Saturday, May 6, 2023

300 NĂM SAU KHI HẠNG VŨ CHẾT, MỘT THIẾU NIÊN NHẶT ĐƯỢC ĐAO CỦA SỞ BÁ VƯƠNG VÀ TRỞ THÀNH BÁ CHỦ TAM QUỐC

Một câu chuyện huyền thoại liên quan đến thanh đao của Hạng Vũ, hơn 300 năm sau khi Sở Bá Vương chết, một thiếu niên nông thôn theo cha ra đồng nhặt được đao của Sở Bá Vương và trở thành bá chủ Tam Quốc giai đoạn đầu. Vậy người này là ai?.


Thời xưa, sau mỗi trận chiến lớn, rất nhiều thanh kiếm và đao sẽ bị bỏ lại trên chiến trường. Chúng bị chôn vùi trong đất như một cổ vật trong một thời gian dài, và sẽ được các thế hệ sau phát hiện ra. Có một câu chuyện huyền thoại tương tự liên quan đến thanh đao của Hạng Vũ.

Trong “Thủy Hử truyện”, có một bài hát dân ca được lưu truyền mà ai ai cũng biết đến: 

“Cửu lý sơn tiền cổ chiến trường, 
Mục đồng thập đắc cựu đao thương. 
Thuận phong xúy động ô giang thủy, 
Hảo tự Ngu Cơ biệt bá vương” 

九里山前古戰場
牧童拾得舊刀槍
順風吹動烏江水
好似虞姬別霸王

(tại chiến trường Cửu lý sơn năm xưa, mục đồng nhặt được cây đao cũ, thuận gió chém động nước sông Ngô Giang (một nhánh của sông Trường Giang), tựa như Ngu Cơ từ biệt Sở Bá Vương).

Cảnh tượng được mô tả trong bài hát dân gian này quả thực có khả năng là thật. Thời xưa, sau mỗi trận chiến lớn, rất nhiều thanh kiếm và đao sẽ bị bỏ lại trên chiến trường. Chúng bị chôn vùi trong đất như một cổ vật trong một thời gian dài, và sẽ được các thế hệ sau phát hiện ra. Có một câu chuyện huyền thoại tương tự liên quan đến thanh đao của Hạng Vũ.

Tây Sở Bá Vương Hạng Vũ được mệnh danh là cao thủ bậc nhất trong số các cao thủ võ thuật Trung Quốc. Ảnh Internet

Vào cuối triều đại Đông Hán, cũng chính là hơn 300 năm sau cái chết của Hạng Vũ, Hán Hoàn Đế tại vị. Vị Hán Hoàn Đế này chính là Hoàng đế trong “Hán Linh nhị đế” mà Gia Cát Lượng căm ghét viết trong cuốn “Xuất sư biểu” của ông. Vị Hán Hoàn đế này mê muội, chìm đắm trong hưởng lạc, triều chính mục nát, gian thần lộng hành, khiến đại Hán triều rơi vào bờ vực khủng hoảng và sụp đổ. Nhận thấy nhà Hán đang trong tình trạng lâm nguy, người Hồ ở khu vực tây bắc bắt đầu hành động, lăm le chiếm lấy giang sơn khu vực đồng bằng trung tâm.

Trong suốt chín năm, tộc Tiên Ti và người Khương đã liên minh lại với nhau. Họ liên tục tiến sâu vào vùng nội địa phía tây bắc, tấn công vào các quận huyện, quan chức địa phương sợ hãi, ngày đêm bẩm báo lên triều đình.

Khu vực Quan Trung phía tây bắc là căn cứ sản xuất lương thực quan trọng nhất của nhà Hán. Sự việc vô cùng nghiêm trọng, Hán Hoàn đế không dám khinh suất, vội vàng phái tướng Trương Hoán cầm quân đi chiến đấu với quân Tiên Ti ở phía tây bắc. Quân đội triều đình Đông Hán lúc này đã mục nát đến tận cùng, thậm chí đến các tướng cũng tham sống sợ chết, chỉ còn duy nhất một võ tướng, mỗi lần chiến đấu đều không quan tâm đến sống chết, hơn nữa còn biết cách dụng binh, cuối cùng giành được thắng lợi vô cùng vẻ vang, triệt để bình định được phản loạn, cứu triều đình Đông Hán đang trong tình trạng thoi thóp một bàn thua trông thấy.

Vị tướng này chính là nguồn gốc, người mở ra thời loạn Tam Quốc nổi tiếng trong lịch sử, Đổng Trác. Trong những năm đầu “khởi nghiệp”, Đổng Trác vì tham chiến rất nhiều trong các trận chiến ở khu vực tây bắc nên đã luyện được cho mình võ nghệ và lòng can đảm hơn người.

Lịch sử ghi chép lại rằng, Đổng Trác “lữ lực quá nhân, song đái lưỡng kiện, tả hữu trí xạ” (ý muốn nói Đổng Trác rất mạnh mẽ, sức mạnh hơn người, ông luôn mang bên yên ngựa hai bao cung tên, có thể vừa phi ngựa nước đại vừa giương hai cung lên bắn), được nhiều người gọi là mãnh tướng. Trận bình định phản tặc lần đó là một bước ngoặt trong cuộc đời của Đổng Trác, danh tiếng của Đổng Trác lên như diều gặp gió, từ một quân quan không có chút tiếng tăm gì, bỗng chốc trở thành danh tướng được triều đình trọng dụng.

