Tuesday, April 30, 2024

BÍ ẨN LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ KHOA HỌC THẾ KỶ 20: TẠI SAO PHÁT XÍT ĐỨC BẤT NGỜ DỪNG KHÔNG CHẾ TẠO BOM NGUYÊN TỬ?

Nếu tranh chấp Bohr-Einstein là cuộc tranh luận nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học thế kỷ XX, thì vai trò của Heisenberg trong Thế chiến II có lẽ là đứng hai. Câu đố lớn nhất trong lịch sử khoa học thế kỷ thứ hai mươi. Không biết có bao nhiêu nhà sử học đã tốn bao nhiêu năng lượng và giấy mực vào chuyện này, liên quan đến vô số vụ tranh luận xuyên biên giới. Thậm chí, bây giờ người ta vẫn tiếp tục lên tiếng phản đối.

Ảnh: soundofhope.org

Mặc dù Viện Niels Bohr của Đan Mạch đã công bố tài liệu về cuộc gặp giữa nhà khoa học Đức Heisenberg và nhà khoa học Đan Mạch Niels Bohr, nhưng những gì họ nói trong cuộc gặp vẫn là một bí ẩn. Sau đó, người ta phát hiện ra một bức thư do Bohr viết cho các đồng nghiệp, hy vọng sẽ giải đáp được bí ẩn này trong lịch sử khoa học và công nghệ thế kỷ 20.

Werner Heisenberg là nhà vật lý lý thuyết nổi tiếng người Đức và là người sáng lập ra cơ học lượng tử. Đóng góp của ông cho vật lý hiện đại chỉ đứng sau Einstein và người thầy của ông, Bohr. Nhưng đóng góp của ông cho sự tồn vong của nhân loại trong thế chiến thứ II là không thể đo lường, nhân loại cần phải biết ơn ông rất nhiều, tại sao nói như vậy?

Lý thuyết cơ học lượng tử mà ông đi tiên phong không chỉ thay đổi nhận thức của con người về thế giới khách quan mà còn phát triển các thiết bị hiện đại như laze, bóng bán dẫn và kính hiển vi điện tử, đóng một vai trò cực kỳ quan trọng trong sự tiến bộ của khoa học hiện đại.

Werner Heisenberg (Bundesarchiv, Bild 183-R57262 /CC-BY-SA 3.0). Ảnh: soundofhope.org

Heisenberg sinh ra tại Würzburg, Bavaria, Đức năm 1901. Cha ông là nhà ngôn ngữ học và sử học vĩ đại của Đông La Mã, ông nội là hiệu trưởng một trường cấp 2 nên ông sinh ra trong một gia đình danh tiếng. Heisenberg rất quan tâm đến toán học từ khi còn trẻ, bị ám ảnh bởi phép tính vi phân và phép tính tích phân. Sau đó, ông được nhận vào Đại học Munich, và dưới sự lãnh đạo của giáo viên Bohr, ông bắt đầu nghiên cứu vật lý của mình.

Heisenberg, giống như Einstein, có tài năng rất cao về vật lý lý thuyết. Ở tuổi 24, ông và người bạn đồng hành Bonn đã thiết lập một hệ thống toán học hoàn chỉnh của cơ học lượng tử, hệ thống này trở thành cơ học ma trận. Sau đó, ông đề xuất “nguyên lý bất định” và các lý thuyết vật lý khác, và đoạt giải Nobel Vật lý năm 1932.

Vào tháng 12 năm 1938, các nhà vật lý người Đức Hahn và Stresmann đã phát hiện ra phản ứng phân hạch hạt nhân nặng, mang đến khái niệm vũ khí hạt nhân, gây chấn động thế giới. Tháng 1 năm 1939, Đức Quốc xã khởi động dự án nghiên cứu và phát triển bom nguyên tử có tên mã là “Câu lạc bộ Uranium”. Dựa trên đóng góp to lớn của Heisenberg cho vật lý, Heisenberg được chỉ định làm trưởng dự án.

Nghiên cứu về bom nguyên tử của Đức bị đình chỉ vào năm 1942. Lý do là vào ngày 4 tháng 6 năm 1942, Heisenberg được triệu tập để báo cáo với Albert Speer, Bộ trưởng Bộ Vũ trang của Đức, về triển vọng chuyển đổi nghiên cứu của dự án Uranverein sang phát triển vũ khí hạt nhân. Trong cuộc họp, Heisenberg nói với Speer rằng không thể chế tạo một quả bom trước năm 1945, do qua tính toán thấy rằng cần hàng chục tấn uranium-235 cho vụ nổ bom nguyên tử, nhưng ở trình độ công nghiệp thời đó, không thể chiết xuất được nhiều uranium-235 như vậy, nó sẽ đòi hỏi nguồn lực tiền tệ và số lượng nhân sự khổng lồ. Vì vậy sau đó Hitler đã ra lệnh đình chỉ nghiên cứu bom nguyên tử và bắt đầu phát triển tên lửa.

Đó là thời điểm quan trọng khi Đức quốc xã tàn sát người Do Thái, nhiều nhà vật lý trong đó có Einstein và Bohr đã chạy sang Hoa Kỳ. Sau khi đến Mỹ, Einstein đã viết thư cho các Tổng thống Roosevelt, nói rằng Đức đang phát triển bom nguyên tử.

