livy viết về là vụ đầu tiên kiểu này, và toàn bộ sự việc đã khiến cư dân Thành Rome cảm thấy rất lạ lùng.

Trong thực tế, có lẽ những phụ nữ đó thực sự đang điều chế thuốc - và phần còn lại của câu chuyện đã bị thêm mắm dặm muối hoặc hoàn toàn bịa đặt.

Vụ đầu độc nổi tiếng vào năm 331 trước Công Nguyên được cho là thuyết âm mưu nhằm giải thích cho những cái chết có nguyên nhân rõ rành rành từ thời đó.

Thuyết âm mưu thời hiện đại

Giữa thời đại dịch hiện tại, kịch bản này giống nhau đến kinh ngạc.

Từ đầu tháng Tư, ít nhất 77 cột thu phát sóng điện thoại và 40 kỹ sư bị tấn công ở Anh Quốc, sau khi một số người tin vào ý tưởng sai lệch là Covid-19 bằng cách nào đó lây lan qua công nghệ viễn thông toàn cầu.

Giờ đây, tin đồn đã lan tới Mỹ, nơi người ta lo ngại sẽ dẫn đến thêm nhiều vụ bạo lực. Một lần nữa, lý lẽ bị đẩy ra ngoài lề, thay cho cách giải thích nông cạn tin rằng căn bệnh liên quan đến một kịch bản bí mật đầy hiểm hóc.

Câu hỏi là, tại sao những câu chuyện như thế lại phát sinh?

Người La Mã cổ đại luôn nghi ngờ các nô lệ và những phụ nữ thượng lưu

Từ kẻ thống trị vốn là loài bò sát xâm lăng đến từ ngoài hành tinh, cho đến cá mập tấn công theo sắp đặt của điệp viên, cho đến những vụ lừa tinh vi trị giá hàng tỉ đô la, đủ kiểu thuyết âm mưu đang tồn tại cực kỳ kỳ quái; mà lý do khiến một số thuyết âm mưu trỗi dậy, trong khi số khác biến mất không còn dấu vết - có lẽ hầu như là ngẫu nhiên.

Thậm chí còn có cả thuyết âm mưu theo đó giải thích thuyết âm mưu được chế biến ra sao (để theo đúng chuẩn công thức chế thuyết âm mưu, CIA cũng bị cáo buộc có liên quan).

Nhưng có những mô thức ẩn sau sự kỳ lạ của chúng.

Ý tưởng gần đây nhất cho rằng thuyết âm mưu được gạn lọc theo cách gần giống với chọn lọc tự nhiên, cho phép những thuyết âm mưu có một số đặc tính có thể lan truyền nhanh trong xã hội - trong khi một số khác lại nằm chết dí đâu đó trên internet.

Vậy điều gì khiến thuyết âm mưu hấp dẫn với đám đông? Và liệu có gì mà chúng có thể dạy ta về vấn đề ta phải đối mặt - và làm sao để sửa chữa chúng?

Thủ phạm đầy tính thuyết phục

Đầu tiên, những thuyết âm mưu thành công là những thuyết luôn có kẻ thích hợp để vào vai ác.

Trong suốt lịch sử, rất nhiều thuyết âm mưu được chấp nhận rộng rãi đều đổ lỗi về những sự vụ, vấn đề khó khăn lên những người mà đa số dân chúng đều đồng tình coi là kẻ xấu.

Theo một khảo sát từ Victoria Pagan, nhà lịch sử cổ điển tại Đại học Chicago, thuyết âm mưu về chuyện đầu độc ở Thành Rome có vẻ như một phần xuất phát từ cách nó mô tả phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu và nô lệ, đó là những người mà đàn ông thuộc giới tinh hoa cảm thấy có thể đe dọa họ.

Mặc dù nền văn minh La Mã lệ thuộc rất nhiều vào việc bóc lột hai nhóm người này, nhưng đàn ông vẫn thường xuyên lo lắng người lệ thuộc vào họ sẽ trở mặt.

Phụ nữ thuộc tầng lớp thượng lưu thường bị nhìn bằng ánh mắt ngờ vực, và thường bị mô tả là bí mật và nguy hiểm.

Mặt khác, giới nô lệ từng được biết đến là đã có lúc ra tay sát hại chủ nhân, và vì vậy người ta có tâm trạng hoang tưởng rằng đôi khi nô lệ có thể làm gián điệp, do đó không đáng tin.

Tóm lại, một thuyết âm mưu về nhóm phụ nữ giết người bị nô lệ phản bội là câu chuyện lý tưởng - nó sẽ luôn hấp dẫn hơn sự thật.

Sự lo lắng của đám đông

Trong khi đó, trong thế giới hiện đại, không phải ngẫu nhiên mà những thuyết âm mưu nổi tiếng thường liên quan đến chủ đề như đời sống ngoài hành tinh, những nhóm thiểu số tôn giáo, tầng lớp tinh hoa đầy quyền lực, quốc gia đối lập, công nghệ kỳ bí và việc hủy diệt môi trường.

"Khắp thế giới, nói chung mọi người tin theo những thuyết liên quan đến các sự kiện lịch sử và văn hóa từng xảy ra ở những nơi đặc thù," Karen Douglas, nhà tâm lý xã hội tại Đại học Kent giải thích.

Mỗi xã hội có những lo lắng và ám ảnh riêng - và thuyết âm mưu thành công thường đụng đến những vấn đề đó.

Ví dụ như ở Romania, nơi rất nhiều phụ nữ từ chối không cho con gái họ tiêm ngừa vaccine HPV, virus này gây ra đến 99% số ca ung thư cổ tử cung.

Thuyết âm mưu thành công thường đánh trúng vào sự ám ảnh và hoang mang của xã hội đó

Vào năm 2008, năm đầu tiên mà loại vaccine này được đưa ra - chỉ có 2,5% phụ nữ Romania đủ tiêu chuẩn tiêm ngừa. Tỷ lệ rất thấp, chương trình tiêm chủng trường học cuối cùng phải hủy bỏ.

Điều này rõ ràng là đáng ngạc nhiên nếu bạn tính đến những nơi khác ở Châu Âu, nơi mũi ngừa HPV cực kỳ phổ biến với số người tiêm lên đến khoảng 80% hoặc cao hơn, và thực tế là Romania có tỷ lệ tử vong cao nhất vì ung thư cổ tử cung ở Châu u trong suốt thời gian dài.

Có nhiều lý do khiến các bà mẹ Romania nghi ngờ vaccine, nhưng nghiên cứu cho thấy một trong những lý do là có rất nhiều thuyết âm mưu về động cơ thực sự khi người ta cung cấp loại vaccine này, trong đó có cả thuyết cho rằng đây là nỗ lực kiểm soát dân số thế giới bằng cách khiến phụ nữ vô sinh và đây là thử nghiệm y học của ngành công nghiệp dược phẩm - dù rằng chẳng có bất cứ bằng chứng nào cho lý lẽ này.

Những thuyết này, có lẽ đã được sinh ra từ lịch sử của Romania, vốn từng có tình trạng can thiệp vào sự sinh sản của phụ nữ, cùng với sự mất niềm tin của công chúng vào hệ thống chăm sóc sức khỏe: ở đây tình trạng bệnh nhân phải đút lót cho nhân viên y tế vẫn còn phổ biến, dù chỉ là săn sóc cơ bản, và rất nhiều phụ nữ trong nghiên cứu cho biết họ nghi ngờ vì sao chương trình tiêm chủng này lại miễn phí.

Trong một số trường hợp, người ta cho rằng những lo lắng như vậy vẫn ngủ yên trong tâm trí ta, cho đến khi có sự kiện nào đó xảy ra - như thay đổi về mặt chính trị - kích thích chúng thức tỉnh. Điều này có thể khiến chúng làm niềm tin của đám đông hướng về thuyết âm mưu.

Những thuyết âm mưu về chủ nghĩa bài Do Thái - chẳng hạn như ý tưởng cho rằng người Do Thái rất quyền lực và có nhúng tay vào những kịch bản đen tối bí mật - đã từng xuất hiện trong thời gian xảy ra căng thẳng xã hội, như khi xảy ra tình trạng thất nghiệp.

Lý do, có lẽ là vì những thuyết này khiến người ta có thể đổ lỗi cho thứ có thể là hệ quả từ hàng loạt các tình huống xã hội và kinh tế phức tạp, thay vì phải tìm ra một con dê tế thần đơn lẻ.

Chủ nghĩa bộ lạc

Điều này phù hợp với nguyên tố phổ biến khác với những thuyết âm mưu nổi tiếng - đó là chúng khiến ta cảm thấy nhóm xã hội của mình tốt, thường là bằng cách hạ bệ những nhóm mà ta coi là đối thủ.

"Đó có thể là nhóm quốc gia của bạn, nhóm giới tính của bạn hay bất cứ thứ gì," Douglas nói. "Có một số bằng chứng cho thấy mọi người thường thích những thuyết âm mưu thỏa mãn cách nhìn định kiến của họ."

Bằng cách nhấn mạnh sự khác biệt giữa yếu tố "trong nhóm" và "ngoài nhóm", thuyết âm mưu có thể dẫn đến sự gắn kết xã hội chặt chẽ hơn - và đem lại cảm giác được bảo vệ chống lại khỏi những người khiến họ thấy bị đe dọa. Vì vậy, thuyết âm mưu thường dễ lan tỏa trong những nhóm người có cùng xung đột.

Bất an

"Cũng có một số nghiên cứu cho thấy mọi người trở nên tin vào thuyết âm mưu hơn khi họ phải đối mặt với tình huống khủng hoảng," Douglas nói.

Ý tưởng cho rằng mạng viễn thông 5G và các mạng điện thoại di động có tác động xấu đến sức khỏe con người đã xuất hiện từ nhiều năm trước - từ khi công nghệ này được sử dụng rộng rãi, khoảng 30 năm trước.

Ban đầu, công nghệ này bị cáo buộc sai lệch là gây ra bệnh tự kỷ, vô sinh và ung thư, cùng nhiều bệnh khác - nhưng nói chung chúng nằm trong nhóm những người theo thuyết âm mưu cực đoan nhất.

Sự xuất hiện của virus corona mới bí ẩn vào 12/2019 đã tạo ra sân khấu mới cho ý tưởng có từ lâu này.

Vào ngày 22/1, khi virus mới chỉ lây nhiễm cho 314 người, với sáu người chết, một bài báo được đăng đã thay đổi mọi thứ.

Đó là cuộc phỏng vấn với một bác sĩ gia đình chẳng có tên tuổi gì đăng trên báo ở Bỉ, với tựa bài "Mạng 5G chết người, và không ai biết điều đó". Quan trọng là, bài báo liên hệ sự nguy hiểm của mạng 5G với virus corona mới mặc dù không hề có bằng chứng nào cho ý tưởng này. Và thế thôi.

"Thuyết âm mưu có xu hướng xuất hiện khá nhanh khi một điều gì đó quan trọng xảy ra," Douglas cho biết. "Chúng thình lình xuất hiện khi có một khủng hoảng hay xung đột gì đó mà mọi người thực sự muốn giải thích và muốn có câu trả lời."

Bà chỉ ra rằng đợt cháy rừng vừa rồi ở Úc cũng gây ra một hoạt các thuyết âm mưu ăn theo trào lưu.

Thuyết về mạng 5G được gọi là "cocktail âm mưu", vì nó gom vào nhiều nỗi sợ lớn nhất của loài người, trộn lẫn với nhau thành một hỗn hợp khoái khẩu ngon lành.

Tương tự như nỗi sợ có từ lâu đời với cái mới hay công nghệ vô hình, vốn làm lan tràn rất nhiều thuyết âm mưu nổi tiếng khác, nó cũng chạm vào sự lo âu thẳm sâu về sự trỗi dậy của Trung Quốc để trở thành siêu cường quốc toàn cầu.

Một lý do khác khiến thuyết âm mưu 5G có thể hấp dẫn hơn sự thật, đó là vì nó là một câu chuyện.

Chuyện cổ tích, truyền thuyết, giai thoại hay tin đồn là cách giúp não ta hiểu về thế giới, đây là cách có từ hàng chục ngàn năm trước, và người ta cho rằng đó là điều khiến ta là con người.

Trong thời khủng hoảng, có thể ta chọn thuyết âm mưu vì ta thấy chúng giúp mình vững dạ.

Thuyết âm mưu có đầy đủ các yếu tố của một câu chuyện hay - kẻ ác kinh hoàng, cốt truyện sáng tạo, và bài học đạo đức.

Vì điều này, một thuyết âm mưu được xây dựng tốt có thể nắm bắt được sự tưởng tượng của công chúng rất tốt, khiến cách mô tả sự việc như "loại virus xuất hiện hoàn toàn bất ngờ và vô cớ giết hàng ngàn người" có thể không cạnh tranh nổi với thuyết âm mưu.

Một số nhà tâm lý đã so sánh thuyết âm mưu với niềm tin tôn giáo, theo cách giúp ta cảm thấy có thể kiểm soát tình hình, bằng cách chọn những sự kiện ngẫu nhiên, không đoán trước được và bằng cách nào đó khiến chúng có vẻ như được định sẵn hay do bàn tay con người gây ra.

Một số khác đi xa tới mức cho rằng đây chính là lý do vì sao chúng được chấp nhận: trong nội dung câu chuyện, trong mạch truyện và các lý do phát sinh, các thuyết này gần giống với những đức tin in hằn trong nhiều tôn giáo có tổ chức.

Một số người tin vào thuyết âm mưu đến mức thậm chí họ có thể đánh đổi cả mạng sống của bản thân để chứng minh thuyết đó là đúng.

Người ta cho rằng mọi người dễ tin vào thuyết âm mưu hơn trong thời gian khủng hoảng

Khoảng trống thông tin

Tương tự, những thuyết âm mưu hàng đầu thường thể hiện một số bí ẩn hay nhập nhằng, từ những vụ rơi máy bay không thể giải thích, đến cái chết bất ngờ của nhân vật nổi tiếng nào đó.

Khi nhà chức trách cũng không thể hoặc không cung cấp thêm thông tin, những khoảng trống tri thức này cộng với sự bất tín trong công chúng sẽ đẩy cộng đồng ngã vào tay của những kẻ tuyên bố rằng họ có câu trả lời.

Điều này cộng với thực tế là khoa học, các yêu cầu với chính phủ và các hình thức thu thập thông tin chính thức khác có thể cực kỳ chậm chạp, và vì vậy để lại khoảng trống tạm thời, khiến các nguồn tin khác có thể trở thành đáng tin.

Sau khi nhà khoa học mất uy tín Andrew Wakefield tuyên bố sai lệch là vaccine MMR có thể gây bệnh tự kỷ vào thập niên 1990, người ta đã phải tốn hàng chục năm nghiên cứu để khẳng định rằng tuyên bố này hoàn toàn không có căn cứ khoa học - trong khi đó, thuyết âm mưu đã có đủ thời gian để gây ra thiệt hại nghiêm trọng.

Càng ngày càng hợp lý

Cuối cùng, thuyết âm mưu có thể phổ biến đến mức chúng bước vào giai đoạn chu kỳ phản hồi tích cực, nghĩa là khi chúng càng được bàn luận nhiều, thì chúng càng có vẻ hợp lý.

Chẳng hạn, một phân tích về các nội dung trên Twitter đề cập đến mạng 5G và Covid-19 cho thấy chỉ có khoảng 34,8% nội dung gợi ý rằng hai thứ này có liên hệ với nhau, trong khi đa số hoặc là lên án thuyết này hoặc chẳng thể hiện ý kiến gì.

Thật không may là cho dù người dùng Twitter có coi ý tưởng đó là trò đùa hay cố gắng giải thích rằng thuyết này là sai lệch, thì họ cũng đang góp phần làm cho nó được biết đến nhiều hơn.

Thật vậy, sự ra đời của mạng xã hội và sự trỗi dậy của công nghệ mới đã trở thành khoảnh khắc quan trọng trong lịch sử thuyết âm mưu.

"Dĩ nhiên, bạn sẽ thấy ở một số quốc gia thì có nhiều thuyết âm mưu mang tính địa phương vùng miền mà người ở nơi khác thậm chí không hề biết đến," Douglas giải thích. "Nhưng cách chúng ta giao tiếp với mọi người và cách ta hấp thụ thông tin thời nay thì mang tính toàn cầu hóa hơn nhiều so với trước đây, cho nên có những thuyết âm mưu trở nên cực kỳ, cực kỳ nổi tiếng khắp thế giới."

Một số thuyết âm mưu, chẳng hạn như những thuyết cho rằng một số nhóm người độc quyền đang vận hành thế giới trong bí mật, giờ đây xuất hiện ở khắp nơi, bà nói.

Khi chính trị trở nên phân hóa hơn, một số chuyên gia cho rằng nó khiến thuyết âm mưu dễ chiếm vị trí hơn

Động cơ kín đáo

Khi xã hội thay đổi, thuyết âm mưu cũng thay đổi theo - và Russell Muirhead, nhà khoa học chính trị làm việc tại Trường Đại học Darthmouth, bang New Hampshire, quan ngại về cách chúng chuyển biến.

"Thuyết âm mưu, về mặt truyền thống mà nói, thì thường do những nhóm người bên lề loan ra - chúng hầu như là vũ khí của những người yếm thế, được dùng với mục đích để kiểm soát những kẻ quyền lực," ông nói.

"Nhưng giờ đây những thuyết âm mưu mới lại đến trực tiếp từ những kẻ quyền lực, và điều này thực sự khác thường."

Từ khi đại dịch Covid-19 bắt đầu, nhiều lãnh đạo trên thế giới đã tuyên bố công khai ủng hộ một số thuyết âm mưu liên quan, vốn thường phù hợp với động cơ riêng của họ một cách đáng kinh ngạc.

Chẳng hạn, Tổng thống Mỹ Donald Trump gần đây cho rằng ông thấy có bằng chứng là virus corona bắt nguồn từ phòng thí nghiệm Trung Quốc, trong khi chính các cơ quan tình báo của ông thì nnói không hề có bằng chứng nào cho thấy điều đó.

Tổng thống Venezuela Nicolás Maduro lại tuyên bố theo kiểu khác - cho rằng đại dịch là do vũ khí sinh học do Trung Quốc tung ra (nhưng cũng lại chẳng có bằng chứng nào cả).

Muirhead cho rằng chúng ta đang bị thao túng bởi chính vũ khí của mình. "Các chính tri gia nỗ lực xóa sạch bằng chứng và thông tin và biến thế giới thành thứ gì đó có lợi cho mục đích của họ."

Mọi chuyện càng trầm trọng thêm khi nhiều quốc gia, chẳng hạn như Hoa Kỳ, đang trải qua mức độ phân cực chính trị lớn chưa từng có. "Đó là động cơ khiến những thuyết âm mưu mới xuất hiện," Muirhead nói.

Ông lấy ví dụ về "Pizzagate", là thuyết âm mưu đã bị chỉ trích và không ai tin nữa, theo đó cho rằng giám đốc chiến dịch tranh cử của cựu ứng cử viên tổng thống Mỹ Hillary Clinton có liên quan đến một đường dây xâm hại trẻ em trong tầng hầm một nhà hàng pizza.

Dù hoàn toàn là chuyện bịa đặt, câu chuyện này lại cực kỳ được ủng hộ rộng rãi vào năm 2016, mà đỉnh điểm là một người đàn ông đã nổ súng bên trong nhà hàng đó.

"Thuyết âm mưu này không giải thích gì về thế giới cả," Muirhead nói. "Những gì nó tạo ra chỉ là tô vẽ ra Hillary Clinton như một người không chỉ kém hấp dẫn hơn đối thủ cạnh tranh, mà còn là một dạng người còn tồi tệ hơn bọn Phát xít."

Trong cuốn sách "Rất Nhiều Người Đang Nói" mà MUirhead là đồng tác giả với nhà khoa học chính trị Nancy Rosenblum từ Đại học Havard, ông giới thiệu làn sóng thứ hai trong thế giới thuyết âm mưu: âm mưu không cần đến thuyết."

"Ngoài chuyện không có em nhỏ nào bị giữ ở nhà hàng pizza đó mà ở đó thậm chí còn chẳng có tầng hầm," Muirhead nói. "Điều khiến chúng tôi ngạc nhiên là cách kể chuyện này hoàn toàn bịa đặt, từ đầu đến cuối."