Tạo hình Đổng Trác trong phim Tam quốc diễn nghĩa 2010. Ảnh Internet

Đổng Trác nhận thấy sức mạnh nhà Đông Hán đang ngày càng suy giảm, và dần nảy ra dã tâm, không cam lòng với địa vị hiện tại mà muốn thay thế nhà Hán. Vào năm 184 sau Công nguyên, khởi nghĩa Khăn Vàng nổ ra, năm thứ hai, Lương Châu xuất hiện phản loạn người Hồ. Đổng Trác nắm lấy cơ hội, lấy danh nghĩa chống lại cuộc nổi loạn, chiêu mộ binh sĩ để mở rộng sức mạnh, trở thành một đại quân phiệt thực sự. Đối với ý chỉ của triều đình, Đổng Trác hoàn toàn bỏ ngoài tai, không quan tâm, triều đình cũng chẳng thể làm gì được ông.

Năm 189 sau Công nguyên, Hán Linh Đế băng hà, đại tướng quân Hà Tiến và lực lượng hoạn quan đã chiến đấu quyết liệt để tranh giành quyền lực. Vì các hoạn quan đang kiểm soát tử cấm quân nên Hà Tiến vì muốn đã tăng cường sức mạnh cho mình đã bí mật phái người đến liên lạc với Đổng Trác.

Đổng Trác vừa nghe xong, trong lòng vui mừng, ngay lập tức dẫn hơn 100.000 tinh binh đánh vào Kinh sư. Vì thời điểm đó vẫn còn là giai đoạn đầu của Tam Quốc, phe cánh của các chư hầu khác như Tào Tháo, Lưu Bị hay Viên Thiệu đều chưa lớn mạnh, nên sức mạnh của Đổng Trác không ai địch nổi, trở thành bá chủ “hữu danh hữu thực” của Tam Quốc thời kỳ đầu, một tay che cả bầu trời, hô mưa gọi gió, thống lĩnh thiên hạ. Nhưng, cuối cùng, Đổng Trác cũng có một cái chết không hề êm đẹp gì, đúng như những gì đáng phải nhận được vì những việc mà ông làm khi còn sống.

Trước khi Đổng Trác dấy binh từng có một câu chuyện khá ly kỳ. Cha của Đổng Trác từng làm quan Huyện úy huyện Luân Thị đất Dĩnh Xuyên, sau khi bị cách chức, ông trở về quê nhà làm nông kiếm sống, Đổng Trác thời niên thiếu vì vậy cũng thường ra đồng để làm việc đồng áng.

Cuốn “Cổ kim đao kiếm lục” có ghi lại rằng Đổng Trác trong một lần canh tác đất đã vô tình đào một thanh đao. Sau khi cầm lên, Đổng Trác nhìn kỹ hơn, “tứ diện ẩn khởi tác sơn vân văn”, hơn nữa còn rất sắc bén “đoạn ngọc như nê” (chém ngọc như chém bùn).

Đổng Trác sau khi giàu có, có một lần gặp được vị danh sĩ trứ danh Thái Ung, liền hỏi Thái Ung về lai lịch của thanh đao này, Thái Ung xem xong, căn cứ hình dáng đao và sách cổ ghi chép đã nói rằng “thứ Hạng Vũ chi đao dã” (chính là thanh đao của Hạng Vũ). 

Đổng Trác tàn bạo nên kết oán với nhiều người. Ảnh Internet

Trong Tam quốc diễn nghĩa, Đổng Trác nổi tiếng là một gian thần, một quân phiệt tàn bạo, dù chỉ giữ chức Thứ sử Tịnh Châu những lợi dụng sự tiến cử của Viên Thiệu với Đại tướng quân Hà Tiến, người đang muốn tiêu diệt thế lực hoạn quan, Đổng Trác đã tiến quân vào kinh khống chế kinh thành, phế Hán Thiếu đế Lưu Biện, lập Hán Hiến đế Lưu Hiệp, làm lũng đoạn triều đình.

Khi đó, các lộ chư hầu trong nước, đứng đầu là Viên Thiệu, bất bình với sự chuyên quyền tàn độc của Trác, đã liên minh để thảo phạt Đổng Trác. Sau đó, các chư hầu xảy ra tranh chấp, dẫn đến bạo loạn. Đổng Trác bức ép Hiến Đế và triều đình bỏ Lạc Dương và Trường An, cố thủ ở đó.

Trong lúc này, Tư đồ Vương Doãn cùng Lã Bố (người thân cận của Đổng Trác) bày mưu giết Đổng Trác. Tháng 4 âm lịch năm 192, Đổng Trác vào cung yết kiến vua Hiến Đế. Khi ông vừa bước lên xe, con ngựa lồng lên hất ông ngã xuống đất, quần áo lấm bẩn hết. Ông trở về nhà thay quần áo, được một người vợ trẻ khuyên không nên đi nữa, nhưng ông không nghe theo, lại lên xe vào cung. Cuối cùng Đổng Trác không thể nào ngờ được mình lại bị Lã Bố giết chết.


Sau cái chết của Đổng Trác hai cận thần của ông là Lý Thôi và Quách Dĩ bị Tư đồ Vương Doãn ép đến đường cùng, nên đã bắt Hiến Đế làm con tin, giết chết Vương Doãn, thiên hạ trở nên đại loạn, các chư hầu theo đó nổi lên chiếm cứ mỗi phương.

Khải Minh biên tập
Nguồn: cafebiz

No comments: