Wednesday, July 2, 2025

NHỮNG CÂU HỎI CHƯA ĐƯỢC GIẢI MÃ VỀ VỤ ÁM SÁT MARTIN LUTHER KING

Gần 60 năm đã trôi qua nhưng vụ ám sát nhà lãnh đạo nhân quyền người Mỹ gốc Phi Martin Luther King Jr. với nhiều câu hỏi chưa được giải đáp thỏa đáng, vẫn thu hút sự quan tâm của nhiều người.

Martin Luther King Jr.

Biểu tượng của phong trào đòi quyền bình đẳng cho người da đen

Martin Luther King Jr. sinh năm 1929 tại thành phố Atlanta, bang Georgia, Mỹ, trong gia đình có cha là mục sư. Trước khi nhận bằng tiến sĩ tại Đại học Boston vào năm 1954, ông đã trở thành mục sư tại một nhà thờ ở bang Alabama, cái nôi của các cuộc vận động cho phong trào dân quyền trên toàn cầu sau này.

Khi làm mục sư ở Montgomery, thành phố thủ phủ bang Alabama, Luther King đã lãnh đạo phong trào tẩy chay xe buýt sau khi cô thợ may da màu Rosa Parks bị bắt vì từ chối nhường chỗ cho người da trắng. Ông từng bị bắt giam và chỉ được phóng thích khi Tòa án Tối cao Mỹ tuyên bố phân biệt chủng tộc trên xe buýt là vi phạm hiến pháp. 

Mục sư Martin Luther King Jr. lúc sinh thời. Ảnh: KeystoneUSA-Zuma

Trong hành trình đấu tranh cho dân quyền, Luther King đi khắp nơi để diễn thuyết, truyền cảm hứng và kêu gọi bình đẳng. Ngày 28/8/1963, bài diễn văn “I Have a Dream” của ông tại Washington đã gây tiếng vang lớn, khắc sâu giấc mơ về một nước Mỹ, nơi mọi đứa trẻ, không phân biệt màu da có thể nắm tay nhau như anh em. Thông điệp mạnh mẽ ấy góp phần thúc đẩy Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật Dân quyền năm 1964, chấm dứt tình trạng phân biệt đối xử. Cùng năm đó, Luther King trở thành người trẻ nhất được trao giải Nobel Hòa Bình, khẳng định con đường đấu tranh phi bạo lực của ông vì công bằng và hòa bình.

Vụ ám sát bất ngờ

Tuy nhiên, một biến cố khủng khiếp bất ngờ xảy ra, khiến các nỗ lực của vị mục sư đồng thời là nhà tranh đấu nhân quyền cho người Mỹ da đen trở thành ước mơ dang dở. Khoảng 18h01 chiều ngày 4/4/1968, Luther King bị ám sát khi đứng trên ban công khách sạn Lorraine ở Memphis, bang Tennessee, sắp sửa rời đi để dẫn đầu một cuộc tuần hành ủng hộ liên đoàn công nhân vệ sinh của người da đen tại Memphis.

Người dân đọc tin về vụ ám sát mục sư King. Cái chết của ông khiến toàn nước Mỹ rúng động, dấy lên nhiều cuộc biểu tình trên cả nước. Ngày 7/4, tổng thống Mỹ khi đó là ông Lyndon B. Johnson đã tuyên bố quốc tang trong một ngày.

Luther King bị một tay súng bắn trúng cằm. Viên đạn làm gãy xương hàm, sau đó xuyên qua đốt sống cổ và nằm lại ở phần cơ lưng bên trái. Ông được đưa vào bệnh viện St. Joseph để cấp cứu và phẫu thuật. Song, ông đã không qua khỏi và từ trần lúc 19h05 ngày 4/4, khi mới 39 tuổi.

Cái chết của Luther King gây chấn động nước Mỹ, châm ngòi cho hơn 100 cuộc biểu tình bạo động tại nhiều thành phố lớn suốt nhiều tuần lễ. Vô số nhà cửa và xe cộ bị đốt phá, trong khi các cuộc đụng độ giữa cảnh sát và người biểu tình khiến hàng trăm người thương vong.

Tổng thống Lyndon Johnson tuyên bố quốc tang dành cho Luther King vào ngày 7/4/1968. Tại Atlanta, hàng trăm nghìn người đã đến tiễn đưa Luther King, bày tỏ lòng sự tiếc thương và kính trọng dành cho ông.

Các nhà hoạt động da đen người Mỹ đến viếng mục sư King tại thành phố Memphis.

Lộ diện nghi phạm

Trước làn sóng phẫn nộ của cộng đồng người da màu và những tin đồn cho rằng Chính phủ Mỹ có liên quan đến vụ ám sát Luther King, Cục điều tra Liên bang (FBI) buộc phải nhanh chóng tìm ra kẻ thủ ác để xoa dịu dư luận.

Theo lời khai của một nhân chứng, vài giây sau khi nghe tiếng súng nổ, ông thấy có người chạy ra khỏi khu nhà trọ ở phía sau và đối diện với bãi đậu xe của khách sạn Lorraine. Cảnh sát đã tìm thấy một khẩu súng trường và một chiếc ống nhòm trên khu đất gần công viên giải trí Canipe trên đường South Main. Trên hai vật chứng này có dấu vân tay của một tên tội phạm đang vượt ngục tên James Earl Ray.

Vào ngày 8/6/1968, tức 2 tháng sau vụ ám sát, Ray bị bắt giữ tại sân bay Heathrow ở London khi làm thủ tục rời Anh để bay đến Brussels, Bỉ. Nhân viên bán vé phát hiện tên giả Ramon George Sneyd trên hộ chiếu, một cái tên có mặt trong danh sách theo dõi của cảnh sát Canada. Họ còn tìm thấy một hộ chiếu khác mang tên Harvey Lowmeyer, tên Ray đã dùng để mua khẩu súng gây án.

Cảnh sát đã bắt thủ phạm James Earl Ray tại sân bay Heathrow ở London khi anh ta cố gắng rời nước Anh bằng hộ chiếu giả.

Ngày 10/3/1969, Ray bị tuyên phạt 99 năm tù giam vì tội ám sát mục sư Luther King. Theo lời khuyên của luật sư Jack Kershaw, hắn đã nhận tội để tránh án tử hình. Tuy nhiên, chỉ 3 ngày sau, Ray bất ngờ kêu oan, với niềm tin nếu George Wallace, Thống đốc bang Alabama có quan điểm phân biệt chủng tộc, đắc cử tổng thống Mỹ, hắn sẽ được ân xá. Song, khi ứng viên tổng thống Lyndon B. Johnson chiến thắng, mọi hy vọng của Ray tan biến.