Ông giải thích rằng thông thường thì thuyết âm mưu sẽ bắt đầu với hạt nhân là sự thật - đó sẽ là một sự kiện nào đó trong thế giới thực mà người ta dễ dàng nhìn thấy nhưng lại khó hiểu, ví dụ như cuộc ám sát hay tấn công - và từ đó xây câu chuyện trên nềng tảng đó. Nhưng thế hệ mới nhất của thuyết âm mưu thì bỏ qua luôn bước đầu tiên này và có vẻ vẫn thành công dù rõ ràng các thuyết này là sai lệch.

"Tôi lo rằng người bình thường cố gắng hiểu thế giới giờ đây sẽ cảm thấy rất mất phương hướng khi họ cố gắng định vị giữa trận bão tuyết mù trời của chuyện dối trá và bịa đặt trong thuyết âm mưu," Muirhead nói.

Thuyết âm mưu "Pizzagate" đã được ủng hộ rộng rãi trong năm 2016, dù hoàn toàn bịa đặt

Vậy ta có thể làm gì?

"Ta không thể tấn công từng thuyết âm mưu hết cái này đến cái khác," Muirhead nói.

Theo quan điểm của ông, một phần của vấn đề nằm ở chỗ mọi người dần mất niềm tin vào giới chuyên gia, chính phủ và những tổ chức quyền lực.

Để sửa chữa hệ thống, ông đề nghị ta cần phải chính danh hóa lại nền dân chủ - cải cách chính phủ và tập huấn lại các cơ quan, tổ chức.

"Ở Mỹ, điều này đã được thực hiện vào những thập niên đầu Thế kỷ 20. Quốc gia này cải tạo chính phủ cho thế hệ mới, và dẫn dắt nhiều cải cách cấp tiến, và dẫn đến quyền đi bầu cử của phụ nữ."

Mặt khác, Douglas cho rằng cần thêm nhiều nghiên cứu nữa. "Tôi cho rằng hiểu thuyết âm mưu đến từ đâu và bằng cách nào chúng có thể lan tỏa là điều cực kỳ, cực kỳ quan trọng, vì có những bằng chứng mạnh mẽ cho thấy tin vào chúng sẽ gây ra những kệ quả nghiêm trọng."

Ví dụ, bà giải thích có rất ít nghiên cứu tìm hiểu vì sao một số thuyết tồn tại cực kỳ lâu, ví dụ như những người tin rằng Trái Đất là bằng phẳng, thuyết tin vào hội ký Illuminati, hay thuyết âm mưu về chuyện đáp xuống Mặt Trăng, trong khi một số câu chuyện khác nhanh chóng chết yểu, dù đây là một nội dung mà bà bắt đầu tìm hiểu.

Trong thực tế, dù đã có nhiều thập niên nghiên cứu và khiến công chúng không ngừng mê mẩn, vẫn còn rất nhiều câu hỏi không lời đáp trong lĩnh vực này.

"Tôi nghĩ nhiều nhà nghiên cứu đồng thuận rằng ta đang sống trong thời đại của thuyết âm mưu, nhưng một lần nữa, chẳng có bằng chứng thật nào cho thấy điều đó," Douglas nhận định.

Biết đâu đây có thể là thuyết âm mưu kế tiếp…

Zaria Gorvett
Nguồn:BBC Future
Link tiếng Anh:

VÌ SAO BÊN TRONG NHIỀU SÂN BAY LẠI ĐƯỢC TRẢI THẢM?

Nếu thường xuyên đi nước ngoài, có thể bạn sẽ phát hiện thấy rất nhiều sân bay đều có trải thảm, đặc biệt là sau khi qua chốt kiểm tra an ninh đến cổng lên máy bay, bạn sẽ nhìn thấy trên đường đi đều có trải thảm, hai bên có rất nhiều những cửa hàng thu hút. Thảm thường khó làm vệ sinh hơn các kiểu nền khác, thế nhưng vì sao nhiều sân bay lại trải thảm trên diện tích lớn như vậy?

(Ảnh: Pixabay)

Tạp chí Travel + Leisure của Mỹ cho biết những người thiết kế sân bay có thể tác động đến tâm trạng và hành vi của du khách bằng rất nhiều cách, mà trải thảm là một trong số đó.

Có rất nhiều sân bay đều trải thảm ở khu vực gần cổng lên máy bay. Thiết kế đơn giản này có thể khiến du khách cảm thấy được thư giãn trước khi lên máy bay vì thảm mang đến cảm giác mềm mại và thoải mái để du khách cảm thấy như đang ở phòng ngủ nhà mình.

Mặc dù thảm khó làm vệ sinh, nhưng có thể giảm tốc độ kéo hành lý của du khách để giảm âm thanh vali ma sát trên nền.

Ngoài trải thảm, trần thấp và chỗ ngồi nhiều ánh sáng tự nhiên và thoải mái đều có thể giúp các hành khách dễ căng thẳng cảm thấy được thả lỏng.


Công ty nghiên cứu thị trường sân bay DKMA cho biết, việc hành khách cảm thấy thư giãn và vui vẻ rất có lợi cho sân bay vì họ sẽ chi thêm 7% số tiền tiêu dùng ở sân bay để mua các mặt hàng bán lẻ tại đây và chi ra thêm 10% số tiền để mua các món hàng miễn thuế.

Thậm chí có những sân bay còn sử dụng nhiều cách mới lạ hơn để khiến du khách cảm thấy dễ chịu như bố trí phòng tắm suối nước nóng, phòng tập yoga và phép trị liệu giúp du khách cảm thấy được chữa trị v.v…

Theo trang Mental Floss, các sân bay có rất nhiều cách để tác động đến cảm xúc của du khách. Ví dụ như địa điểm bố trí của các cửa hàng và cách trưng bày hàng hóa cũng đều có chiến lược riêng.

Có những sân bay còn cố tình thiết kế đường đi đến cổng lên máy bay đi ngang qua các cửa hàng miễn thuế càng vòng vèo để sân bay càng có lợi.


Báo cáo của công ty tư vấn Intervistas cho thấy thiết kế đường đi vòng vèo sẽ tăng hơn 60% lượng tiêu thụ của các cửa hàng miễn thuế vì tất cả các du khách đều sẽ nhìn thấy các mặt hàng này.

Hầu hết lượng tiêu thụ các mặt hàng ở sân bay đều đến từ hứng thú mua sắm nhất thời của người tiêu dùng, vì vậy nên phải trưng bày các mặt hàng sao cho càng nhiều người nhìn thấy càng tốt.

Minh Ngọc / Theo: Epoch Times

Monday, September 29, 2025

NGÀY XUÂN NHẮC ĐẾN MỘT NGƯỜI

Người ấy sinh ra cách nay đúng 140 năm (1882) và qua qua đời cách đây 86 năm (1936). Đó là Nguyễn Văn Vĩnh. Gọi ông là nhà báo cũng đúng vì ông là người sớm đưa báo chí hiện đại vào đời sống xã hội Việt Nam, trực tiếp làm nhiều tờ báo cả bằng Hán văn, Pháp văn, Quốc ngữ và đều là những tờ báo danh giá nhưĐại Nam Đông văn, Đăng cổ tùng báo, Đông Dương tạp chí, L'Annam Nouveau...


Gọi ông là nhà văn hóa cũng đúng vì ngoài giáo dục, ông là người cổ xúy, dịch giả và hoạt động không biết mệt mỏi cho việc giới thiệu văn hóa Việt Nam ra nước ngoài và truyền bá văn hóa nước ngoài, đặc biệt là của nước Pháp và Âu Tây vào nước ta. Ông là người cổ xúy và hoạt động tiên phong trong việc du nhập kịch nói, điện ảnh... vào Việt Nam...

Gọi ông là nhà hoạt động xã hội và chính trị cũng không sai khi ông là người sớm kêu gọi canh tân, đứng tên xin mở Đông Kinh nghĩa thực, chủ trương cả một đường lối không thỏa hiệp chống chế độ quân chủ, sẵn sàng chấp nhận nền trực trị của chính quyền thuộc địa mà ông cho rằng đó là con đường ngắn hơn để đến với nền dân chủ hiện đại...Ông đương đầu với cám dỗ muốn ông thỏa hiệp của chính quyền thuộc địa, chấp nhận phá sản cơ nghiệp và mất mạng trong cuộc phiêu lưu tìm lối thoát trên đất Lào...Người đời nay dùng cách nói của chính ông để định danh Nguyễn Văn Vĩnh là “Người man di hiện đại” (le barbare moderne). Từ bút danh “Tân Nam Tử” đến tên báo L'Annam Nouveau (Nước Nam Mới), Nguyễn Văn Vĩnh luôn tìm cái mới, con đường đổi mới (cách tân, duy tân) cho đất nước và dân tộc của mình.

Từ trái sang phải: Phạm Duy Tốn, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh tại Pháp năm 1922

Sự đúng sai của con đường ấy đến nay vẫn có thể con tranh cãi, nhưng chỉ cần đọc lại những di cảo của ông, trong đó có một phần quan trọng bằng tiếng Pháp (đang được khai thác giới thiệu với người đọc) sẽ thấy có nhiều điều khiến người đời nay giật mình vì những quan điểm từ trên dưới trăm năm trước của ông đến nay vẫn mang tính thời sự, giải đáp những câu hỏi mà chính xã hội đương đại của chúng ta đã bước qua thế kỷ XXI còn đặt ra...

Là một nhà báo lão luyện, cách tiếp cận những vấn đề của đời sống của Nguyễn Văn Vĩnh tỏ ra nhạy bén và tinh tế, khi ông quen bàn đến những điều tưởng như nhỏ nhặt đặc biệt trong tính cách con người Việt Nam, tập quán truyền thống...đang có mặt trong đời sống quanh ông để giải đáp những vấn đề lớn của đất nước.

Ví như khi phân tích về tập quán “chơi họ” rất phổ biến ở nông thôn nước ta, đôi khi được đánh giá như “một di sản có từ những thời xa xưa” rất đặc sắc. Nhưng từ sự phân tích rất chi tiết theo phương cách kế toán của sổ sách hiện đại thì, Nguyễn Văn Vĩnh cho rằng “chơi họ” chỉ có khả năng đáp ứng những nhu cầu rất hạn hẹp của những cá nhân sống chung đụng, gắn bó với nhau vì một lòng tin cậy lẫn nhau... Chính sự giản dị đã ngăn cản không thể phổ cập phương thức này để dùng vào những nhu cầu thương mại thời hiện đại lĩnh vực mà luật lệ lý tính cần hơn sự tin cậy cảm tính...

Tờ Đăng Cổ Tùng Báo

Nguyễn Văn Vĩnh cũng nhiều lần đề cập tới vấn đề lúa gạo là đầu ra quyết định nguồn sống của người nông dân cũng là của đại đa số dân chúng một quốc gia thuần nông. Trong loạt bài của mình, tác giả đã phân tích một cách sâu sắc bản chất cuộc khủng hoảng kinh tế của thế giới đã tác động vào đời sống một xã hội thuộc địa lại thuần nông. Tác giả phân tích để đi đến một đánh giá: Với một xã hội thuần sản xuất lúa gạo mà không hề được nhà nước hỗ trợ, trước hết là tổ chức thị trường và đầu tư tài chính đúng đắn đã khiến cho không chỉ người nông dân rơi vào thảm cảnh tựa như câu chuyện hiện tại “được mùa rớt giá”, sẽ dẫn đến những biến loạn xã hội khiến cơ đồ phát triển nền kinh tế mà nước Pháp hứa hẹn như một sự nghiệp “khai sáng văn minh”cho xứ thuộc địa cũng đổ vỡ...

Đây không chỉ là những nhận định vào thời kỳ kinh tế khủng hoảng của những năm 30 thế kỷ trước, mà ngay từ đầu thế kỷ Nguyễn Văn Vĩnh đã phát hiện ra điều đó. Cách nay hơn cả trăm năm mà ông đã phát hiện những vấn đề mang tính bản chất khiến ngày nay đọc lại chúng ta vẫn có thể tâm đắc vì tính thời sự của nó. Trong bài viết mang tính “xã luận” của tờ Đăng cổ tùng báo ra ngày 19-9-1907, có nhan đề “Chết về gạo”, dưới bút danh TNT (ký tắt Tân Nam Tử), Nguyễn Văn Vĩnh phân tích những hiện tượng xã hội mà ông cho là đã lỗi thời, lạc hậu, coi đó là những yếu tố làm cho đất nước không phát triển được so với thiên hạ...để đi đến việc quy kết thành cái nguyên cớ hàng đầu: “Bởi cả nước có một nghề: là cày ruộng!”.

Ông còn cho rằng khí hậu nước ta khắc nghiệt hơn so với các nước cùng vĩ tuyến một phần cũng vì mặt nước từ trong các ruộng lúa quá lớn xen lẫn với nơi của cư dân, khiến độ ẩm luôn cao hơn, oi bức sinh dịch bệnh và nhiều tai hoạ khác... Lập luận này chưa biết có được khoa học hiện đại chứng thực không nhưng nó thể hiện cái “chất” của Nguyễn Văn Vĩnh là luôn quyết liệt khi đưa ra ý kiến của mình với những bằng chứng thực tế mà không nhuốm màu cực đoan.

Nguyễn Văn Vĩnh và con trai Nguyễn Nhược Pháp trên bìa tờ Trung Bắc Chủ Nhật

Từ một hiện tượng kinh tế - xã hội, Nguyễn Văn Vĩnh quy ngay vào một mục tiêu hàng đầu mà ông vận động không biết mệt mỏi là phải thay đổi lối suy nghĩ hướng tới những giá trị của thế giới hiện đại mà thuở đó chính là mục tiêu “khai sáng dân chủ”. Kết luận bài báo, ông viết: “Một nước làm gạo ăn đi bán cho người quanh năm cứ đinh ninh vào đấy. Đến lúc động đói thì mình đói trước, ai biết đâu mà mang đến cho mình ăn. Và cái gạo này lại không là mấy, trong các thứ giống được có lắm thứ một vốn thực bốn lãi, nhưng mình không chịu nghĩ, chịu tìm, chịu thử, cho nên không biết đấy mà thôi. Hỡi các ông mong cường thịnh độc lập ơi! Tôi tưởng con đường này phải đi trước. Người có trí mà lại có của bây giờ nên lo việc đổi cách giồng giọt trong nước, cho nước được mát mẻ. không đói là lại được đi lại buôn bán rộng ra, rồi mới giảng đến Lư Thoa dân ước, đến Vạn pháp tinh lý của Mạnh Đức Tư Cưu thì mới phải” (ý nói đến những tư tưởng và trước tác của các nhà khai sáng Pháp như J. Rousseau và Montesquieu - DTQ).

Đọc lại những bài báo này, người thời nay có cảm giác rất gần với câu chuyện rất thời sự về “tái cơ cấu nông nghiệp” mà hạt nhân vẫn xoay quanh vấn đề lúa gạo và cũng muốn đặt ra câu hỏi rằng vì sao từ lâu trong xứ mình đã có người nghĩ ra và nghĩ đúng về con đường phát triển đất nước mà không ai nghĩ tiếp để cứ phải nghĩ đi nghĩ lại, để rồi không biết khi nào mới bắt tay vào biến cái nghĩ đúng thành động lực thúc đẩy sự tiến bộ và phát triển.

Ông Dương Trung Quốc và GS. Đinh Xuân Lâm chủ trì Tọa đàm về Nguyễn Văn Vĩnh tại Bảo tàng CMVN, 14-6-2002

Nhân Xuân mới, từ nhiều năm nay đã vắng tiếng pháo với lý do hàng đầu là an ninh, an toàn xã hội và chống lãng phí, nhưng ít ai biết rằng cách đây 115 năm, trên tờ Đăng cổ tùng báo(31-10-1907), cơ quan ngôn luận của Đông Kinh nghĩa thục, Nguyễn Văn Vĩnh đã viết bài bàn về chuyện “Đốt pháo” với một cách phân tích đến nay vẫn có tính thuyết phục nhờ cách tiếp cận văn hóa và nặng lòng với mong muốn thay đổi đất nước. Xin được đăng nguyên văn theo đúng cách hành văn và chính tả của người xưa:

“Đốt pháo

Việc này đáng nhẽ để đến tháng chạp hãy bàn thì phải, nhưng bây giờ là mùa cưới pháo cũng đã sinh ra nhiều sự nên nói để anh em đồng bào nhớ lấy, đến khi Bản báo có luận đến, thì những sự thực cũng làm cho nặng thêm nhời chúng tôi lên một ít nữa.

Hôm nọ ở phố Hàng Điếu, có đám cưới. Lúc rước dâu về đến cửa, nhà giai sắm sửa đón hai họ vào thực là vui vẻ giữa lối đi thì cũng giữ lề đốt lò than để cô dâu bước qua cho sạch vía-van; mẹ chồng cũng theo thói trốn sang láng giềng để dâu về được hưởng quyền vu quy một chốc cho khỏi thất hiếu; ngoài đường thì xe xe ngựa ngựa sắp hàng; các ông các bà hai họ, ông thì áo gấm bà thì áo vóc, đây vài ông duy tân bận áo nái Trần Văn Phúc, đội mã Đông Thành Xương, đi giây vàng phố Phúc Kiến. Vài ba ông cụ già mặc áo thụng xanh, đi có lọng che cầm hương thơm Quảng Hợp ích. Đám cưới thực ra một đám cưới duy tân, và có ý bảo nghiệp, duy có cái pháo vẫn Gòn giữ lối bắt chước các chú. Lạch đạch trong nhà chán rồi lại treo thêm một bánh ra mái hiên cửa gọi là làm lệ để dâu vào được đi qua hỉ khí.

Bất ngờ đương lạch đạch tạch đùng có một cái xe độc mã đi qua; trên xe một vị thiếu niên ngồi, chẳng biết ông Phán sở nào. Như người ta thấy pháo thì hẳng đứng lại xa xa một quãng, xong rồi hãi đi. Ông Phán ta lại vội quá, và nhân có đám các bà các cô lịch sự, ta cũng làm ra mặt đánh xe rồi lấy sĩ diện chơi. Roi dây đánh đen đét. Phải con ngựa cũng ác! Vừa tiếng pháo vừa tiếng roi, ngựa sợ lồng phách mãi lên, long mất hai cái tay xe với cái ván. Hai bên hàng phố ai trông thấy cũng bảo: đáng kiếp, và cười ồ cả lên. Nhưng mà ông Phán ta có phải là người chịu hèn đâu, ngài đi tìm ngay một ông Tây đến, chẳng biết ngài nói với ông Tây thế nào, ông Tây đến gọi chủ nhà ra đánh một hồi, rồi cho hai người đội xếp đến bắt đem lên bóp Hàng Đậu. Lên đó rồi ông Cẩm bắt phải đến 50$, ông chủ nhà lấy van mãi phải đến 30$ mà thôi.

Việc phải đền ấy, phải trái thế nào tôi cũng xin không luận làm chi. Ông Phán ấy đi huỳnh xe mượn, cầm cương chẳng nên thân, hoặc cầm tài nhưng bánh pháo láo thấy xe gần đến nơi không tịt lại, cứ cố trí lẹt đẹt già để cho ngựa lông, thì sự ngày nào chẳng có như thế, cũng không nên nói.

Duy có cái điều đốt pháo là thậm giã man, thậm hay sinh phiền, thậm vô lý, thì anh em ta nên bỏ đứt hẳn đi.

Ngày xưa kia, cáng làm xe, người làm ngựa, thì cái pháo không sinh ra được những sự phiền nhiễu như bây giờ. Hai nữa là pháo mình không chế được ra, mỗi năm vừa cưới xin mừng rỡ tốt nhất mua của chú khách không biết là bao nhiêu vạn bạc nữa; mà chẳng thà mất đồng tiền nó có no béo ra được chút nào đâu, đốt nó có ra tiếng lưu thủy, huấn phong gì, tám hào bạc một bánh pháo Hạnh hoa, vừa được nửa phút, vừa điếc cả tai, ngạt cả mũi, toét cả mắt, cháy quần cháy áo, cháy chân cháy tay, mà có lúc cháy cả đến cửa nhà hàng xóm láng giềng; trẻ con còn bé có đứa sợ hãi sinh sài sinh ốm; mất cả câu truyện, không còn được việc gì; nghĩ đến cái thú ấy là thậm không có nghĩa lý gì.