Bộ Chiến tranh Hoa Kỳ bắt đầu triển khai kế hoạch phát triển bom nguyên tử sử dụng phản ứng phân hạch hạt nhân vào tháng 6 năm 1942, còn được gọi là Dự án Manhattan (Manhattan Project). Dự án quy tụ những nhà khoa học hạt nhân giỏi nhất của các nước phương Tây (trừ Đức Quốc xã) lúc bấy giờ, đồng thời huy động hơn 100.000 người tham gia dự án, mất 3 năm và tiêu tốn 2 tỷ đô la Mỹ, được thực hiện thành công vào ngày 16/7/1945. Vụ nổ hạt nhân đầu tiên trên thế giới và hai quả bom nguyên tử thực tế đã được sản xuất theo kế hoạch, và hai quả được thả xuống Nhật Bản, và sau đó Nhật Bản đầu hàng.

Dự án Manhattan (Miền công cộng). Ảnh: soundofhope.org

Nhiều người cho là Heisenberg đã mắc lỗi ở mức độ thấp trong tính toán, không tính đến tốc độ khuếch tán nơtron, dẫn đến việc cần rất nhiều uranium-235. Trên thực tế, chỉ cần chục kg uranium-235 để kích nổ một quả bom nguyên tử. Nhận định đó có thể không hẳn đã đúng.

Sau vụ ném bom nguyên tử thành công ở Hoa Kỳ, Hahn, người phát hiện ra sự phân hạch nặng uranium, đã rất phấn khích và bắt đầu chế nhạo Heisenberg là một nhà vật lý hạng hai. Nhưng Heisenberg nói trong một tuyên bố với thế giới bên ngoài rằng ông không muốn Đức Quốc xã kiểm soát bom nguyên tử, và rằng ông đã cố tình phạm sai lầm. Tuyên bố của ông không chỉ giành được hình ảnh của một anh hùng, mà còn duy trì vị thế của mình trong vật lý.

Nhưng vào thời điểm đó, nhiều nhà khoa học vẫn đứng dậy và cho rằng tuyên bố của Heidelberg hoàn toàn là một nhận định muộn màng, và Gudschmidt, người phụ trách Dự án Manhattan, là một trong số đó. Sau đó, cả hai bắt đầu lời qua tiếng lại trên tạp chí trong nhiều năm.

Heisenberg qua đời tại Munich vào tháng 2 năm 1976. Cuộc tranh cãi về bí ẩn của “Heisenberg” vẫn chưa dừng lại cho đến năm 2002, một bức thư bám đầy bụi trong nhiều năm được xuất bản, chính thức vén màn bí ẩn về “Heisenberg”.

Bức thư này được để lại cho gia đình ông trước khi Bohr qua đời và dự định sẽ được công bố với thế giới 50 năm sau khi ông qua đời.

Sinh ra ở Đan Mạch, Bohr là một nhà vật lý vĩ đại người Đan Mạch. Ông đã có bốn cuộc tranh luận lớn nổi tiếng với Einstein, địa vị và uy tín của ông trong ngành vật lý rất cao.

Sau khi Đức Quốc xã chiếm đóng Đan Mạch, Bohr được yêu cầu mạnh mẽ tham gia vào quá trình phát triển bom nguyên tử, nhưng Bohr biết mức độ thiệt hại của bom nguyên tử, và ông không đồng ý. Vì lý do này, học trò của ông, Heisenberg đã đến Đan Mạch để tìm ông vào năm 1941.

Cuối cùng, Bohr đã không khuất phục trước Đức quốc xã, năm 1943, chế độ Đức quốc xã nóng nảy bắt Bohr, với sự giúp đỡ của bạn bè, Bohr trốn sang Anh Quốc rồi sang Mỹ, cuối cùng tham gia “Dự án Manhattan.

Vào cuối Thế chiến II năm 1945, Bohr trở về Đan Mạch, nhưng ông chưa bao giờ đưa ra bất kỳ bình luận nào về bí ẩn của Heisenberg.

Tháng 1 năm 1962, Bohr qua đời. Thế giới tin rằng cái chết của Boll đã lấy đi câu trả lời cuối cùng cho bí ẩn của Heisenberg.

Bohr (miền công cộng). Ảnh: soundofhope.org

May mắn thay, Bohr đã viết một bức thư cho gia đình trước khi chết, bức thư ban đầu dự định sẽ được tung ra thế giới sau 50 năm. Tuy nhiên, họ vẫn mở nó ra trước 10 năm và được công bố với thế giới vào năm 2002.

Sau khi bức thư này được đăng tải, nó đã gây náo động cả thế giới. Bức thư viết: Hóa ra Heisenberg đến gặp Bohr vào năm 1941 để thuyết phục ông từ chối tham gia dự án. Heisenberg nói với Bohr rằng việc nghiên cứu bom nguyên tử của Đức đang diễn ra rất suôn sẻ, và vào thời điểm này từ chối là lựa chọn tốt nhất.

Vào ngày 6 tháng 8 năm 1945, các nhà khoa học tại Farm Hall biết được thông tin từ các phương tiện truyền thông rằng Hoa Kỳ đã thả một quả bom nguyên tử ở Hiroshima, Nhật Bản. Heisenberg, cùng với các nhà vật lý khác được thực tập tại Farm Hall bao gồm Otto Hahn và Carl Friedrich von Weizsacker, vui mừng vì Đồng minh đã giành chiến thắng trong Thế chiến II. Heisenberg nói với các nhà khoa học khác rằng ông chưa bao giờ nghĩ đến bom, chỉ có một đống nguyên tử để tạo ra năng lượng.

Vấn đề đạo đức của việc tạo ra một quả bom cho Đức Quốc xã cũng được thảo luận. Heisenberg tỏ ra thận trọng khi thảo luận về vấn đề này. Về sự thất bại của chương trình chế tạo bom nguyên tử của Đức, Heisenberg nhận xét, “Chúng tôi sẽ không có đủ can đảm và đạo đức để đề nghị Chính phủ vào mùa xuân năm 1942 rằng họ nên tuyển dụng 120.000 người chỉ để xây dựng.

Như vậy có thể nói, chính Heisenberg và đội nhóm của ông đã chủ động loại bỏ chương trình sản xuất vũ khí hạt nhân của phát xít Đức, trong giờ phút định mệnh của nhân loại ông đã có một hành động vô cùng cao cả, ông và đội nhóm của mình đã bỏ qua danh vọng của bản thân để lương tâm lên tiếng. Là một người Cơ đốc giáo sùng đạo, có lẽ Chúa đã cho ông sự sáng suốt tuyệt vời đó. Việc quân Đồng Minh giành chiến thắng trong chiến tranh thế thứ hai đã ngăn chặn được mưu đồ thống trị và hủy diệt thế giới của phát xít Đức, đặc biệt nếu phát xít Đức là quốc gia sản xuất thành công bom nguyên tử đầu tiên trên thế giới, thì không thể biết nhân loại sẽ đi về đâu.

Kiên Tấn / Theo: soundofhope
Link tham khảo:

Monday, April 29, 2024

BOÒNG BOONG XI CÔ LA... BÁNH TÂY, SỮA HỘT GÀ...

Có xa mới biết trái cây Việt hết sức phong phú, mùi vị đặc biệt. Xoài ở Úc không thiếu, nhập từ Thái Lan, tự trồng trên Queensland. Khi đến mùa, xoài hạ giá A$3 – 4/kg, chua hay ngọt tùy hên xui. Xoài Úc vỏ vàng ươm đỏ phía cuống, to như quả bưởi.

Chợ trái cây ở Sài Gòn, Việt Nam. Ảnh: Alexandra Schuler/picture alliance via Getty Images

Tôi đón taxi về đến nhà đã khuya, anh chị đem trái cây ra mời, tôi đã làm một bụng trên máy bay dù thức ăn dở ẹc, no ngang nên lắc đầu nguầy nguậy.

– Vậy ăn xoài đi – Ông anh đẩy cả dao cả đĩa cho tôi. Từ chối sao được. Đành ăn cho cả nhà vui.

Quả xoài thuôn thuôn, dài bằng nửa bàn tay, vàng tươi. Cắn miếng xoài giữa hai hàm răng, bỗng nhiên nín thở. Má ơi! Lâu lắm rồi mới ngửi thấy mùi xoài Cát thơm thế, thơm đến mức nuốt được cả mùi thơm vào cổ họng, lại ngọt nữa. Tuyệt vời!

Thật đó! Trái cây xứ mình mùi nào ra mùi đó, từ chuối, na, măng cụt…

Á à! Bao lâu rồi tôi mới được ăn quả măng cụt nho nhỏ như trái banh Ping Pong, dùng hai ngón tay bóp một vòng lớp vỏ dày, vỏ nứt ra, bật nắp, lớp ruột trắng phau với mấy múi thịt lộ ra, múi thịt không hột, cứ ngoạm một miếng hết một trái, nhai nhai, mút mút, mật ngọt ứa ra. Tuyệt cú mèo!

Ảnh: Godong/Universal Images Group via Getty Images

Xúc động hơn cả là nhà anh chị có chùm boòng boong, quả bầu bầu. Ai còn nhớ quả boòng boong không nhỉ? Riêng tôi đã quên boòng boong từ đời tám hoánh. Hình như mình chỉ ăn boòng boong hồi học cấp 1, người ta bán trước cổng trường, những thứ vặt vãnh rẻ tiền để dụ con nít hay là quà của bà nội những khi bà về chơi. Người lớn chả ăn thứ quả bé tẹo này, đừng nói đến chuyện đem boòng boong đi cúng bái hay biếu xén.

Hồi đói cơm rách áo, cái gì bỏ miệng được đều quý, đến gạo đỏ còn ngon nói gì đến Boòng Boong nhưng em thuộc diện ưu tiên bét sau gạo củi mắm muối, mỡ đường, dần dà boòng boong trôi vào quên lãng. Đến lúc kinh tế khá lên, chả mấy khi thấy chợ búa bán boòng boong, trái cây tôi mua về thường là chuối, đu đủ, dưa hấu…Với tôi, boòng boong tiệt chủng từ dạo ấy.

Gần hai mươi năm xa quê hương, trong đầu đã biến mất thứ quả bầu bầu này, vậy mà hôm nay trên bàn anh chị, chùm boòng boong chi chít trái lớn bé được bày vào đĩa men trắng đàng hoàng, khi ăn phải lấy dao bóc vỏ.


Wow, boòng boong quay lại với tư thế trịnh trọng ghê chưa!

Hồi nhỏ xíu, giờ chơi, tôi cầm chùm boòng boong năm sáu quả trên tay, mấy đứa bạn xúm lại xin, cả đám nhe răng cắn cuống boòng boong cái bụp, lủng một lỗ rồi dùng tay xé lớp vỏ mềm thành từng mảnh, nhớ là tay dơ lắm nhưng vẫn bỏ boòng boong vào mồm nhai nhỏm nhẻm, hột nào to, chúng tôi phun phèo phèo xuống đất.

Đã sống với quá khứ thì sống cho trọn, cho đúng bài bản. Tôi bứt một quả boòng boong trên đĩa, cắn cái bụp và dùng móng tay xé vỏ (lần này tay sạch đàng hoàng nha) hối hả lủm quả boòng boong như hối hả Rewind đoạn phim của nửa thế kỷ trước, không biết mình nhớ được mùi vị đến đâu… Đúng! Đúng cái mùi thơm thơm đặc trưng, miếng nước chua chua ngọt ngọt muôn thuở của boòng boong đây mà. boòng boong thời đại mới ngọt nhiều hơn chua hèn chi em lên hương, ngự chễm chệ trên bàn, trẻ con giờ đừng mơ boòng boong bán trước cổng trường nhé, đắt lắm đấy.

Một thứ tôi quyết tâm ăn cho bằng được nữa là mít.

Việt Nam là xứ nóng, mít có quanh năm chỉ đắt hơn chuối, mùa hè ăn mít đã nhất, la liệt, rẻ bèo. Miền quê Sydney mít đắt như vàng, thèm quá thì mua mít đông lạnh, nhạt mùi, thịt nhão mà nhâm nhi. Thỉnh thoảng chợ bán mít tươi, xẻ miếng nhỏ, xơ đặc nghẹt, múi lơ thơ, họ cân cả vỏ bán mười mấy đồng một ký, bấm bụng mua mà xót ruột nên mười mấy năm qua, tôi chỉ ăn mít tươi hai ba lần.

Cho nên…tôi quyết về Sài Gòn ăn mít trả thù.

Ảnh: Towfiqu barbhuiya/Unsplash

Nhìn múi mít dày, tròn ủm, ráo nước, vàng ươm mà thổn thức, đặc biệt xơ mít lơ thơ vài cọng, còn lại những múi là múi, tha hồ xé ăn. Mít tươi thơm nức mũi, thịt mít giòn sựt sựt, đã gì đâu! Nghe đồn Việt Nam không trồng mít Tố Nữ nữa vì hiệu quả kinh tế kém. Buồn! mít Nghệ, mít Dừa ngon thật nhưng ngọt và thơm sao bằng mít Tố Nữ? Đặc biệt, để ăn mít Tố Nữ, chỉ cần lấy dao rạch một đường ngoài vỏ, múi mít dính chùm trên cuống, cầm cuống kéo một phát là lôi hết múi ra khỏi xơ xiếc, ta cứ thế rứt từng múi mà lủm, không lo nhựa dính tay, thịt mít tươm mật ngọt lịm… Vậy mà mít Tố Nữ bị xếp vào loại lỗi thời, cơ khổ!

Sầu riêng có thêm vài giống mới, ăn dẻo dẻo, khô, ngọt, cắn miếng nào ra miếng ấy (tên gì quên mất rồi) ngon! Sầu riêng vẫn đắt nhưng không đắt đến nỗi chỉ đại gia mới dám đụng tới. Nếm miếng sầu riêng tươi quả là ngây ngất nhưng sầu riêng không làm tôi xúc động như boòng boong vì ít ra, dù đắt chợ Úc vẫn bán rải rác. Măng cụt hiếm hoi hơn và họ chỉ bán quả to, hột nhiều nên chùm boòng boong và quả măng cụt bé xinh tôi được ăn trong ngày về Việt Nam làm tôi xao xuyến ghê lắm.

Ảnh: Unsplash

Mắc cười nhất là boòng boong làm tôi nhớ đến hình ảnh đám con nít túm tụm ngoài đầu ngõ, chúng hát thế này:

“ Boòng Boong xi cô la”

“ Bánh tây sữa hột gà”

“ Dầu cù là”

“ Mẹc xi”

Bài vè chả có nghĩa gì cả nhưng con nít mà, cần gì ngữ nghĩa, cả đám hát thì mình cũng phải biết bài đó mà hát theo, vần điệu thế kia đủ hay rồi.

Ôi cái thuở ấu thơ và thứ trái cây vớ vẩn…

Nguyễn Đình Phượng Uyển
Theo: saigonnhonews

HẠ NHẬT TUYỆT CÚ - LÝ THANH CHIẾU


Hạ nhật tuyệt cú - Lý Thanh Chiếu

Sinh đương tác nhân kiệt,
Tử diệc vi quỷ hùng.
Chí kim tư Hạng Vũ,
Bất khẳng quá Giang Đông.


夏日絕句 - 李清照

生當作人傑
死亦為鬼雄
至今思項羽
不肯過江東


Bài tuyệt cú ngày hè

Sống là người hào kiệt
Chết thành ma anh hùng
Nay còn nhớ Hạng Vũ
Không chịu qua Giang Đông


Ghi chú:

Lý Thanh Chiếu làm bài này sau khi xuống nam, ca ngợi Hạng Vũ “Không chịu qua Giang Đông”, ý chê trách vua tôi nhà Tống, yên bề một xó, không chịu lo tính việc khôi phục.

Nguồn: Thi Viện



MÁY DÒ ĐỘNG ĐẤT TRUNG QUỐC CỔ ĐẠI ĐƯỢC PHÁT MINH CÁCH ĐÂY 2,000 NĂM ĐÃ THẬT SỰ THÀNH CÔNG!

Mặc dù chúng ta vẫn chưa thể dự đoán chính xác các trận động đất, nhưng chúng ta đã tiến một bước dài trong việc phát hiện, ghi lại và đo lường các cơn địa chấn. Nhiều người không nhận ra rằng quá trình này đã bắt đầu gần 2000 năm trước, với sự phát minh ra Địa chấn kế đầu tiên vào năm 132 sau Công nguyên bởi một nhà phát minh người Trung Quốc tên là Trương Hành. Thiết bị này có độ chính xác đáng kể trong việc phát hiện động đất từ ​​xa và không dựa vào rung chuyển hoặc chuyển động ở vị trí đặt thiết bị.


Người Trung Quốc cổ đại không cho rằng động đất là do sự dịch chuyển của các mảng kiến ​​tạo trong vỏ Trái đất. Thay vào đó, người ta giải thích rằng, chúng là sự xáo trộn của âm và dương vũ trụ, cùng với sự không hài lòng của thiên đàng với những hành vi đã gây ra (hoặc sự bất bình của người dân chung) mà triều đại cầm quyền hiện tại gây ra. Người Trung Quốc cổ đại tin rằng các sự kiện địa chấn là những dấu hiệu quan trọng từ thiên Thượng, điều quan trọng là các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải được cảnh báo về những trận động đất xảy ra ở bất kỳ đâu trong vương quốc của họ.

Trương Hành: Nhà phát minh cổ đại

Trương Hành là một nhà thiên văn học, toán học, kỹ sư, nhà địa lý và nhà phát minh, sống vào thời nhà Hán (25 – 220 sau Công Nguyên). Ông nổi tiếng với việc phát minh ra quả cầu chạy bằng năng lượng nước đầu tiên trên thế giới để quan sát thiên văn, cải tiến đồng hồ nước và ghi chép về 2.500 ngôi sao trong danh mục sao rời. Ông cũng được cho là người đã phát minh ra đồng hồ đo đường đầu tiên.

Nhưng phát minh tạo ra sóng xung kích lớn nhất là máy dò động đất đầu tiên trên thế giới. Theo Sách Hậu Hán Thư (biên soạn bởi Phạm Diệp vào thế kỷ thứ 5), phát hiện động đất Trương Hành đã có thể xác định hướng của một trận động đất hàng trăm dặm.

Địa chấn kế của Trương Hành là một con tàu khổng lồ bằng đồng, giống như một chiếc samovar. Là một cái bình làm bằng kim loại và có thể đun nóng hoặc trữ nước có đường kính 1.8m. Tám con rồng quay mặt xuống dọc theo bên ngoài thùng, đánh dấu các hướng la bàn chính. Trong miệng mỗi con rồng là một quả cầu nhỏ bằng đồng. Bên dưới những con rồng là tám con cóc bằng đồng, miệng há rộng để nhận những quả bóng. Thiết bị của ông cũng bao gồm một chốt thẳng đứng đi qua một khe trong tay quay, một thiết bị bắt, một trục trên hình chiếu, một dây treo treo con lắc, một phần đính kèm cho dây treo và một thanh ngang đỡ con lắc, phát minh này không có nghĩa lý gì kỳ công!

Cơ chế chính xác khiến một quả bóng rơi xuống trong trường hợp động đất vẫn chưa được biết rõ. Một giả thuyết cho rằng một thanh mảnh được đặt lỏng lẻo xuống giữa thùng. Một trận động đất sẽ làm cho cây gậy lật úp theo hướng của cơn địa chấn, khiến một trong những con rồng há miệng và nhả quả cầu đồng. Âm thanh của quả bóng đập vào một trong tám con cóc sẽ cảnh báo những người quan sát về trận động đất và sẽ cho biết một dấu hiệu sơ bộ về hướng xuất phát của trận động đất.


138 SCN: Phát hiện động đất!

Vào năm 138 sau Công nguyên, âm thanh của quả bóng đồng rơi đã gây ra sự chấn động trong tất cả các quan chức trong hoàng cung. Không ai tin rằng phát minh này thực sự hoạt động. Theo phương hướng mà con rồng thả quả cầu định hướng, người ta xác định rằng trận động đất đã xảy ra ở phía tây Lạc Dương, thành phố thủ đô. Vì không ai cảm nhận được bất cứ điều gì ở Lạc Dương thích hợp, nên mọi người nghi ngờ. Tuy nhiên, vài ngày sau, một người đưa tin từ vùng Tây Long (ngày nay, tỉnh Tây Nam Cam Túc), phía tây Lạc Dương, báo rằng đã có một trận động đất ở đó. Vì nó xảy ra đúng vào thời điểm máy đo địa chấn được kích hoạt, mọi người đã rất ấn tượng về cụ của Trương Hành.

Năm 2005, một số chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực của Viện Hàn lâm Khoa học Trung Quốc, Bảo tàng Quốc gia, và Cục Địa chấn Trung Quốc đã cố gắng tái tạo lại thiết bị của Trương Hành. Hình dáng của nó trùng khớp với những miêu tả trong các tư liệu lịch sử. Họ sử dụng thiết bị để phát hiện các trận động đất mô phỏng dựa trên thông số của bốn trận động đất ngoài đời thực từng xảy ra ở Đường Sơn, Vân Nam, Cao nguyên Thanh Hải, Tây Tạng. Kết quả thiết bị đã phát hiện được cả bốn và có độ chính xác khá cao.

Hình ảnh nổi bật: Bản sao hiện đại của kính địa chấn nổi tiếng của Zhang Heng. Ảnh: Houfeng Didong

Ngày nay chúng ta thường tin vào khoa học, vào các tính toán và chứng minh khoa học để kết luận một vấn đề, việc đó là đúng, không có gì phải bàn cãi cả, tuy nhiên sự phát triển của khoa học kỹ thuật ngày nay còn nhiều hạn chế, ví dụ; nhiều bệnh nan y hiện nay bệnh viện không chữa được, bệnh nhân bị trả về nhà, tuy nhiên có người về nhà tập khí công thì khỏi bệnh, không hiếm những trường hợp như vậy.

Ngoài ra, nhiều vấn đề khoa học ngày nay không giải thích được gồm; tinh thần, tín ngưỡng, thần ngôn, thần tích. Tuy nhiên dựa trên nền văn minh cổ đại Trung Quốc, hầu hết các vấn đề đều được giải quyết một cách thỏa đáng. Ngày nay chúng ta đang dần nhận ra rằng Học thuyết ngũ hành là đúng, Thuyết luân hồi là đúng, nền văn minh cổ đại Trung Quốc còn có Thái Cựu, Hà Đồ, Lặc Thư, Chu Dịch… do đó có thể nói nền văn minh Trung Quốc cổ đại đã rất phát triển, họ đi theo một con đường khác. Họ nhắm thẳng vào sinh mệnh, vũ trụ, thiên thể mà nghiên cứu, đó có thể là một con đường tắt.


Địa chấn kế được phát minh dựa trên nền tảng trí tuệ của nền văn minh cổ đại Trung Quốc, do đó có thể vượt hơn nhận thức của nền khoa học công nghệ hiện nay, đó là lý do tại sao khoa học công nghệ ngày nay chưa làm tốt, nhưng Địa chấn kế của Trương Hành được chế tạo từ gần 2000 năm về trước đã làm được. Đó chẳng phải là kỳ tích.

Mặc dù còn chưa hiểu rõ toàn bộ bản chất Địa chấn kế của Trương Hành, tuy nhiên theo quan điểm khoa học và công nghệ hiện đại tiên tiến, máy đo địa chấn mà Trương Hành phát minh ra vẫn được coi là tinh vi và đáng kinh ngạc và đi trước thời đại.


Kiên Chính / Theo: ancient-origins
Link tham khảo:

3 LOÀI CÂY YÊU BÓNG TỐI, CHỦ NHÂN QUÊN MANG "TẮM NẮNG" VẪN LỚN NHANH NHƯ THỔI

Nếu nhà bạn chật hẹp, không có điều kiện ánh sáng tốt mà vẫn mê thú chơi cây, hãy tìm đến 3 cái tên sau đây.


Được mệnh danh là "vua chịu bóng râm", có thể sinh sôi và phát triển "ngon lành" trong điều kiện ít ánh sáng. Đây là 3 loài cây vô cùng dễ tính khi nuôi trồng mà các gia chủ có thể tham khảo.

1. Cây dương xỉ đuôi chồn

Loài cây này nổi bật bởi vẻ đẹp quyến rũ độc đáo và khả năng "chịu tối" tuyệt vời, khiến nó trở thành lựa chọn lý tưởng cho những ai đang tìm kiếm một loại cây vừa thuận mắt vừa dễ chăm sóc.

Điểm nhận dạng dễ thấy của em này là sắc xanh sống động với những chiếc lá xếp lớp mịn màng giống như đuôi chồn.

Đẹp thôi chưa đủ, cây dương xỉ đuôi chồn còn có chức năng thanh lọc không khí, hấp thụ hiệu quả các chất ô nhiễm trong không gian, giải phóng oxy trong lành, cải thiện sự thoải mái cho môi trường sống hoặc làm việc của bạn.


Khi nói đến việc chăm sóc, các yêu cầu đối với cây dương xỉ đuôi chồn khá đơn giản. Nó thích môi trường ấm áp và ẩm ướt, nhiệt độ tăng trưởng thích hợp là từ 18 đến 24 độ C. Khi tưới nước, điều quan trọng là giữ cho đất hơi ẩm và tránh đọng nước vì có thể gây thối rễ.

Mặc dù loài này không cần cắt tỉa thường xuyên nhưng việc loại bỏ kịp thời những lá già hoặc héo có thể thúc đẩy sự phát triển của lá mới và giữ cho cây gọn gàng, đẹp đẽ hơn.

2. Cây trầu bà lá xẻ

Đây hẳn là cái tên không mấy xa lạ với các dân chơi cây cảnh. Trầu bà lá xẻ là loại cây tượng trưng cho sức sống mạnh mẽ và sinh sôi nảy nở. Nó có thể sống tốt và phát triển "ngon ơ" ngay cả trong môi trường ít ánh sáng nhất. Bởi vậy, đây là ứng cử viên sáng giá để chưng ở những góc tối trong nhà - tiếp thêm sức sống cho không gian của bạn.


Điều đáng hài lòng hơn nữa là cây trầu bà lá xẻ có chức năng lọc không khí tuyệt vời, có thể hấp thụ hiệu quả các loại khí độc hại trong nhà và mang đến cho bạn một không gian trong lành, tự nhiên.

Chăm sóc loài này cũng khá đơn giản. Nhiệt độ sinh trưởng lý tưởng của chúng là từ 18 đến 25 độ C, tránh tiếp xúc trực tiếp với ánh nắng gắt. Khi tưới nước, chỉ cần giữ đất hơi ẩm và không cần tưới quá đẫm hay tưới thường xuyên. Khi cắt cành, bạn chỉ cần cắt bỏ những lá chết hoặc những phần quá rậm rạp để thúc đẩy những lá mới phát triển khỏe mạnh hơn.

3. Cây rêu lửa

Đây là sự lựa chọn cây xanh hoàn hảo cho các căn hộ nhỏ, chật và thiếu sáng. Đặc điểm của cây rêu lửa là các nhánh cây mảnh mai và mềm mại đan xen vào nhau như những đốm lửa xanh, mang lại cho con người cảm giác yên tĩnh và trong lành.


Chăm sóc rêu lửa rất đơn giản. Trước hết, giữ ẩm cho môi trường là điều quan trọng. Cây thích môi trường có độ ẩm cao. Chỉ cần phun nước một hoặc hai lần một tuần là đủ.

Về nhiệt độ, bạn hãy duy trì ở mức 15°C đến 25°C. Tránh ánh nắng trực tiếp và nhiệt độ cao, không đặt cây ở môi trường quá lạnh. Riêng loài này, chủ nhân không cần cắt tỉa thường xuyên mà chỉ cần cắt tỉa vừa phải khi cành quá dài hoặc quá rậm rạp để giúp duy trì vẻ đẹp của chúng.

Nuôi một chậu rêu lửa trong nhà không chỉ cải thiện chất lượng thị giác, môi trường mà còn tăng thêm sự yên bình và sắc xanh tươi mát cho cuộc sống.