Năm 1977, Ray cùng 6 phạm nhân khác trốn khỏi nhà tù Peny Mountain ở bang Tennessee. 3 ngày sau, cả nhóm bị bắt lại và bản án dành cho Ray tăng lên thành 100 năm tù giam.

Thuyết âm mưu và những bí ẩn chưa có đáp án

Dù Ray qua đời ở tuổi 70 tại bệnh viện Memorial Columbia Nashville, bang Tennessee vì chứng viêm gan C vào ngày 23/4/1998, nhưng theo yêu cầu của gia đình mục sư Luther King, Tổng Chưởng lý Janet Reno đã ra lệnh điều tra lại vụ ám sát ông vào ngày 26/8 cùng năm.

Hai năm sau, Bộ Tư pháp Mỹ công bố báo cáo 150 trang, khẳng định không có âm mưu nào đứng sau. FBI cũng khẳng định Ray hành động một mình, nhưng nhiều câu hỏi vẫn chưa được giải đáp, như nguồn tiền giúp hắn trốn chạy từ Mỹ qua Canada, Mexico và châu Âu. Ray từng khai một người tên Raul mới là kẻ chủ mưu. Trong khi, con gái Luther King cũng bày tỏ nghi ngờ về một âm mưu lớn hơn, có thể liên quan đến chính phủ và mafia.

Năm 2000, luật sư Barry Kowalski được giao tái điều tra và vẫn giữ nguyên kết luận rằng Ray là thủ phạm duy nhất và không có âm mưu nào sau vụ ám sát. Song, với gia đình Luther King, sự thật dường như vẫn còn bị che giấu, nhất là khi có thông tin cho thấy Giám đốc FBI Edgar Hoover từng ra lệnh nghe lén ông từ năm 1963. Ngoài ra, mục sư James Lawson, người thường xuyên thăm Ray sau khi hắn bị kết án, kể Ray từng khẳng định một người tên Raul đã hướng dẫn hắn mua súng và chính người này mới là kẻ nổ súng. Cũng theo Ray, lúc ông Luther King bị bắn, hắn đang ở một trạm xăng.

Đài tưởng niệm của mục sư Martin Luther King Jr. ở thủ đô Washington. Chính phủ Mỹ chọn thứ 2 của tuần thứ 3 trong tháng 1 là Ngày Martin Luther King Jr., một ngày lễ chính thức của cả nước, để ghi nhớ những nỗ lực không mệt mỏi của ông trong các cuộc đấu tranh bất bạo động vì quyền lợi nhân dân.

Theo BBC, vẫn còn một số câu hỏi khác chưa được giải đáp liên quan đến vụ án. Ví dụ bằng cách nào, Ray, vốn chỉ là một tên trộm vặt, lại có thể bắn một phát chính xác để hạ sát mục sư Luther King như chuyên gia bắn tỉa; hay tại sao sau khi gây án, Ray lại cẩu thả vứt súng và một số vật dụng khác, được bọc trong khăn trải giường ngay trên vỉa hè ở Memphis.

Trong một cuộc họp nội các hôm 11/4 vừa qua, Giám đốc Tình báo quốc gia Mỹ Tulsi Gabbard thông báo sẽ công bố loạt hồ sơ giải mật cuối cùng về vụ ám sát mục sư Luther King “trong vài ngày tới”, theo sắc lệnh hồi tháng Một của Tổng thống Donald Trump. Tuy nhiên, một số ý kiến bình luận cho rằng những tài liệu này khó có khả năng chứa thông tin gây chấn động.

Thanh Thảo / Theo: VietNamNet



Tuesday, July 1, 2025

NHỮNG LỄ DIỄU BINH, DUYỆT BINH HOÀNH TRÁNG NHẤT TRONG LỊCH SỬ THẾ GIỚI

Trên thế giới, các lễ diễu binh hay duyệt binh lớn thường được tổ chức vào các ngày lễ trọng đại hoặc kỷ niệm sự kiện quân sự. Những hoạt động phô trương sức mạnh kiểu này đã được tổ chức ít nhất từ thời Lưỡng Hà cổ đại.

Lễ duyệt binh của quân đội Mỹ năm 1865

Quân đội Sherman diễu hành trong cuộc duyệt binh lớn vào ngày 24 tháng 5 năm 1865

Sau khi Liên minh miền Nam đầu hàng để chấm dứt nội chiến Mỹ và Tổng thống Abraham Lincoln bị ám sát, Tổng thống Andrew Johnson đã ra lệnh tổ chức một lễ duyệt binh lớn để vinh danh những người lính đã chiến thắng trong cuộc nội chiến. Cuộc duyệt binh kéo dài 2 ngày với sự tham gia của 145.000 binh sĩ thuộc quân đội Potomac, quân đội Georgia và quân đội Tennessee. Đây được xem là cuộc duyệt binh lớn nhất trong lịch sử nhân loại và lớn nhất trong lịch sử nước Mỹ.

Lễ duyệt binh nhân Ngày Quốc khánh Pháp

Ảnh: Paris guide

Kể từ năm 1880, Pháp đã tổ chức lễ duyệt binh thường niên để chào mừng Ngày Quốc khánh. Lễ duyệt binh ở Pháp là một trong những sự kiện hàng năm lâu đời nhất thế giới. Vào một số năm, các quân đội nước ngoài cũng được mời tham gia.

Lễ khải hoàn của quân đội La Mã

Theo trang History, khoảng năm 223 trước Công nguyên, tướng quân La Mã Marcus Claudius Marcellus đã dẫn đội quân của mình tới Rome sau khi đánh bại người Gauls. Marcellus trở thành một trong những chỉ huy La Mã được ca ngợi nhất sau khi đánh bại tướng của đối phương trong trận chiến tay đôi.

Diễu binh mừng chiến thắng trong Thế chiến I

Một năm sau khi Hiệp định đình chiến được ký kết để chấm dứt Thế chiến thứ nhất, vào tháng 9/1919, Tướng John J.Pershing, chỉ huy Lực lượng Viễn chinh Mỹ đã dẫn đầu 25.000 quân diễu binh tại Đại lộ số 5 ở thành phố New York, Mỹ. Một tuần sau, họ lại diễu binh ở thủ đô Washington.

Trung Quốc duyệt binh mừng ngày thành lập quân đội

Ảnh: Xinhua

Năm 2017, để kỷ niệm 90 năm ngày thành lập quân đội Trung Quốc, nước này đã tổ chức một cuộc duyệt binh quy mô lớn tại Bắc Kinh. Tham gia lễ duyệt binh có 12.000 quân nhân, 570 phương tiện và 129 máy bay phản lực.