Khôn nhưng mà không có pháo thì những chú khách sang đây tay mang dù rách, tay xách chăn bông làm thế nào mà về Tầu có cửa có nhà có ruộng có nương được? Không có pháo, ai bảo mình rằng giàu có ngàn có vạn? Không có pháo thì sao thằng ăn mày ba bữa không được hột cơm nó đến chực cửa, sao nó biết được rằng mình hơn nó nhiều? Sao nó biết được rằng bụng nó lép bao nhiêu mình có thừa tiền đặt ra khói bấy nhiêu? Không có pháo, làm thế nào được cho quan tưởng cướp đem lính vì vậy làng như quan Thái Bộc Cừ Đà hôm nọ? Lại không nhớ mấy năm trước Hà Nội ta có mấy ông tên đồn lừng lẫy suốt Bắc kỳ, vì ganh nhau đốt pháo lúc đám rước rồng Hội quán đi qua cửa, ư? Đó là mấy nết hay của cái pháo đó! Mà mỗi ngày cái pháo một khéo. Xưa còn Phượng vì một su một bánh, sau có sẵn địa hồng hào hai; sau mỗi ngày một văn minh, Mãn địa thêm chữ Toàn, rồi đến Ngũ sắc, rồi đến Bàn đào, Hạnh hoa, rồi đến tạch đùng, pháo nổ hết lại xòe ra một tờ giấy bốn chữ “Đinh tài lưỡng vượng. Các chú ý nói ( ý nói thương nhân người Hoa-DTQ) thực là khéo lo cho nước Nam lắm tiền quá. Âu tiến bộ, xe lửa nuốt đường mỗi ngày một nhanh, trước còn 10, sau 100, sau nữa 120 kilometres một giờ. Á văn minh, quả pháo ăn bạc, mỗi ngày một chóng, trước còn xu, sau hào, sau nữa đồng bạc một phút. Chẳng có thể tiến của nước Nam để đâu cho hết?

Nước Nam thua người học hành buôn bán, nhưng cũng hơn người được cái hách xằng, chớ lại chịu hẳn rằng kém, sao?."


Dương Trung Quốc
Nguồn:Tạp chí Xưa và Nay xuân Nhâm Dần 2022

VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ CHÍNH THỐNG GIÁO

Thánh Phêrô (Pièrre, Peter) và thánh Anrê (André, Andrew) là hai anh em ruột và đều là môn đệ của Chúa Giêsu (Jesus). Hai ông cùng rời Do Thái (Israel) để đi giảng đạo.


Ông anh Phêrô đến thành La Mã (Roma, Rome) thuộc nước Ý (Italia, Italy) lập ra Giáo hội phương Tây.

Ông em Anrê sang Constantinople thuộc Hy Lạp (Greece), nay thuộc Thổ Nhĩ Kỳ (Turkey) lập ra Giáo hội phương Đông. Như vậy Giáo hội phương Đông và Giáo hội phương Tây được khai sinh cùng thời kỳ. Hàng nghìn năm đầu, 2 Giáo hội này thống nhất với nhau về Kinh Thánh, Giáo lý và phương thức thờ kính.

Kitô hữu là những người được sức dầu, bởi khi rửa tội, người tín hữu lãnh nhận ba nhiệm vụ quan trọng gồm:
- Tư tế nghĩa là tham gia thờ phượng và thực hiện các lễ nghi phụng sự Thiên Chúa.
- Vương đế: làm vua do Chúa trao phó và
- Ngôn sứ: làm người nói lên lời của Thiên Chúa.

Đến năm 1054 thì 2 Giáo hội này chính thức tuyệt thông với nhau.

Giáo hội phương Tây được gọi là Công giáo La Mã (Roman Catholism), người đứng đầu gọi là Giáo hoàng (Pope). Còn Giáo hội phương Đông được gọi là Chính thống giáo (Orthodoxy hoặc Orthodox Church), người đứng đầu giáo hội được gọi là Thượng phụ (Patriarch), ví dụ Thượng phụ chính thống giáo Nga….

Bên trái: Giáo hoàng Công giáo, bên phải: Thượng phụ Chính thống giáo

Sau đây xin viết tắt CG = Công giáo, CTG = Chính thống giáo.

Lý do của sự phân ly này là có vài điểm trong Kinh Thánh được giải thích theo cách hiểu khác nhau và có 2 tín điều về Đức Mẹ do Giáo hoàng ban bố không được Chính Thống Giáo chấp nhận. Một số nghi lễ của 2 đạo này đều tuân thủ đúng nội dung như nhau nhưng hình thức thao tác thì khác nhau. Thí dụ, trong nghi thức Baptism (bí tích Rửa tội để gia nhập đạo, chỉ làm một lần trong đời) thì bên Chính Thống Giáo làm đúng hình thức như ngày xưa Chúa Giêsu đã làm, là dìm cả thân mình trong nước. Trong khi đó, bên Công Giáo cải tiến một chút cho tiện lợi, đơn giản bằng cách đổ một chút nước trên đầu hoặc trên trán để tượng trưng cho sự tẩy rửa tội lỗi. Suy cho cùng, các lễ nghi trong các tôn giáo chỉ là một cử chỉ mang tính tượng trưng để biểu lộ cái nội dung cốt lõi của vấn đề nào đó.

Trong khi làm lễ, Chính Thống Giáo dùng ngôn ngữ nguyên thuỷ là tiếng Hy Lạp. Còn Công Giáo dùng tiếng Latin.

Sau Công đồng Vaticano (Vatican) II thập niên 1960 thì Công Giáo cho phép dùng tiếng địa phương, thí dụ người Việt Nam được dùng tiếng Việt khi cử hành Thánh lễ (trong khi ngày nay các chùa Phật giáo vẫn tụng kinh bằng tiếng Pa-li, các Phật tử tụng kinh mà không hiểu mình đang nói gì, cầu xin gì nơi Đức Phật)

Vì thực hiện các lễ nghi đúng với bản gốc về nội dung và hình thức nên Chính Thống Giáo tự coi mình là đạo truyền thống và tên đạo Chính Thống Giáo có ý nghĩa như vậy. Thường một buổi lễ bên Công Giáo lâu chừng 1 giờ thì bên Chính Thống Giáo lâu hơn.

Giáo hội phương Tây do Thánh Phêrô thành lập thì cho rằng Công Giáo mới là Giáo hội chính thức vì Kinh thánh chép rằng Chúa Giêsu nói với ông Phêrô: "Hỡi Phêrô, con là Đá, Ta sẽ xây dựng giáo hội của Ta trên nền Đá này".

Ngoài ra lý do phân ly quan trọng là sự tranh chấp về quyền hành giữa Giáo hoàng Công Giáo và Thượng phụ Chính Thống Giáo.

Tôn giáo nào cũng có sự ly khai thành nhiều giáo phái. Hồi giáo chia ra 2 dòng Sunni và Shiite. Mỗi dòng lại chia ra nhiều giáo phái.

Đạo Tin Lành cũng thờ Chúa nhưng có hàng chục ngàn giáo phái ở bên Mỹ.

Đạo Phật chỉ riêng ở Việt Nam cũng đã có nhiều tông phái như Phật giáo nguyên thủy, Phật Giáo Mật tông, Phật Giáo Thiền tông, Phật Giáo Khất sĩ, Phật Giáo Tịnh độ tông, Phật Giáo Hoà Hảo (gọi là Phật Giáo Hoà Hảo nhưng không thờ tượng ảnh của Đức Phật). Mỗi Tông phái Phật Giáo lại còn chia ra nhiều nhánh khác.

Nhà thờ thánh Basil nằm ở phía Nam Quảng trường Đỏ, Matxcova, Nga.

Trong khi đó Chính Thống Giáo có nhiều giáo hội với nhiều Thượng phụ khác nhau và độc lập với nhau. Thí dụ, Chính Thống Giáo Nga khác với Chính Thống Giáo Hy Lạp, Chính Thống Giáo Rumania .... thì Giáo hội Công Giáo là một thể thống nhất.

Giáo hoàng Pope duy nhất lãnh đạo Công Giáo toàn cầu.

Mỗi quốc gia có một Hội đồng Giám mục với nhiều Giáo phận (mỗi giáo phận bao trùm 1-3 tỉnh thành, đứng đầu Giáo phận Diocese là một Giám mục Bishop hoặc Hồng y Cardinal), Mỗi nhà thờ là một Giáo xứ (Parish, xứ đạo, họ đạo, bao trùm một phường xã) có 1-3 Linh mục Priest cai quản.

Tất cả các nhà thờ Công Giáo trên thế giới cử hành cùng nghi lễ như nhau, Linh mục làm lễ mặc cùng màu áo, đọc cùng một chương Thánh Kinh như nhau trong các ngày lễ trong năm.

Chính Thống Giáo dùng lịch Julius còn Công Giáo dùng lịch Gregory do Giáo hoàng Gregory thứ 13 ban hành, là loại công lịch hay lịch quốc tế mà ngày nay chúng ta đang dùng.

Chính Thống Giáo không thờ tượng, chỉ thờ ảnh vẽ về Chúa, Đức Mẹ và các Thánh. Hàng giáo phẩm của Chính Thống Giáo gồm các Linh mục (Priest), Giám mục (Bishop) và Thượng phụ (Patriarch). Các Linh mục có thể có vợ, ai muốn lên chức cao hơn thì phải độc thân. Chính Thống Giáo cũng có dòng tu tập thể như Công Giáo.

Việc Linh mục Chính Thống Giáo có vợ vì họ cho rằng khi xưa trong 12 môn đệ của Chúa Giê su (không kể Judas) thì có mấy ông có vợ con.

Trong khi đó các tu sĩ Công Giáo phải cạo râu, sống độc thân và Công Giáo có dòng tu tập thể nam và nữ (thường gọi là các sơ hay soeur có nghĩa là chị) riêng biệt.

Vì Công Giáo và Chính Thống Giáo có nhiều điểm giống nhau hơn là đạo Tin Lành nên từ thập niên 1980 các Giáo hoàng Công Giáo đã gặp Thượng phụ Chính Thống Giáo Hy Lạp và Chính Thống Giáo Nga để bàn việc thống nhất giữa Công Giáo và Chính Thống Giáo thành một Giáo hội.

Theo tôi, công việc này vô cùng khó khăn, nhất là về mặt quyền bính. Khi nhập 2 đạo làm một thi ai sẽ là người lãnh đạo?

Một nước không thể có 2 vua, một đạo không thể có 2 Giáo chủ. Rồi những Linh mục Chính Thống Giáo đã trót có vợ thì sau khi sát nhập họ có bị loại ra không?

Tuy nhiên, đã có tiến bộ đạt dược là Công Giáo cho phép tín đồ của mình dự lễ và làm các nghi thức ở nhà thờ Chính Thống Giáo, do các Linh mục Chính Thống Giáo làm lễ và ngược lại tín đồ Chính Thống Giáo cũng được làm như vậy.

