Dục tri tuý ông lỗi lạc chi kỳ tài,
Dã tu nhất ẩm tam bách bôi.
Hữu thì thổ mạt tác vân vũ,
Diệc hoặc tranh nhãn vi phong lôi.
Lý Bạch bộ kình sự phi đản,
Bành Trạch thái cúc tâm bất quai.
Thế gian dục tuý tuý bất đắc,
Toán lai vạn sự câu trần ai.
醉吟 - 阮勸
Thơ say
(Dịch thơ: Nguyễn Văn Tú)
Trổ tài muốn học Ông say,
Thì ba trăm chén dốc ngay cạn bầu.
Dãi phụ mây nổi, mưa rào,
Có khi trừng mắt gió gào, sấm vang.
Bắt kình, Lí Bạch cũng thường,
Hái hoa Bành Trạch, lòng chừng cũng ưa.
Thế gian say đã được chưa?
Không say, đời cũng bằng thừa kể chi!
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Nguyễn Khuyến 阮勸 (1835-1909) tên thật là Nguyễn Thắng 阮勝, hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi, sinh ngày 15 tháng 2 năm 1835 tại quê ngoại làng Văn Khế, xã Hoàng Xá, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định. Quê nội của ông là làng Và, xã Trung Lương, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Mất ngày 5 tháng 2 năm 1909 tại Yên Đổ. Cha ông là Nguyễn Tông Khởi (1796-1853), thường gọi là cụ Mền Khởi, đỗ ba khoá tú tài, dạy học. Mẹ là Trần Thị Thoan (1799-1874), nguyên là con của Trần Công Trạc, từng đỗ tú tài thời Lê Mạt.
Thuở nhỏ, ông cùng Trần Bích San (người làng Vị Xuyên, đỗ Tam Nguyên năm 1864-1865) là bạn học ở trường cụ Hoàng giáp Phạm Văn Nghị. Nguyễn Khuyến nổi tiếng là một người thông minh, hiếu học. Năm 1864, Nguyễn Khuyến đỗ đầu cử nhân (tức Giải nguyên) trường Hà Nội. Năm sau (1865), ông trượt thi Hội nên phẫn chí, ở lại kinh đô học trường Quốc Tử Giám. Đến năm 1871, ông mới đỗ Hội Nguyên và Đình Nguyên (Hoàng giáp). Từ đó, Nguyễn Khuyến thường được gọi là Tam Nguyên Yên Đổ.
Nguồn: Thi Viện