Duyệt binh mừng Ngày Chiến thắng ở Nga 

Ảnh: Xinhua

Năm 1945, sau thất bại của Đức Quốc xã, các lực lượng vũ trang Liên Xô đã tổ chức lễ duyệt binh dài nhất, lớn nhất tại Quảng trường Đỏ ở thủ đô Moscow với sự tham gia của 40.000 lính Hồng quân, 1.850 xe quân sự cùng các thiết bị quân sự khác. Cuộc duyệt binh kéo dài hơn 2 giờ vào ngày 24/6/1945, hơn một tháng sau khi phát xít Đức đầu hàng.

Triều Tiên duyệt binh mừng Ngày Quốc khánhDuyệt binh Triều Tiên

Ảnh: KCNA

Các cuộc duyệt binh ở Triều Tiên được coi là một trong những sự kiện thu hút nhất. Tất cả các cuộc duyệt binh ở đất nước Đông Bắc Á này thường mang tính quốc gia và diễn ra tại Quảng trường Kim Nhật Thành ở thủ đô Bình Nhưỡng.

Triều Tiên thường tổ chức các lễ duyệt binh nhân ngày thành lập quân đội, ngày sinh của các cố lãnh đạo Kim Jong Il và Kim Nhật Thành, ngày Quốc khánh... quy tụ hàng chục nghìn binh sĩ, xe tăng, pháo và máy bay tham gia.

Hoài Linh / Theo: vietnamnet.vn

TÂN DI Ổ - VƯƠNG DUY


Tân di ổ - Vương Duy

Mộc mạt phù dung hoa,
Sơn trung phát hồng ngạc.
Giản hộ tịch vô nhân,
Phân phân khai thả lạc.

Tân di 辛夷 là hoa mộc lan, còn ổ 塢 là vùng đất trũng thấp, bốn phía xung quanh cao. Như vậy tân di ổ 辛夷塢 nên dịch là "thung lũng mộc lan". Các sách chú giải Vương Duy, chẳng hạn như Vương Duy tập hiệu chú 王維集校注 của Trần Thiết Dân, Trung Hoa thư cục 1997 (trang 423) cũng đều hiểu như vậy, và thung lũng hoa này đương thời là một cảnh đẹp ở nơi Vương Duy ẩn cư, biệt thự Võng Xuyên 輞川 đất Lam Điền 藍田 (ở tỉnh Thiểm Tây ngày nay).


辛夷塢 - 王維

木末芙蓉花
山中發紅萼
澗戶寂無人
紛紛開且落


Thung lũng mộc lan
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Đài hồng đẹp tựa cánh sen.
Giữa lưng chừng núi, bon chen sắc hồng.
Non khe vắng lặng ai trông.
Hoa nở hoa rụng, mất công hoa chờ.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Duy 王維 (699-759), tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm. Do đó, Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Vương Duy tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Năm 19 tuổi, Vương Duy đến Trường An, được Kỳ Vương Lý Phạm mến tài; đỗ đầu kỳ thi của phủ Kinh Triệu. Năm 21 tuổi, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm Ðại Nhạc thừa rồi bị giáng làm tham quân ở Tế Châu. Sau nhân Trương Cửu Linh làm Trung Thư lệnh, ông được mời về làm Hữu Thập di, Giám sát ngự sử, rồi thăng làm Lại bộ lang trung. Trong thời gian này, thanh danh của ông và em là Vương Tấn vang dậy Trường An. Sau đó đến lượt Trương Cửu Linh lại bị biếm, Vương Duy đi sứ ngoài biên ải và ở Lương Châu một thời gian. Khi An Lộc Sơn chiếm kinh thành, Vương Duy bị bức bách làm chức Cấp sự trung, sau khi bị câu lưu tại chùa Bồ Ðề. Một hôm An Lộc Sơn mở đại yến tại ao Ngưng Bích, có các nhạc công của Lê viên tấu nhạc, khiến mọi người cảm xúc rơi lệ. Vương Duy nghe bài ấy cảm thương làm bài "Ngưng Bích trì".
 
Sau khi loạn yên, Vương Duy được tha tội và phục chức, chính nhờ bài thơ này, và nhờ có Vương Tấn, đang làm hình bộ thượng lang, xin giải chức chuộc tội cho anh. Về sau, Vương Duy làm đến chức Thượng thư hữu thừa.
 
Ông giỏi văn nghệ, ưa tiêu dao, nên tuy làm việc với triều đình nhưng vẫn thích nơi có cảnh quan yên tĩnh. Ông được gần vua, các cận thần và được quý trọng vì am hiểu văn chương nghệ thuật. Song trong lòng đã sẵn hướng về thiên nhiên nên thơ ông tả nhiều thú điền viên sơn thủy. Ông có một trang viên riêng cho mình, ở đó ông gảy đàn, thổi sáo và làm thi phú.
Ông để lại khoảng 400 bài thơ, trong đó có những bài thơ thời trẻ, bộc lộ tâm trạng của lớp tri thức có tài có chí không được dùng, sống trong cảnh hàn vi, còn bọn công tử quý tộc dốt nát lại giàu có, rong chơi xa hoa, trụy lạc.


Những tháng năm ở biên cương, thơ ông có tình điệu khẳng khái, hiên ngang, đề cao lòng yêu nước, tinh thần hăng hái của những người lính canh giữ biên cương, sẵn lòng vì một triều đại đang mở mang, hướng tới thịnh vượng (Sứ chí tái thượng, Lũng đầu ngâm, Lão tướng hành,...)
 
Thơ Vương Duy có một phần nổi bật quan trọng đó là thơ thiên nhiên. Do thú ưa thích một lối sống thanh tao, phong nhã, tâm hồn ông hoà nhập với cảnh sống thanh bình của làng quê yên ấm. Thơ ông miêu tả núi sông hùng vĩ, cảnh làm ruộng, gặt hái, lấy sự chất phác đôn hậu của đời sống dân chúng cần mẫn trên đồng ruộng làm nền. Thơ ông còn đắm trong tư tưởng hỷ xả từ bi của đạo Phật.
 
Thơ Vương Duy có phong cách riêng, có chất hùng tráng và thâm trầm. Tài thơ của ông giàu có ở cách thể hiện những đề tài khác nhau, việc miêu tả thiên nhiên tinh tế và đầy sống động. Ngôn ngữ thơ cô đọng và điêu luyện, phù hợp với những ý tứ sâu sắc, truyền cảm.
Ngoài tài thơ ra, Vương Duy còn sành âm nhạc, giỏi thư pháp và hội họa. Tranh sơn thủy của ông mở đầu cho lối họa Nam Tông. Người ta thường khen ông là: "Trong thơ có họa, trong họa có thơ" (Thi trung hữu hoạ, hoạ trung hữu thi).
 
Ðối với Phật giáo đương thời, Vương Duy có địa vị cao trong Nam phái thiền tông. Người đời sau gọi ông là Thi Phật.

Nguồn: Thi Viện



CÔNG DỤNG CỦA YẾN SÀO CÓ THẦN THÁNH NHƯ QUẢNG CÁO?

Yến sào là thực phẩm quý giá, giàu dinh dưỡng, có thể mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe nếu dùng đúng cách, đúng đối tượng.


Từ xa xưa, yến sào đã được xếp vào hàng cao lương mỹ vị, là món ăn chỉ dành cho vua chúa, giới quý tộc nhờ giá trị dinh dưỡng cao và sự quý hiếm trong tự nhiên.

Ngày nay, khi công nghệ nuôi yến phát triển và việc tiếp cận tổ yến trở nên phổ biến hơn, sản phẩm này được tung hô như một loại thần dược có thể bồi bổ toàn diện cho mọi lứa tuổi.

Tuy nhiên, liệu những lời quảng cáo hoa mỹ ấy có cơ sở khoa học không? Hay đó chỉ là một phần trong chiến lược tiếp thị đầy khôn khéo.

Yến sào - thượng phẩm từ thiên nhiên

Yến sào là tổ của chim yến, được hình thành từ nước bọt tiết ra trong quá trình loài chim này làm tổ. Quá trình tạo tổ thường kéo dài từ 30 đến 45 ngày, mỗi tổ nặng khoảng 7 – 15g. Trước đây, việc khai thác yến chủ yếu thực hiện trong hang động tự nhiên, nguy hiểm và hiếm có, nên tổ yến rất quý giá. Hiện nay, nhờ công nghệ nuôi chim yến trong nhà, nguồn cung tổ yến đã dồi dào hơn, nhưng giá trị của yến sào vẫn ở mức cao, dao động từ vài triệu đến hàng chục triệu đồng/kg.

Theo các phân tích dinh dưỡng hiện đại, tổ yến chứa khoảng 45 – 55% protein (dễ hấp thụ); 18 loại axit amin, trong đó có nhiều axit amin thiết yếu mà cơ thể không tự tổng hợp được như valine, leucine, isoleucine, threonine; 7 – 10% carbohydrate; Khoáng chất như sắt, kẽm, kali, canxi, magie, phốt pho; Các yếu tố tăng trưởng biểu bì (EGF) có vai trò trong tái tạo mô và tế bào.

Đặc biệt, yến sào còn chứa axit sialic thành phần quan trọng trong cấu trúc tế bào thần kinh, giúp tăng cường trí nhớ và glycoprotein hỗ trợ miễn dịch.


Công dụng của yến sào, khoa học nói gì?

Tăng cường sức đề kháng

Một số nghiên cứu cho thấy các hợp chất trong yến sào có khả năng kích thích sản sinh tế bào miễn dịch, giúp cơ thể tăng cường khả năng phòng chống vi khuẩn, virus. Điều này lý giải tại sao tổ yến thường được dùng để bồi bổ cho người mới ốm dậy, người cao tuổi, phụ nữ sau sinh…

Hỗ trợ phục hồi sau bệnh

Với hàm lượng dinh dưỡng cao, dễ tiêu hóa, yến sào được xem là thực phẩm lý tưởng cho người đang suy nhược, sau phẫu thuật, hay bệnh nhân ung thư đang điều trị hóa chất. Nhiều bệnh viện đã đưa tổ yến vào thực đơn dinh dưỡng cho bệnh nhân trong quá trình hồi phục.

Làm đẹp và chống lão hóa

Glycoprotein và EGF trong yến sào có vai trò quan trọng trong việc tái tạo da, cải thiện độ đàn hồi và dưỡng ẩm. Vì thế, nhiều phụ nữ dùng tổ yến với mục đích làm đẹp từ bên trong. Một số hãng mỹ phẩm cũng sử dụng chiết xuất tổ yến trong các sản phẩm chống lão hóa, làm trắng da.

Cải thiện trí nhớ

Axit sialic vốn đóng vai trò trong phát triển hệ thần kinh và trí não, có mặt trong yến sào với tỷ lệ đáng kể. Một vài nghiên cứu sơ bộ trên động vật cho thấy yến sào có thể cải thiện khả năng học tập và trí nhớ, tuy nhiên, các thử nghiệm lâm sàng trên người vẫn chưa đầy đủ để khẳng định chắc chắn hiệu quả này.


Những hiểu lầm, quảng cáo thổi phồng

Bên cạnh những giá trị dinh dưỡng có thật, thị trường hiện nay tràn lan những lời quảng cáo phóng đại, thậm chí sai sự thật về công dụng của yến sào như: Trẻ uống yến sẽ cao lớn vượt trội; Người bị ung thư dùng yến sẽ khỏi bệnh; Yến sào giúp “trẻ mãi không già”, “đẹp không cần thẩm mỹ”...

Những tuyên bố này chưa có cơ sở khoa học để xác nhận. Tổ yến là thực phẩm bổ dưỡng, nhưng không thể thay thế thuốc và không có tác dụng điều trị bệnh như nhiều người lầm tưởng.

Không phải ai cũng nên dùng yến sào

Dù yến sào bổ dưỡng, nhưng không phải ai cũng phù hợp:

Trẻ dưới 1 tuổi hệ tiêu hóa chưa hoàn thiện, sử dụng dễ dị ứng.

Người có cơ địa dị ứng: Dễ phản ứng với protein lạ.

Người bị tiểu đường: Một số sản phẩm yến chưng có đường tiềm ẩn nguy cơ tăng đường huyết.

Người bệnh gout hoặc có vấn đề chuyển hóa đạm: Cần cẩn trọng do hàm lượng protein cao.

Ngoài ra, lạm dụng yến sào trong chế độ ăn có thể gây mất cân bằng dinh dưỡng, dẫn đến chán ăn các thực phẩm khác.


Nguy cơ từ hàng giả và sản phẩm trôi nổi

Trên thị trường, không ít sản phẩm yến sào bị làm giả bằng cách pha tạp gelatin, lòng trắng trứng, thạch agar, hoặc dùng hóa chất tẩy trắng, tạo mùi. Việc sử dụng yến giả không chỉ gây lãng phí tiền bạc mà còn tiềm ẩn rủi ro cho sức khỏe.

Người tiêu dùng nên chọn mua tại các thương hiệu uy tín, có chứng nhận nguồn gốc, vệ sinh an toàn thực phẩm và có mã QR truy xuất rõ ràng. Đừng vì ham rẻ mà đánh cược sức khỏe của bản thân và gia đình.