Chính Thống Giáo ở Việt Nam: Từ thập niên 1980, các tín đồ Chính Thống Giáo đến Việt Nam là các chuyên gia khai thác dầu khí của Nga đến làm việc ở Vũng Tàu. Họ dùng một căn nhà nhỏ để làm nhà thờ tạm. Ở Hà Nội, tín đồ Chính Thống Giáo là các viên chức Đại sứ quán Nga và các chuyên gia, du học sinh Nga. Mỗi Chủ Nhật họ mượn một nhà thờ Công Giáo để làm lễ. Tại TP.HCM, mỗi Chúa Nhật đều có lễ Chính Thống Giáo tại Lãnh sự quán Nga ở quận 3.

KITÔ GIÁO VÀ CƠ ĐỐC GIÁO LÀ GÌ?

Kitô hay Cơ Đốc là từ ngữ phiên âm Hán-Việt từ chữ Christianity. Chữ Christianity có gốc từ tên đầy đủ của Chúa Jesus Christ (tiếng Việt gọi là Chúa Giêsu Kitô). Kitô giáo hay Cơ đốc giáo còn được gọi chung là Thiên Chúa giáo.

Sau đây là tên các giáo phái trong Thiên Chúa giáo, liệt kê theo thứ tự thời gian khai sinh giáo phái:
1. Công giáo (Catholism):
2. Chính thống giáo (Orthodoxy hay Orthodox Church)
3. Tin Lành (Protestantism)
4. Anh giáo (Anglicanism)

Church có nghĩa là nhà thờ, còn có nghĩa là Giáo hội.

Nhà thờ chính tòa Thánh Sophia, Kyiv, Ukraine

Cathedral là nhà thờ Chính toà, thường là nhà thờ lớn, tọa lạc ở các thành phố lớn, là nhà thờ chung của một giáo phận, một giáo phận có nhiều giáo xứ.

Phan Văn Tú / Theo: chungta.com
Link tham khảo:
https://greekreporter.com/2024/03/24/catholic-church-orthodox-church-differences/

https://www.saintjohnchurch.org/differences-between-orthodox-and-catholic/

TA VỘI VÃ BƯỚC ĐI, QUÊN BAO ĐIỀU ĐÁNG QUÝ?

Tôi từng lầm tưởng cuộc đời này là phải sống hối hả, vội vàng, để kiếm thật nhiều tiền mà thỏa sức vui chơi cho khỏi nuối tiếc một lần được sinh ra ở chốn hồng trần… Thế nhưng, chỉ một phút giật mình cảm ngộ, tôi đã nhận thức được bản thân đang đi trật con đường. Để rồi tự lật đật tìm lại những điều mà nhịp sống vội vã đã khiến mình bỏ quên…

(ảnh minh họa: Pinterest)

Hôm nay trời đã dần trở lạnh, tôi hoà cùng dòng người trên đường trong giờ cao điểm mà hối hả về nhà.

Xe máy phóng bay phơi phới, tôi vội vã. Có lẽ, phần vì lạnh, phần còn vì lo cho con cái cùng công việc nhà ngổn ngang.

Tiếng còi xe inh ỏi, tiếng gió thổi vù vù… Cảm giác như dòng chảy của vạn vật là mê mải, tất cả đều chỉ muốn thật nhanh.

Tôi bất giác giật mình. Hình như tôi đi quá nhanh so với thói quen của bản thân. Tôi cũng bất giác giật mình. Xã hội này hình như đều đang vội vàng như thế?

Tôi nhớ ngày còn đi học, cứ mỗi buổi tan trường tôi và bạn bè đều đạp xe thong dong trên đường, hàn huyên bao câu chuyện. Chúng tôi vì thế có thời giờ để ngước nhìn lên trời ngắm hoàng hôn hay những cánh chim chao liệng. Cũng thứ thời tiết khô hanh và màu trời u ám này, được hít hà hơi của mùa đông, ngửi thấy mùi của những đám lửa người ta đốt đồng…

Nhưng bây giờ, trên đường đủ các loại phương tiện như xe máy, xe đạp điện, ô tô, phân khối lớn… đều có tốc độ cao. Và tất cả người điều khiển dường như cũng chẳng có ai thong thả, kể cả những nhóm học trò…

Một chiều đông, tôi chợt nhận ra mình đã bỏ quên nhiều điều, đã chẳng sống chậm để cảm nhận lại những điều quen thuộc… Có lẽ, cũng rất nhiều người như tôi. Vội vàng hối hả trên đường đời, bị vòng quay cơm áo gạo tiền kéo trượt theo, bỏ quên những giản dị bình lặng mà yên an từ sâu thẳm…

Người trưởng thành thì hay suy nghĩ. Nhưng người khi về già lại hay hoài niệm.

(ảnh minh họa: Pinterest)

Người trưởng thành suy nghĩ về miếng cơm manh áo, về công việc, thử thách, về con đường làm giàu, thành đạt… Nhưng khi tóc đã phủ màu sương gió, thì lại hoài niệm về tuổi thơ, và nuối tiếc bản thân, tiếc thời gian bởi từng sống quá hối hả, từng đổ quá nhiều công sức mà đi nhặt nhạnh những hư vô.

Vội vàng…

Lối sống vội vàng len lỏi vào từng cá nhân, trở thành bình thường trong cuộc sống, nên ít ai nhận ra nhịp sống của chính bản thân mình.

Bao nhiêu thời gian cũng là chưa đủ. Chẳng còn có mấy ai dành thời giờ nhìn lại tâm hồn chằng chịt là lợi danh, tiền tài, cả tổn thương, mỏi mệt. Song tất cả điều đó được coi là bình thường… Vì đời thường mà, ai cũng thế!

Tôi hôm nay, tự nhìn nhận lại thật nhiều. Cũng tự hỏi bản thân là: Sinh ra chỉ hai tay trắng, lìa đời lại trắng hai tay. Vậy thì cớ vì sao cứ lao theo dòng chảy kia, mê mải nhặt nhạnh cho đầy túi đời mà quên bao điều đáng ra cần trân quý?

Tôi nhớ lắm ngày xưa, cha mẹ con cái chỉ có nồi cơm trắng với muối vừng rang, mà bữa cơm luôn đầy ắp tiếng cười.

Tôi nhớ lắm tuổi thơ đầu trần chân đất cùng lũ bạn. Chúng tôi chưa từng hơn thua hay khoe nhau ai giàu, bởi vì chỉ có sự chia sẻ và tình bạn đúng nghĩa.

Tôi nhớ hàng xóm tối tối sang nhà nhau chơi, có nồi ốc luộc cùng ngồi thổi thì thụp, mỗi người khêu mấy con. Tiếng cười ấm trời đông. Mà có công việc gì thì cả xóm cũng sang xắn tay làm hộ… Dẫu nghèo song xóm làng, anh em, họ hàng… luôn huyên náo, rộn ràng, và chân tình nữa.

Bây giờ cái gì cũng đủ đầy, nhưng dường như chỉ tình người thì ít đi.

Người người đều vội vàng sống, vội vàng kiếm tiền từ sáng đến đêm. Đôi khi nhìn thấy mặt để chào được một câu cũng còn phải tính bằng năm bằng tháng…

(ảnh minh họa: Pinterest)

Bao nhiêu điều ấm áp, giản dị, theo dòng đời hối hả mà chảy trôi. Trôi tuột! Trôi hết! Chỉ còn lại nhà lầu xe hơi nhưng tối ngày kín cổng cao tường, ai biết thân người đó… Thậm chí cành cựa nhau, hơn thua nhau bằng cái nhà cái xe, bằng cái áo cái túi hàng hiệu, bằng thu nhập bao nhiêu… Và tất cả ngày mai lại hối hả lao đi, miễn kiếm sao cho thật nhiều tiền…

Bao nhiêu là đủ? Thế nào là đủ? Hay biết đủ là đủ?

Tôi đã tự có câu trả lời, để giảm nhịp sống vội vàng lại, để trân trọng những điều vô giá hơn vật chất ngoài thân…

Tôi hít một hơi thật sâu mà cảm nhận gió lạnh tràn về như thuở còn đạp xe đi học… Bỗng có tiếng còi inh ỏi phía sau, rồi xe khác vụt lên, xe kia len lỏi… Không sao, tôi sẽ lùi lại nhường đường… Bởi vì, tôi không còn muốn vội vàng. Chỉ vậy thôi!

Hoa Mặt Trời / Theo: nguyenuoc.com

VÌ SAO HỌC CÙNG MỘT SƯ PHỤ, TỬ CỐNG HỄ KINH DOANH LÀ VÔ CÙNG GIÀU CÓ, CÒN NHAN HỒI VÔ CÙNG NGHÈO

Tử Cống là người nước Vệ, là một người không hề tầm thường trong số 10 đại đệ tử của Khổng Tử. Ông là một người toàn tài, vừa là một nho sĩ học rộng hiểu nhiều, vừa là một nhà chính trị kiệt xuất, nhà ngoại giao tung hoành thiên hạ, còn là một thương gia vô cùng giàu có…

Tử Cống và Nhan Hồi cùng học một thầy, nhưng một người thì giàu một người thì nghèo

Tử Cống là một Nho thương đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc, được mệnh danh là ông tổ Nho thương (Sự kết hợp giữa Nho học với thương mại gọi là Nho thương, tức là người có đạo đức và trí tuệ của đạo giáo tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại và đạt đến thành công của sự giàu có).

Tử Cống còn đảm nhận chức vị Tể tướng của nước Lỗ và nước Vệ. Với địa vị xã hội vừa là Nho sĩ, vừa làm quan vừa làm thương mại, Tử Cống qua lại với quốc vương của nhiều nước, ngồi xe lớn bốn ngựa kéo, khí thế vô cùng, còn mang theo rất nhiều lễ vật đi tặng cho chư hầu.

Tử Cống đi đến đâu, quốc vương nước đó đều vô cùng tôn kính ông, chỉ dùng lễ nghi chủ khách đối với Tử Cống, chứ không thực hiện lễ nghi quân thần.

Nếu ta so sánh Tử Cống với Nhan Hồi sẽ thấy hai người đó khác nhau một trời một vực. Nhan Hồi rất nghèo, trong “Luận ngữ“, Khổng Tử nói một câu: “Một cái bát ăn cơm, một cái gáo uống nước, sống nơi nghèo khổ, người khác sẽ không chịu được nỗi buồn đó, nhưng Hồi luôn vui vẻ, Hồi là người hiền minh vậy”. Đây chính là người quân tử tâm an ổn trong nghèo khó, đồng thời vui vẻ trong Đạo.