Thư Hân / Theo: phunuso

Sunday, April 28, 2024

THẦN THOẠI BẮC ÂU VỀ CÂY THẾ GIỚI YGGDRASIL

Thần thoại Bắc Âu về cây thế giới Yggdrasil đã được tìm thấy trong tập tài liệu “Sách của Vua”, cho thấy cái nhìn của người xưa về thế giới, thần thoại, hiện tại và tương lai…


Năm 1643, một vị giám mục tên Brynjolf Sveinsson đã được tặng bốn mươi lăm mảnh giấy da bê, trên đó ghi các bài thơ và văn xuôi có xuất xứ từ trung tâm của văn hoá bản địa Bắc Âu cổ đại. Bộ sưu tập này được gọi là Sách của Vua (Hoàng đế Kinh thư – tiếng La-tinh là Codex Regius), được cho là đã được viết vào khoảng năm 1270.

Trong khoảng thời gian từ năm 1270 đến năm 1643, bản thảo này đã được che giấu khỏi tầm mắt của công chúng, có lẽ để bảo vệ nó khỏi bị tiêu hủy bởi một tôn giáo mới xuất hiện ở Rome. Gia đình nào đã bảo vệ bản thảo này trong hơn 300 năm? Chúng ta không biết điều đó, và chúng ta cũng không biết gì về truyền thống của họ, nhưng chúng ta có thể chắc chắn rằng đây là một bí mật thâm sâu đã được cất giấu qua hàng thế kỷ vào thời Trung Cổ.

Vị giám mục này không tự mình lưu giữ bản thảo; thay vào đó, ông tặng bộ sưu tập này cho nhà Vua Đan Mạch. Bản thảo này đã được lưu trữ ở thủ đô Copenhagen cho đến năm 1971, khi nó được gửi trở lại Iceland.

Codex Regius (Hoàng đế Kinh thư) gồm các bài thơ và văn xuôi Bắc Âu cổ đại. (Ảnh: Wikimedia Commons)

Các tàu chiến đã chuyên chở bản thảo này vượt đại dương, vì việc vận chuyển bằng máy bay khi đó được xem là quá rủi ro đối với một tập tư liệu có giá trị đến vậy. Không lạ gì: những miếng giấy da bê này là một trong những di sản hiếm hoi về lịch sử bản địa của khu vực Bắc Âu.

Khi chúng ta mở những trang bản thảo cổ xưa này ra, chúng ta sẽ nhận thấy trung tâm của thần thoại Bắc Âu được chứa đựng bên trong một biểu tượng cổ xưa: Cây Thế giới Yggdrasil.

Tôi thấy đứng sừng sững một cây tần bì có tên gọi là Yggdrasil,một thân cây cao, thấm đẫm mùn đất sáng ngời; từ đó những hạt sương buông xuống thung lũng, một vùng xanh mát bất tận, nó đứng trên giếng nước số phận.(Lời tiên tri của Seeress)

Cách dịch hợp lý nhất cho cái tên Yggdrasil là ‘Con ngựa của thần Odin’. ‘Ygg’ là một cách gọi khác của thần Odin, và ‘drasil’ có nghĩa là ‘con ngựa’. Tuy nhiên, ‘drasil’ còn có nghĩa là ‘người tản bộ’, hay ‘người tiên phong’. Một số học giả cho rằng cái tên này có nghĩa là ‘Thần Odin người tản bộ’’. Trong một số phần trong bản thảo, hai từ Yggdrasil và Odin dường như đề cập đến cùng một đối tượng.

Cách dịch hợp lý nhất cho cái tên Yggdrasil là ‘Con ngựa của thần Odin’. Hình minh họa thần Odin cưỡi con ngựa 8 chân Sleipnir từ một bản thảo từ thế kỷ 18 của Iceland. (Ảnh: Wikimedia)

Khi thần Odin bị treo ngược và bị đâm xiên trong chín ngày trên Cây Thế giới, ông đã thốt lên rằng ông đã ‘hy sinh bản thân mình cho chính mình’. Đoạn thơ này miêu tả cho chúng ta về sự thống nhất giữa Vị thần tối cao và Cây Thần trong các thần thoại. Để nhấn mạnh mối liên hệ này, chúng ta thấy trong tiếng Anh cổ có từ ‘treow’, vừa có nghĩa là cây (tree) vừa có nghĩa là chân lý (truth). Vì vậy, về mặt từ nguyên học, ‘chân lý’ và ‘cây’ đều bắt nguồn từ cùng một gốc.

Do đó, trong sự tích sáng thế của thần thoại Bắc Âu, đàn ông và phụ nữ đều bắt nguồn từ cây cối. Chúng ta đều là con cái của cây Tần bì (Ash) và cây Du (Elm): người đàn ông đầu tiên có tên là Ask, sinh ra từ cây Tần bì (Ash), và người phụ nữ đầu tiên có tên là Embla, sinh ra từ cây Du (Elm). Khí ôxy từ chúng cung cấp những điều kiện căn bản cho sự sống. Ông Ask và bà Embla đã nảy mầm từ những hạt của Cây Thần Yggdrasil, và vì vậy tất cả con người đều nảy sinh ra từ trái của Cây Thần Yggdrasil, sau đó được hai con cò góp nhặt, và mang đến cho các bà mẹ đang hằng mong ước. Theo văn học dân gian Bắc Âu, trẻ em được sinh ra từ các hốc mắt gỗ trên thân cây thông, vốn là một phiên bản khác của cùng một câu chuyện thần thoại,

Thần Odin tạo ra hai người đầu tiên: ông Ask và bà Embla. Tác phẩm của Karl Gjellerup vào năm 1895 với nhan đề ‘Den ældre Eddas Gudesange’. (Ảnh: Wikimedia Commons)

Artur Lundkvist là một trong những người tôn thờ cây cối vĩ đại nhất trong văn học Thuỵ Điển. Dưới đây là một trích đoạn trong đó bày tỏ cảm thụ của ông về về cây cối và rừng cây:

‘… trong mỗi con người có một cái cây, và trong mỗi cái cây có một con người, tôi cảm nhận được điều này, cái cây đang lang thang trong một con người, và con người bị kìm hãm trong cái cây… Tôi dạo khúc nhạc êm dịu của rừng cây, biển rừng là đại dương lớn thứ hai trên Trái Đất, một đại dương trong đó con người phiêu diêu vô định. Rừng cây làm việc một cách âm thầm, hoàn thiện công trình vĩ đại của tạo hóa; cùng với gió, làm không khí trong lành, làm khí hậu dịu mát, giúp hình thành đất mùn, gìn giữ tất cả những gì thiết yếu nhưng không làm chúng suy kiệt’.