Trương Hiền / Theo: Kiến Thức

Monday, June 30, 2025

KHÁM PHÁ TỈNH SƠN ĐÔNG, TRUNG QUỐC

Sơn Đông (山東) là tỉnh ven biển phía đông của Trung Quốc, là một trong những tỉnh có nền kinh tế hàng đầu, Sơn Đông còn có nền văn hóa đa dạng, du lịch phát triển và giáo dục luôn nằm trong top đầu Trung Quốc. Cùng du học VIMISS tìm hiểu, khám phá tỉnh Sơn Đông Trung Quốc nhé!


Tổng quan về tỉnh Sơn Đông

Sơn Đông nằm ở hạ lưu sông Hoàng Hà, là một tỉnh ven biển ở miền đông Trung Quốc. Giáp với bốn tỉnh Hà Bắc, Hà Nam , An Huy và Giang Tô từ Bắc tới Nam. Địa hình chủ yếu là đồng bằng, trải dài qua 5 hệ thống sông lớn. Sơn Đông bao gồm hai phần: phần nội địa và bán đảo nằm giữa biển Bột Hải và biển Hoàng Hải.

Sơn Đông có diện tích đất liền là 157.100 km2 và diện tích biển liền kề là 170.000 km2. Có dân số chỉ hơn 100 triệu người.Sơn Đông có thẩm quyền đối với 17 thành phố cấp tỉnh và 137 huyện, thành phố cấp huyện hoặc quận. Tỉnh lỵ là Tế Nam.

Dân số thường trú đến cuối năm 2023 là 101,2297 triệu người, các phương ngữ Sơn Đông được chia thành ba cộng đồng quan thoại khác nhau: Quan thoại Hà Bắc-Lục, Quan thoại Trung Nguyên và Quan thoại Giao-Liêu.


Có năm tôn giáo chính ở tỉnh Sơn Đông : Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Công giáo và Tin Lành. Phật giáo và Đạo giáo có lịch sử hơn một nghìn năm ở Sơn Đông. Hồi giáo chủ yếu phát triển sau khi người Hồi giáo di cư đến Sơn Đông vào thế kỷ 13. Công giáo và Kitô giáo lan rộng nhanh chóng chủ yếu sau Chiến tranh nha phiến.

Nhờ có cảng biển, các thành phố Thanh Đảo, Nhật Chiếu, Yên Đài và Uy Hải có thể dễ dàng tiếp cận từ biển. Kinh tế năng động và phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây. Cảng Thanh Đảo là một cảng đa năng lớn và là cảng lớn nhất miền bắc Trung Quốc về thương mại quốc tế và lưu lượng container. Đây là một trung tâm vận chuyển được công nhận ở Đông Bắc Á.

Sơn Đông cũng là một trong những cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, Sơn Đông đã tạo nên một lịch sử lừng lẫy và nền văn hóa vang danh từ rất lâu trước khi xuất hiện Khổng Tử (551-479 TCN).


Sơn Đông là nơi mà các ký tự Trung Quốc đầu tiên được tạo ra dưới dạng chữ tượng hình. Cũng là nơi khai sinh ra đồ gốm và lụa Trung Quốc. Đây là nơi có học viện đầu tiên của Trung Quốc về tranh luận triết học. Đoạn Vạn Lý Trường Thành lâu đời nhất cũng như bốn di sản thế giới được UNESCO công nhận, cụ thể là Núi Thái Sơn, Đền và Nghĩa trang Khổng Tử và Biệt thự gia tộc Kong ở Khúc Phụ, Vạn Lý Trường Thành của Tề và đoạn Đại Vận Hà Sơn Đông.

Nhiều triết gia Trung Quốc lỗi lạc, bao gồm Khổng Tử, Tôn Tử (544-496 TCN), Mặc Tử (khoảng 468-391 TCN) và Mạnh Tử (khoảng 372-289 TCN), đều sinh ra ở Sơn Đông, tất cả đều đóng vai trò to lớn trong việc định hình nền văn hóa Tề-Lỗ đặc biệt. Trường phái tư tưởng mang tên Khổng Tử, trụ cột của truyền thống trí thức Trung Quốc, có ảnh hưởng đáng kể trên toàn cầu cho đến ngày nay.

Sơn Đông cũng đã tiếp thu những tinh hoa của các nền văn hóa và nền văn minh khác và phát triển nên nền văn hóa sống động của riêng mình.

Địa điểm du lịch nổi tiếng tại Sơn Đông

Mọt số địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút lượng lớn khách du lịch đến Sơn Đông như:

Khu thắng cảnh mùa xuân


Khu thắng cảnh mùa xuân nằm ở trung tâm thành phố Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông. Khu thắng cảnh bao gồm: một hào nước, một hồ Đại Minh và ba con suối (Suối Bảo Đồ, Suối Hắc Hổ và Suối Ngũ Long Đàm), bốn công viên (Công viên suối Bảo Đồ, Công viên Huân Thành, Công viên Ngũ Long Đàm, Khu thắng cảnh hồ Đại Minh).

Đây là một điểm thu hút khách du lịch tích hợp cảnh quan thiên nhiên độc đáo. Khu thắng cảnh lấy Suối Bảo Đồ, con suối lớn nhất thế giới, làm cốt lõi. Dòng suối chảy thành sông rồi hòa vào hồ.

Núi Ngàn Phật


Công viên núi Ngàn Phật nằm ở phía nam thành phố Tế Nam. Vì có vô số tượng phật trên núi nên nó được gọi là núi Ngàn Phật, cao 285 mét so với mực nước biển. Đây là một trong ba danh lam thắng cảnh lớn ở Tế Nam cùng với suối Bảo Đồ và hồ Đại Minh.

Thành phố bia quốc tế Thanh Đảo


Nằm ở vị trí đắc địa của Khu du lịch quốc gia 石老人, đây là công viên giải trí cao cấp với chủ đề văn hóa bia và giải trí quy mô lớn. Đây là thành phố bia quốc tế lớn nhất ở châu Á và là nơi tổ chức Lễ hội bia quốc tế Thanh Đảo hàng năm. Bước vào cổng thành phố bia, bạn có thể nhìn thấy những tác phẩm điêu khắc mang tính biểu tượng cao lớn, có quảng trường với hàng ngàn người, là địa điểm thường trực của Lễ hội bia quốc tế. Có một sân khấu ngoài trời và hàng nghìn chỗ ngồi trên bãi cỏ rộng của quảng trường. Các con đường dẫn từ quảng trường đến các quận khác nhau đều được dát đá cẩm thạch nhiều màu sắc.