Trong “Luận ngữ – Tiên tiến” có ghi lại lời của Khổng Tử: “Hồi thường không có gì để ăn, hay bị đói. Tứ thì không giống vậy. Tứ có tài đoán thị trường rất chuẩn, hễ đoán là trúng”. Chúng ta biết để đoán giá cả thị trường rất chuẩn thì điều kiện tiên quyết là người này phải hiểu rõ tâm lý đại chúng, cũng chính là nói anh ta rất giỏi tâm lý học.

Chân dung Nhan Hồi – Ảnh: Internet

Tử Cống có ưu thế thiên phú về làm thương mại

Tử Cống là học trò xuất sắc của Khổng Tử, tính cách của Tử Cống hoạt bát cởi mở, khả năng hùng biện xuất sắc, vừa nhạy bén, vừa thông minh linh hoạt, giao du rất rộng, có ưu thế bẩm sinh về kinh doanh thương mại.

Cộng thêm quê hương của Tử Cống ở bồi đô Triều Ca trải qua bốn đời nhà Ân Thương, hoạt động thương mại tại nơi này rất sôi động, bản thân ông cũng sinh ra trong gia đình thương nhân, có thiên phú về kinh doanh thương mại.

Tử Cống cho rằng: Có ngọc đẹp ở trong tủ, đợi khi giá tiền thích hợp thì bán ra, chứ không phải cất giữ mãi mãi. Ông cho rằng giá cả của sản phẩm cao hay thấp là do mối quan hệ cung cầu quyết định, và đề xuất lý luận về “vật khan hiếm thì quý”.

Đi chu du các nước cũng là chuyến đi làm thương mại

Tương truyền rằng Tử Cống 17 tuổi nhận Khổng Tử làm sư phụ, hai mươi mấy tuổi kế thừa gia sản. Khi theo Khổng Tử đi chu du các nước, ông cũng tiến hành hoạt động mua bán.

Ông chú tâm tìm hiểu về nội chính ngoại giao, phong tục tập quán, tình hình thị trường của các nước, dựa trên sự thay đổi khác nhau về tình trạng cung cầu của thị trường bất cứ lúc nào, người ta bỏ thì mình lấy, mua rẻ bán đắt, kiếm được lợi nhuận cao.

Ví dụ, vào mùa đông năm nọ, Tử Cống được biết nước Ngô sắp xuất binh viễn chinh nước Tề. Ông đoán được Ngô Vương Phù Sai nhất định sẽ yêu cầu cả nước cống nạp vải vóc, để cung cấp cho quân đội tránh rét, như vậy sẽ tạo thành tình trạng thiếu hụt vải vóc nghiêm trọng trong dân gian, thế là Tử Cống lập tức sắp xếp người đi đến các nơi ở nước Lỗ mua vải vóc, sau đó nhanh chóng vận chuyển về nước Ngô.

Lúc này, quả nhiên đúng như ông dự đoán, bá tánh nước Ngô đều thiếu vải, chỉ mặc quần áo mỏng trên người, đang phải chịu đựng cái lạnh trong mùa đông giá rét. Khi số vải vóc của Tử Cống về đến, lập tức bị tranh giành mua hết sạch, nhờ vậy mà Tử Cống kiếm được một món tiền lớn.

Khổng Tử từng nhận xét về Tử Cống là: “Tứ không nghe theo ý Trời, mà đi kinh doanh buôn bán, dự đoán tình hình thị trường luôn luôn chính xác”, ý muốn nói rằng Tử Cống không chịu an phận để làm quan mà thích con đường kinh doanh thương mại, lần nào cũng đều có thể đoán chính xác tình hình thị trường.

Trong “Hóa thực liệt truyện” của “Sử Ký” có ghi chép, Tử Cống học tập ở chỗ của Khổng Tử, sau khi rời khỏi liền đến nước Vệ làm quan, và kinh doanh thương mại giữa nước Tào và nước Lỗ.

Khổng Tử, Nhan Hồi và Tử Cống

Tử Cống học được những gì từ chỗ của Khổng Tử?

Nếu như Tử Cống không theo học Khổng Tử, dựa vào thiên phú của ông, tin chắc rằng ông vẫn là một thương nhân giỏi, nhưng chắc chắn sẽ không có được thành tựu lớn như vậy. Vậy Khổng Tử đã dạy cho Tử Cống chìa khóa bí quyết gì mà khiến ông có thể xuất sắc và thành công như vậy?

Trong “Luận Ngữ” có ghi chép lại lời hỏi đáp giữa Khổng Tử và các đệ tử của mình, trong đó đối thoại giữa Khổng Tử và Tử Cống là nhiều nhất. Tử Cống có sở trường là học tập từ những câu hỏi, và rất giỏi suy luận, từng bước đi sâu vào nghiên cứu, giúp Khổng Tử có cơ hội đưa ra lời giải thích ở nhiều góc độ khác nhau, những câu đối đáp tuyệt vời giữa hai người luôn lan tỏa ra ánh sáng của trí tuệ, giúp ích cho người đời sau.

Tử Cống hỏi Khổng Tử làm thế nào để trị vì đất nước. Khổng Tử đáp: “Lương thực đầy đủ, quân bị đầy đủ, có được sự tín cậy của bá tánh, chỉ như vậy mà thôi”.

Tử Cống hỏi: “Nếu như bắt buộc phải loại bỏ một mục, vậy trong ba mục trên nên loại bỏ mục nào trước?”

Khổng Tử đáp: “Loại bỏ quân bị”.

Tử Cống hỏi: “Nếu như bắt buộc phải loại bỏ tiếp một mục nữa, vậy trong hai mục đó nên loại bỏ mục nào?”

Khổng Tử đáp: “Loại bỏ lương thực đi, từ xưa đến nay con người cuối cùng vẫn phải chết, nếu như không có sự tin tưởng của bá tánh, vậy thì đất nước sẽ không thể đứng vững được nữa”.

Trị vì đất nước như vậy, Tử Cống hiểu ra được, kinh doanh thương mại cũng như vậy, chữ “tín” là quan trọng nhất.

Khổng Tử nói: “Quân tử dụ ư nghĩa, tiểu nhân dụ ư lợi”. Câu này nghĩa là: Cái mà quân tử biết là đạo nghĩa, cái mà tiểu nhân biết là lợi ích.

Khổng Tử chủ trương “Quân tử ái tài, thủ chi hữu đạo”, nghĩa là người quân tử chỉ nhận những tài vật có được một cách chính đáng, bằng cách làm chính đạo, chứ không nhận tài vật có được bằng thủ đoạn bất nghĩa.

Chân dung Tử Cống

Khuyết điểm của Tử Cống

Tử Cống có rất nhiều ưu điểm, nhưng cũng có khuyết điểm, Tử Cống “thích tuyên dương cái đẹp của người khác, không che đậy lỗi lầm của người khác”. Vì vậy trong “Luận Ngữ”, Khổng Tử từng ba lần nhắc nhở Tử Cống phải “thứ” (thứ ở đây là tha thứ, khoan dung, lượng thứ…)

Tử Cống từng hỏi Khổng Tử: “Có từ ngữ nào để cả đời thực hành không?”, Khổng Tử đáp: “Đó là thứ! Cái mình không cần, đừng tặng cho người”.

Ý của đoạn trên là, Tử Cống hỏi rằng: “Có chữ nào có thể cả đời thực hành làm theo không?”. Khổng Tử nhắm vào khuyết điểm của Tử Cống mà trả lời rằng: “Có lẽ là chữ ‘thứ’! Cái mà bản thân không muốn, đừng áp đặt cho người khác”.

Có lẽ sẽ có người nói rằng: “Tôi cũng từng nghe qua những ngôn từ này, hầu như cũng không có gì đặc biệt”, đúng thật là vậy, mặc dù tư tưởng Nho giáo đã lưu truyền ở Trung Quốc hơn hai ngàn năm, thật ra vấn đề mấu chốt nằm ở chỗ là có thực sự lĩnh ngộ được những tư tưởng và trí tuệ này không?

Lĩnh ngộ đến mức độ nào, và có thể làm được đến mức độ nào? Dù sao ngoài miệng thì nói những lời lẽ trí tuệ vô cùng thâm sâu, nhưng trong lòng lại cảm thấy khó hiểu khó tin, thực tế cũng có rất nhiều người đều chỉ là ‘treo đầu dê bán thịt chó’.

Đối với Tử Cống mà nói, tư tưởng Nho giáo thực sự là đã hòa trộn vào tâm trí ông, và là chuẩn mực hướng dẫn con người cách đối nhân xử thế. Tử Cống dùng lễ nghĩa đối đãi người khác, tuân thủ tín nghĩa, xem trọng danh dự lời nói, không bao giờ làm tổn hại người khác để lợi ích cho bản thân, cung cấp những sản phẩm đáng tin cậy cho thị trường, kiếm lợi nhuận một cách thích đáng, ông dùng thái độ “dĩ hòa vi quý” và “tứ hải chi nội giai huynh đệ” để kết giao bạn bè khắp nơi.

Cảnh giới đạo đức của người giàu có

Tử Cống trở thành người giàu có bậc nhất, có lẽ ông ý thức được sự ảnh hưởng của tiền đối với con người, ông lại đi thỉnh giáo Khổng Tử một vấn đề quan trọng: “Nghèo mà không nịnh, giàu mà không kiêu, thế nào?”, ý của câu hỏi này là: Một người nghèo khổ nhưng không nịnh nọt người khác, giàu có mà không kiêu ngạo với người khác, như vậy có đủ hay chưa?

Khổng Tử đưa ra một sự kỳ vọng mới đối với Tử Cống, nói rằng: “Cũng tạm được, nhưng bần cùng mà vui vẻ, phú quý mà biết lễ nghi thì tốt hơn”.

Tử Cống lại ngộ ra được rất nhiều, lại tiếp tục đặt câu hỏi: Có phải quân tử cũng phải không ngừng nâng cao cảnh giới đạo đức giống như không ngừng mài đá quý không? Khổng Tử thấy Tử Cống có ngộ tính như vậy, vui mừng nói: “Như vậy, ta có thể cùng con đàm luận ‘Kinh Thi’ rồi!”