Vạn Lý Trường Thành


Vạn Lý Trường Thành, được xây dựng lần đầu tiên vào thời Xuân Thu và hoàn thành vào thời Chiến Quốc, trải dài từ bờ sông Hoàng Hà ở phía tây đến bờ biển Hoàng Hải ở phía đông, uốn khúc qua mười ba quận ở Sơn Đông, và dài hơn một ngàn dặm. Vạn Lý Trường Thành là một trong những Vạn Lý Trường Thành được nhiều quốc gia xây dựng trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc có nhiều di tích được bảo vệ hơn.

Phố cổ Thanh Châu


Phố cổ Thanh Châu có rất nhiều tòa nhà cổ được bảo tồn tốt từ thời nhà Minh (1368-1644) và nhà Thanh (1644-1911). Nơi đây có các buổi trình diễn thủ công và biểu diễn âm nhạc truyền thống. Thông qua đó bạn có thể tìm hiểu về nghệ thuật dân gian của Sơn Đông và trải nghiệm văn hóa địa phương

Ẩm thực Sơn Đông có gì đặc biệt?

Ẩm thực Sơn Đông là một phần quan trọng của văn hóa ẩm thực Trung Quốc ,là một trong tám nền ẩm thực chính của Trung Quốc , đại diện cho ẩm thực miền Bắc.

Sự khác biệt về địa lý trong tỉnh rất lớn, dẫn đến việc hình thành 2 hệ thống chính: ẩm thực Dao Đông ven biển, ẩm thực Tế Nam nội địa.

Địa hình chủ yếu của Sơn Đông là đồng bằng, đất đai được phù sa bồi đắp, do đó, văn hóa ẩm thực Sơn Đông Trung Quốc nổi bật với các sản phẩm làm từ lúa mì, rau củ quả đa dạng và chất lượng cao. Người Sơn Đông sử dụng nhiều gia vị cho món ăn của mình, đặc biệt là hành và tỏi.

Các món ăn của Sơn Đông chủ yếu thiên về các món chiên, nướng và hấp. Chú trọng màu sắc của món ăn và được trang trí vô cùng bắt mắt .

Một số món ăn nổi bật có thể kể đến như:

Gà hầm Đức Châu


Đây là một đặc sản của vùng Sơn Đông. Gà được hầm với mật ong, thì là, đường và các nguyên liệu khác trong vài giờ. Thịt gà được hầm chín tới, gà vẫn còn được giữ hình dạng nguyên con. Thịt đã mềm, dễ dàng tách khỏi xương.

Cá chua ngọt


Cá chép chua ngọt có màu đỏ tươi, bên ngoài có vị ngọt, chua và giòn. Cá chép có vẻ như đang bơi cao hơn, đây là điềm lành ở Trung Quốc.

Hải sâm xào hành lá


Hải sâm là một trong những đặc sản của Sơn Đông. Hành lá có thể giúp khử mùi tanh của hải sâm một cách hiệu quả và tăng thêm hương vị đặc biệt.

Ruột hầm sốt nâu


Lòng heo được luộc sơ qua trong nước, sau đó nhồi hơn mười loại nguyên liệu vào và om với gia vị trên lửa nhỏ, hương vị mềm mại.

Tôm kho dầu


Nguyên liệu chính là tôm lớn từ Vịnh Bột Hải ở Sơn Đông. Tôm được xào với gia vị như nước tương và rượu nấu ăn. Nó có vị tươi, umami, ngọt và mặn.

Đậu phụ Nhất Phẩm


Đậu phụ Nhất Phẩm là món đậu phụ thượng hạng, cao cấp nhất. Người đầu bếp phải chọn ra loại đậu phụ có cốt vừa ăn, thơm và phải dày. Kế đó, các loại nguyên liệu như sò điệp, hải sâm, măng, thịt lợn, rau củ,... được om chín tới, dậy mùi. Sau đó được nhồi vào giữa miếng đậu phụ và thả vào hầm trong nước gà.

Theo: vimiss.vn



"NẾU ĐI HẾT BIỂN...", CÓ NHÌN RA NHAU?

Nơi bên kia của biển, ta thấy được những lời kể thẳng và thật, thoát ly mọi định chế kiểm duyệt và tự kiểm duyệt, về cuộc ly hương của những người con đất Việt: đó không chỉ là sự phân ly về mặt địa lý, còn là và sự ly tán của lòng người.

Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Thời Văn.

Đạo diễn Trần Văn Thủy được công chúng trong và ngoài nước biết đến qua các bộ phim tài liệu ghi dấu ấn như “Chuyện tử tế” và “Hà Nội trong mắt ai”. Ấy vậy, không nhiều người biết ông còn là một tác giả sách được yêu thích với những thiên hồi ký đậm chất văn chương như Chuyện nghề của Thủy hay Trong đống tro tàn. Tuy nhiên tác phẩm gây tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông có lẽ là tập ký sự Nếu đi hết biển… do nhà xuất bản Thời Văn tại Mỹ xuất bản lần đầu năm 2003.

Trần Văn Thủy sinh ra và lớn lên ở Nam Định, mảnh đất thuộc về “bên thắng cuộc”. Ông từng được chính quyền cử vào miền Nam từ năm 1966 làm phóng viên chiến trường, trực tiếp tham gia tác nghiệp, quay phim tại các vùng chiến địa. Vì lẽ đó, vị đạo diễn người Nam Định có nhiều năm tận mắt chứng kiến hiện thực của khói lửa binh đao và nỗi niềm núi sông chia cắt.

Từ những trải nghiệm đau đớn ấy, trong Nếu đi hết biển… ông đã đảm nhận vai trò nhà báo, trực tiếp phỏng vấn một số trí thức thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại và một học giả người Mỹ về những ký ức lẫn góc nhìn về cuộc chiến, về hoà giải dân tộc, về văn chương và quan điểm chính trị.


Có thể nói, đây là những cuộc trò chuyện có giá trị vì đã tạo nên cuộc đối thoại thẳng thắn, cởi mở, giữa tác giả với những người ở bên kia chiến tuyến một thời, những người đã từng sống trong lòng chế độ “ngụy” trước đây, và bây giờ là những công dân Mỹ. Họ, những người bị ám ảnh bởi cuộc chiến ở nhiều mức độ, nay đã lựa chọn thẳng thắn đối diện với sự thật, đối diện với người phỏng vấn mang xuất thân “kẻ thù” để trải lòng thổ lộ, dù sự thật có phũ phàng và chua chát đến mức nào.

Cuốn sách lấy tựa đề từ một cuộc trò chuyện thời ấu thơ giữa tác giả với người vú nuôi ngày nào, trong một lần ông hỏi bà rằng: “Nếu đi hết biển thì đến đâu hả thím?” Người vú nuôi im lặng một lúc rồi buồn bã đáp: “Đi hết biển, đến đâu thì thím không biết.” Câu nói của người vú nuôi năm ấy đã gây ám ảnh trong tâm thức tác giả suốt nhiều năm liền, khi chứng kiến và nghe tin hàng loạt đồng bào đã chọn lao thân ra biển lớn để tìm kiếm tương lai hy vọng ở bên kia bờ tuyệt vọng.

Những nhân vật mà đạo diễn Thủy phỏng vấn đều đã chọn rời khỏi tổ quốc. Họ đều là những thuyền nhân, những người vượt biên, những người liều mình “đi hết biển” trong khổ đau và sợ hãi. Giờ đây, khi đã “đi hết biển” và định cư ở nước ngoài, họ vẫn mang tấm lòng hướng về quê hương, đất nước, về những đồng bào, người thân vẫn còn ở Việt Nam.

Một điều rất đáng chú ý mà tác giả đề cập, đó là đề xuất cần nhìn nhận lại sự chia rẽ hai miền Nam – Bắc. Đây là vấn đề của ý thức hệ chứ không phải đơn thuần địa lý. Và thực tế, rất nhiều chính khách, sĩ quan hay người dân Việt Nam Cộng hòa, như Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên, Trần Kim Tuyến, v.v. đều là người di cư từ Bắc. Nhiều nhân vật được phỏng vấn cũng có gia đình gốc Bắc. Và rất nhiều những lãnh đạo chính quyền Cộng sản quân phiệt, điển hình là Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng lại là người miền Nam và gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng.

Những cuộc hội ngộ gia đình sau năm 1975 của những thành viên ở hai bờ chiến tuyến vẫn nhuốm màu cay đắng. Như câu chuyện của bố con Cao Xuân Huy giữa những éo le của lịch sử đã gây xúc động cho nhiều người: Trước năm 1975, cha và con ở hai mặt trận đối đầu. Năm 1975, người cha thuộc bên thắng trận, còn người con ở bên thua cuộc nên bị trừng phạt. Người cha mới chỉ gặp con duy nhất một lần khi mới lọt lòng, nay phải vào thăm con trong nhà tù cải tạo. Và ngay chính tác giả cũng có những người bạn “ngụy” phải xa quê vì những tai ương của lịch sử.

Cuốn sách cho thấy, vấn đề hoà giải bị ngăn trở bởi nhiều yếu tố từ hai phía, cả trong nước và hải ngoại (cụ thể là ở Mỹ). Hai bên đều nghi ngờ, e ngại bên kia sẽ tuyên truyền, khiến cho người trẻ xa rời những “giá trị đích thực của truyền thống văn hoá Việt Nam” theo mỗi bên quan niệm.


Nhưng có những thực tế cay đắng cần nhìn nhận trong cách hành xử đầy cực đoan của mỗi phía. Trong nước, chế độ của người thắng cuộc không chìa tay hoà giải mà còn khiến sự chia rẽ càng sâu sắc bằng một loạt những động thái: trại cải tạo, đổi tiền, kinh tế mới, chế độ khẩu phần, phân biệt đối xử, v.v. Tại nước ngoài vẫn có những người “bị dẫn dắt vào cơn mê lộ của thù hận” không những không cổ vũ mà còn phản đối chuyện hoà giải dân tộc. Những tổ chức chính trị hải ngoại bài xích những người biểu diễn các văn hoá phẩm trong nước.

Nhà văn Trương Vũ phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với tác giả – đạo diễn Trần Văn Thủy:

“Một điều khôi hài là báo chí Việt Nam có thể đăng một hình cựu chiến binh miền Bắc trong bộ quân phục của quân đội nhân dân ôm một anh cựu chiến Mỹ trong bộ quân phục của quân đội Mỹ, nhưng không biết bao giờ chúng ta mới thấy một hình ảnh như vậy giữa một anh lính cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam với một anh cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà? Hai bên từng chiến đấu, mà cầm thứ vũ khí đều không phải do chính họ sản xuất.”

Theo tác giả và nhà văn Nguyễn Mộng Giác, hành động biểu diễn lập trường – thể hiện khuynh hướng chính trị – một cách thái quá, là một căn bệnh trầm kha đến từ cả hai phía. Ở cộng đồng hải ngoại cũng tồn tại cả những mặt trận và chiến dịch chống cộng một cách mù quáng.

Một điều ta có thể nhận thấy, từ trong thực tế cũng như từ trong từng trang viết và trang kể trước mặt, rằng hoà giải dân tộc không chỉ là câu chuyện của chính quyền và người dân, mà còn là giữa những người dân thường với nhau. Cuốn sách này chính là đại biểu cho nỗ lực của một nhóm trí thức đã suy ngẫm, đã nhìn nhận về con người trong ánh nhìn rộng rãi và cởi mở hơn. Nhiều trong số họ đã bị cầm tù trước khi đến Mỹ, đã từng mang nỗi căm hận với kẻ thắng trận, nhưng vẫn biết phân biệt rạch ròi người dân và chính quyền.

Để có được sự hoà giải cần có lòng can đảm dám nhìn thẳng và nói thẳng về sự thật của cuộc chiến huynh đệ tương tàn phi nghĩa và đau thương, và cần có sự bao dung chấp nhận quan điểm đa dạng của mỗi người, mỗi hoàn cảnh. Quan trọng nhất vẫn là sự sẵn lòng giúp đỡ nhau làm những người tử tế. Thực tế đã chứng minh rằng: rất nhiều con người ở hai phía sau bao biến cố vẫn giữ trọn vẹn nhân cách và luôn sẵn lòng hoà giải.

Bên cạnh câu chuyện về đường hòa giải vẫn còn nhiều gian truân phía trước, tác phẩm cũng bàn về tính độc lập của nhà văn trong việc tự do biểu đạt quan điểm, chính kiến của mình. Từ những khảo sát và phỏng vấn nghiêm túc, đạo diễn Thủy đã cho thấy, thực ra ở cả hai phía đều chịu áp lực từ những lực lượng kiểm duyệt. Nhưng những rào cản ấy chưa bao giờ là thành trì không thể vượt qua, như nhà văn Hoàng Khởi Phong, vốn là sĩ quan của Việt Nam Cộng hòa phát biểu:

“Tự do hay không là chính ở người viết, hãy cứ nhìn thật sâu vào cõi lòng mình, không è dè, không huý kỵ và phải viết cho thật hay, thật tới. Đừng bao giờ viết mà lúc nào cũng nơm nớp có ông chính uỷ ngồi chễm trệ trước mặt hay ông cộng đồng lấp ló ở phía sau. Nếu ở trong nước thì chẳng thà im lặng không sáng tác như Văn Cao, còn hơn là viết ngàn bài ca ‘cúng cụ’. Còn ở hải ngoại thì không bị một ai dí súng vào màng tang bắt viết thì hà cớ gì mà phải vừa viết vừa cảnh giác đề phòng cộng đồng biểu tình chống đối.”