Có người cho rằng, Tử Cống làm về học vấn, làm chính trị, làm kinh doanh cũng đều rất thành công, trong số đệ tử của Khổng Tử thì Tử Cống được xem là tấm gương có thể vận dụng kiến thức vào trong đời sống thực tế, mà thành công của ông cũng giống như “lấy thân chứng Đạo”, chứng minh được lợi ích chỉ dẫn thực tế của tư tưởng “nhân” trong Nho giáo đối với mọi phương diện như làm người, trị nước, kinh doanh, v.v…

Nói thật lòng, nếu như thực sự có thể lĩnh ngộ sâu sắc về ngũ thường “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín” của Nho giáo, sau đó thực hành một cách nghiêm túc, không ngừng nâng cao cảnh giới đạo đức của mình giống như không ngừng mài một viên đá quý, một thương nhân như vậy sao lại không khiến người ta kính trọng và tin tưởng chứ, làm sao có thể không thành công được chứ!

Vì vậy, người đời sau tôn vinh những thương nhân thành thật và có chữ tín giống Tử Cống là “Đoan Mộc di phong” – tức: Tác phong kinh doanh thành thật và đáng tin cậy do Tử Cống để lại.

Nguyệt Hòa biên tập
Theo DKN/NTDVN

Sunday, September 28, 2025

VÌ SAO KHI ĐỨC PHẬT TẠI THẾ KHÔNG CÓ TƯỢNG PHẬT, CHÙA CHIỀN, KINH SÁCH?

2500 năm trước đây, sau khi giác ngộ, Phật Thích Ca vì mong muốn giải thoát chúng sinh khỏi bể khổ mà bắt đầu truyền giảng Phật Pháp. Thời bấy giờ ở Ấn Độ cổ, người ta thậm chí không biết xưng hiệu của Đức Phật, không có từ Phật, càng không có tượng Phật, chùa chiền hay kinh sách. Phật Pháp mà Đức Phật chứng ngộ được trong chân lý vô biên của vũ trụ cũng vì thế mà không xoay quanh những điều này.

Đức Phật giảng về nhân duyên của ngài và các đệ tử trong những kiếp trước. (Tranh: Walters Art Museum, Public Domain)

Thời bấy giờ, Phật Thích Ca chủ yếu truyền dạy đạo của Ngài trong các hang đá. Các đệ tử đi theo Đức Phật ngoài chuyện đi xin ăn, hóa duyên ra, thì sinh hoạt chủ yếu tại đó, và ngoài việc nghe Đức Phật giảng dạy thì phần lớn thời gian đều dành cho việc ngồi thiền.

Chi Viên tịnh xá và Trúc Lâm tịnh xá ở nước Xá Vệ được xem là những nơi sinh hoạt đầu tiên được xây cất phục vụ việc truyền đạo của Đức Phật. Trúc Lâm tịnh xá là do vua Bimbisāra, đệ tử đầu tiên của Đức Phật thuộc hàng Vua chúa, xây dựng để cung cấp một nơi an cư thuận tiện cho Đức Phật và đệ tử của Ngài.

Tuy nhiên vô luận là hang đá hay tịnh xá, mục đích chủ yếu của chúng là để những người tu hành sinh sống và có được một không gian biệt lập phục vụ mục đích tu hành. Điều này khác xa so với mục đích của chùa chiền ngày nay (thờ cúng tượng Phật, đón khách viếng thăm, v.v..).

Thời đó khi Đức Phật truyền giảng chân lý mà Ngài chứng ngộ được thì đều là truyền miệng, không có ai ghi chép lại. Các đệ tử chỉ là nghe, hỏi và ghi nhớ mà thôi. Kinh sách là do các đệ tử đời sau chỉnh lý lại trong quá trình truyền thừa. Cũng vì thế mà kinh sách này không thể hiện đầy đủ hoàn cảnh mà Đức Phật truyền dạy, thậm chí còn phát sinh sự mâu thuẫn, dẫn đến các môn phái khác nhau bên trong Phật giáo sau này.

Ngoài ra, thời bấy giờ Đức Phật cũng không dạy người ta tạc tượng để cúng bái, cũng không dạy hình thức cúng bái này.

Sau khi Đức Phật nhập niết bàn thì xảy ra một loạt các biến đổi. Một là liên quan đến việc phân chia chi phái như đã nói, mặt khác cũng xuất hiện việc thờ phụng xá lợi.

Bấy giờ sau khi nhục thân của Đức Phật được hỏa táng thì xuất hiện xá lợi. Tám vị quốc vương ở Ấn Độ cổ phái sứ giả đến nơi hỏa táng, yêu cầu được chia xá lợi Phật, nên phân thành 8 phần. Hai quốc vương nữa đến sau không nhận được xá lợi Phật, nên một người lấy chiếc bình đựng xá lợi, một người lấy tro cốt của Đức Phật về.

Cho nên toàn thể Ấn Độ cổ thời ấy đã kiến tạo 10 tòa tháp, bao gồm 8 tòa tháp an táng xá lợi Phật, 1 tòa tháp an táng chiếc bình đựng xá lợi Phật và 1 tòa tháp an táng tro cốt Phật.

Vào thời kỳ vua Ashoka, khoảng thế kỉ thứ 3 TCN, Phật giáo trở thành quốc giáo ở Ấn Độ. Vì muốn mở rộng và làm hưng thịnh Phật giáo, vua Ashoka đã hạ lệnh khai quật các xá lợi tháp. Nhưng trong đó có các tòa tháp bởi vì kiến tạo quá chắc chắn nên không thể khai quật được. Toàn bộ phần xá lợi Phật có thể lấy ra một lần nữa được chia làm nhiều phần, phân chia khắp nơi.

Nghệ thuật tạc tượng xuất hiện tại Ấn Độ khá muộn, có thể là được lưu truyền từ Hy Lạp tới, cũng vào khoảng thời gian vua Ashoka. Các tượng Phật bắt đầu xuất hiện, và dần có sự chuyển đổi từ thờ phụng xá lợi sang thờ phụng tượng Phật.

Tượng Phật vào thế kỷ thứ 2-3, được tìm thấy tại Pakistan (thuộc Ấn Độ cổ), đã đạt đến trình độ khá tinh xảo. (Ảnh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain)

Sau khi xuất hiện việc thờ phụng tượng Phật, người ta bắt đầu phải xây dựng nơi để đặt tượng Phật. Trong các kiến trúc chùa chiền ngày nay thì tượng Phật chiếm một vị trí rất quan trọng.

Trên thực tế, bất luận là tượng Phật, kinh sách hay chùa chiền thì đều không phải là điều mà Đức Phật để lại. Thời bấy giờ khi Đức Phật chuẩn bị niết bàn, chúng đệ tử có hỏi Ngài về việc dựa vào điều gì để tiếp tục tu hành, Đức Phật đã để lại giới luật. Giới luật này trong quá trình truyền thừa tới Phật giáo Đại Thừa đã tăng thêm rất nhiều, nhưng về cơ bản là đã bảo lưu lại được, chỉ là lẫn thêm vào giới luật nghiêm khắc hơn mà thôi. Như vậy có thể thấy trong Phật giáo ngày nay, điều chân chính được truyền thừa lại chỉ có giới luật.

Thời Đức Phật tại thế không có tượng Phật, chùa chiền, kinh sách. Đức Phật truyền dạy chân lý mà Ngài chứng ngộ được, lại hướng dẫn các đệ tử rời bỏ vật chất, thực tu bằng cách thiền định, từ đó mà đi theo con đường của Ngài. Khi Đức Phật niết bàn, Ngài để lại giới luật, chính là để cho người đời sau tuân theo đó mà tu tâm, đạt được trạng thái rời bỏ cám dỗ vật chất giống như Ngài hướng dẫn các đệ tử khi còn tại thế. Sau khi đã có trạng thái đáng có rồi, người đời sau cũng có thể thiền định, từ đó đạt được các thăng hoa khác nhau.

Kinh Phật không hoàn chỉnh và ngày càng sai khác trong quá trình truyền thừa, phiên dịch. Thêm vào đó, người đời sau đọc hiểu không được cổ ngữ, nên rất nhiều điều đã trở nên sai lệch, thậm chí méo mó. Người đời sau lại còn đề xướng “Phật học”, viết sách giải thích, đưa ra định nghĩa, nhưng cảnh giới của người viết có phải là Phật chăng? Cũng giống như học sinh cấp 1 muốn giải thích sách đại học vậy, làm cho người đọc đều hiểu sai cả. Đây là nguyên nhân cơ bản khiến Phật giáo suy vi, thật giống như Đức Phật đã tiên tri về thời “mạt Pháp” khi Pháp của Ngài không còn hiệu nghiệm nữa.

Đức Phật niết bàn. (Tranh: Metropolitan Museum of Art, Public Domain)

Con người luôn mong muốn dùng những hình thức vật chất để biểu đạt tín ngưỡng. Tuy vậy điều này lại dẫn tới sự lầm lẫn giữa chân chính tu Phật với các hoạt động tôn giáo như tìm hiểu nghiên cứu kinh sách, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền. Hòa thượng ngày nay thậm chí còn được phát lương, kinh sách tìm hiểu như một cách học tập làm phong phú kiến thức, kết hợp so sánh với triết học và các loại học thuyết khác, thiền phòng bám đầy bụi, giới luật cũng tự cho là phải phù hợp với xã hội hiện đại mà thoải mái hơn. Do đó làm sư đã được coi như một “nghề” mất rồi. Đó là chưa kể đến những chuyện nam nữ, khinh thường giới luật, bại hoại Phật giáo, kém cả tiêu chuẩn của xã hội người thường.

Cổ nhân có câu: “Mò trăng đáy nước”. Người mang tâm tu Phật, nhưng lại chỉ chú trọng đến chuyện đọc vài quyển kinh, cúng bái tượng Phật, xây dựng chùa chiền, cúng dường, v.v.. kỳ thực chỉ giống như “mò trăng đáy nước” mà thôi. Điều này không chỉ là tình huống của Phật giáo, mà nhiều tôn giáo khác cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Do đó, người thực tâm tín Thần Phật, chân chính tìm kiếm sự giác ngộ và ý nghĩa của sinh mệnh, thì tuyệt đại đa số đã không còn ở trong chùa chiền đạo quán nữa rồi.

An Hòa biên tập / Theo: trithucvn2.net