Dẹp bỏ những thành trì quan điểm cùng những chính sách kiểm duyệt đầy định kiến cũng chính là cánh cổng đưa đến sự hòa giải, như ý kiến mà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nêu lên. Rằng, chính quyền hiện tại cần xóa bỏ cách gọi miệt thị “ngụy”, còn những người hải ngoại cần chấp nhận một thực tế là nước Việt Nam trên bản đồ thế giới ngày nay đã khác xưa rất nhiều.

Những cá nhân mang quan điểm cực đoan trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng dựng nên một cái khung đóng sẵn cho chính họ, cũng hô vang những khẩu hiệu đầy gai góc và nghi kỵ khi nói đến những vấn đề nhạy cảm cả trong đời sống chính trị lẫn văn chương.

Đó là biểu hiện của việc chống cộng một cách mù quáng, không khác tình huống các cây viết trong nước trước đây thường bị buộc phải nói xấu miền Nam, rằng miền Nam không làm nên trò trống gì, để được duyệt là có lập trường và có “tính đảng”. Cả hai bên họ đều mắc phải chứng định nghĩa “quốc gia” theo sự yêu ghét của cá nhân hay của cộng đồng cùng ý thức chính trị với họ.

Đến đây, hình ảnh biển cả một lần nữa trở lại với chúng ta, với bóng dáng của đạo diễn Thủy đang nỗ lực cất bước: đi hết biển, cũng là vượt qua đại dương của định kiến, của hận thù, của sự hẹp hòi dai dẳng và cũ kĩ. Nơi bên kia của biển, ta thấy được những lời kể, những chia sẻ thẳng và thật, thoát ly mọi định chế kiểm duyệt và tự kiểm duyệt, về sự ly hương của những người con đất Việt, nhưng không chỉ là sự phân ly về mặt địa lý, còn là sự ly tán của lòng người.


Đâu đó, trên một bãi vắng, biển đã đi hết, thuyền đã buông neo, lửng lơ trong tâm thức người đọc có thể là những dòng suy niệm đầy băn khoăn, trăn trở của tác giả, rằng:

“Nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình. Tôi không biết trong lịch sử thịnh, suy của đất nước tôi, có thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán lòng người sâu thẳm, dẫn đến việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không. Nhưng tôi biết rất rõ, không ít người việt xa xứ qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi mà cuối cùng không thể trở về quê mình làng mình được…”

Đoan Trang
Theo: luatkhoa.com

NHẤT HỘC CHÂU - MAI PHI


NHẤT HỘC CHÂU - MAI PHI

Liễu diệp nga mi cửu bất miêu,
Tàn trang hoà lệ ố hồng tiêu.
Trường Môn tự thị vô sơ tẩy,
Hà tất trân châu úy tịch liêu.


一斛珠 - 梅妃

柳葉蛾眉久不描
殘妝和淚污紅綃
長門自是無梳洗
何必珍珠慰寂寥


Một hộc châu 
(Dịch thơ: Lê Nam Thắng)

Chẳng tô mày liễu đã lâu
Áo xưa nay đã hoen màu lệ rơi
Trường Môn bụi phủ khắp nơi
Ngọc châu sao đổi được đời cô đơn

Mai Phi vốn được vua sủng ái nhưng sau khi Dương Quý Phi vào cung và được sủng ái thì rất ghen tuông, vì vậy dù rất thương Mai Phi quan hệ giữa vua và nàng chỉ là lén lút. Một lần nghĩ thương Mai Phi, vua bí mật tặng nàng 10 đấu ngọc. Nàng không nhận mà làm bài này gửi vua. Vua đặt tên cho bài này là "Nhất hộc châu" (1 hộc bằng 10 đấu).


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Mai Phi (?-755) là một phi tần được sủng ái của Đường Huyền Tông. Bà tên thật là Giang Thái Tần (江采蘋), sinh ra ở Mai Hoa thôn được Cao Lực Sĩ tuyển vào hậu cung phục vụ nhà vua. Thái Tần có sắc dáng mảnh dẻ xinh đẹp, lại thông thạo văn thơ, cầm kỳ thi hoạ, Huyền Tông vừa trông thấy lập tức mê mẩn, ngày đêm triệu hạnh. Bà đặc biệt yêu thích hoa mai nên vua ban hiệu là Mai Phi.

Mai Phi cũng giỏi ca múa, bà đã tự sáng tác một điệu vũ tên "Kinh Hồng" rồi biểu diễn trước mặt Huyền Tông. Mai Phi thân hình mảnh khảnh, vũ đạo lại uyển chuyển khiến Huyền Tông rất thích.

Sử sách không ghi rõ năm sinh lẫn năm nhập cung của bà, chỉ biết bà nhập cung sớm hơn quý phi họ Dương của vua Huyền Tông. Sau này, Võ Huệ Phi - một ái phi khác của vua qua đời vì bệnh, vua ngày đêm tiếc thương, chẳng buồn đi lại chốn hậu cung, chỉ lo lập đài Tập Linh cầu siêu cúng vái cho vong hồn Huệ Phi được sớm siêu thăng. Một ngày nọ, Cao Lực Sĩ phát hiện vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thọ Vương Phi Dương Ngọc Hoàn, vợ của hoàng tử thứ 18 Thọ Vương Lý Mạo (con trai của Huyền Tông và Huệ Phi), bèn lén mật tấu với vua. Nhìn thấy dung nhan quốc sắc thiên hương của con dâu, vua liền quên ngay Huệ Phi đã mất mà sắc lập Dương Ngọc Hoàn làm Quý Phi, sủng ái không ai bằng.

Có được Dương Quý Phi, Huyền Tông càng không màng đến hậu cung có hơn ba ngàn giai lệ. Từ đó Mai Phi bị thất sủng. Một lần, có sứ thần dâng lên đôi trân châu, nhà vua chợt nhớ Mai Phi, lén gọi người hầu đem đến tặng bà. Mai Phi buồn rầu không nhận gửi trả lại cùng với 1 bài thơ này.

Về sau, năm 755, An Lộc Sơn khởi loạn, Huyền Tông phải rời kinh đô chỉ mang theo Dương Quý Phi, bỏ lại Mai Phi bị giết trong cơn binh lửa.

Nguồn: Thi Viện