Con người biểu tượng cho thần cây Yggdrasil bằng cách trồng cái được gọi là ‘cây-coi sóc’ hay ‘cây giám hộ’, tại chính giữa mảnh đất của mình. Đây là phiên bản thu nhỏ của Cây Thần Yggdrasil, và là một cảnh quan trang nghiêm trong sân nhà. Cây giám hộ là một cách biểu đạt hình tượng của sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng ta và thế giới xung quanh. Nó tồn tại một linh hồn để dõi theo mọi sinh linh lớn lên bên dưới tán lá và bóng cây của mình. Một khi cây giám hộ chứng kiến sự trưởng thành của nhiều thế hệ trong gia đình, thì mối quan hệ giữa cái cây và gia đình sẽ được củng cố; một mối quan hệ được coi là riêng tư và bí mật trong nội bộ gia tộc. Rất nhiều cây giám hộ như vậy vẫn còn có thể được thấy ở Bắc Âu. Tôi cho rằng đây là nguồn gốc của cây thông Giáng Sinh. Chúng ta đã vô tình mang cái Cây Thế giới vào ngôi nhà của mình vào mỗi dịp đông chí.

Thần cây Yggdrasil trong tập Văn xuôi Edda. Tranh của hoạ sĩ Oluf Olufsen Bagge vafp năm 1847. (Ảnh: Wikimedia)

Từ tập bản thảo da bê cổ đại, chúng ta còn biết thêm rằng Cây Thế giới không phải là một thực thể siêu nghiệm đột phá khỏi thời gian và không gian; thay vào đó, nó có sức sống, là hữu cơ, mỏng manh và mạnh mẽ, và bị giới hạn trong ba chiều của thời gian: quá khứ, hiện tại và tương lai. Tính mỏng manh của cây Yggdrasil luôn là điều được các vị Thần quan tâm đến. Có một con rồng tên là ‘răng độc’ (Bane Biter) gặm bộ rễ sâu nhất của Cây Yggdrasil. Cũng có những loài động vật khác tấn công Cây Thần: bốn con hươu gặm các cành cây có tên là Dain, Dvalin, Duneyer và Durantro. Theo mô tả, các con hươu Dain và Dvailin trông ‘như thể đã chết’ hay ‘sống dửng dưng, trong màn sương’. Có hai con vật đứng trên nóc hoàng cung Valhala (nơi cư trú của các Vị thần) là con dê Heidrum và con hươu Eiktyrmer, và chúng cũng ăn các cành cây – nhưng chúng tặng lại cho Cây Thần những món quà. Con dê tặng cho Cây Thần rượu mật ong còn con hươu rỏ nước từ cặp gạc nhung của mình xuống phần rễ. Cả hai con vật này được cho là sống hòa hợp với Cây Thần.

Bốn con thú gặm rễ cây Yggdrasill. Từ bản thảo Iceland thế kỷ 17. (Ảnh: Wikimedia)

Ba người phụ nữ thông thái được gọi là các bà Norn là người bảo vệ và giám hộ Cây Thần. Ba bà Norn dệt vải trên một khung cửi tượng trưng cho thời gian. Tên của ba bà là Urd, Verdandi, và Skuld, lần lượt tượng trưng cho quá khứ, hiên tại, và tương lai. Mỗi buổi sáng, những tán lá của Cây Thần Yggdrasil lại rỏ xuống thung lũng một giọt sương le lói ngọt ngào; giọt sương này là ký ức về ngày hôm trước. Trước khi ánh Mặt Trời làm giọt sương bốc hơi, bà Urd sẽ thu thập giọt nước chứa ký ức này và đổ vào cái giếng của mình: Giếng Ký ức. Giọt nước sương này được gọi là Aurr. Ở chính giữa giếng nước của bà Urd có hai con thiên nga thần thánh, và chúng sẽ tạo thành hình trái tim với những cái cổ dài khi bơi đối diện nhau, tạo nên biểu tượng sinh sôi nảy nở của thần Frey (thần tình yêu và sinh nở). Tình yêu nảy nở từ giếng thần này. Nếu quá khứ bị xoá bỏ, ký ức bị lãng quên, thì gốc rễ của Cây Thần sẽ khô cạn. Bà Verdandi, hiện thân của hiện tại, cai quản các loài hoa trong mùa hoa nở, thời điểm sự sống được cho là sẽ hiển lộ. Bà Skuld giúp các loài hoa vươn tới tương lai. Điều thú vị là, cái tên Skuld lại ám chỉ việc nợ nần, như thể tương lai nợ một điều gì đó từ những việc được làm trong quá khứ.

Ba bà Norn là Uror, Verdandi và Skuld dưới tán cây thế giới. Trong tác phẩm của Wagner Wilhelm vào năm 1882. ‘Nordisch-germanische Götter und Helden’. (Ảnh: Wikimedia Commons)

Cây Thế giới có mối liên hệ mật thiết với các giai đoạn sáng thế, thành trụ và hoại diệt của nhân loại. Cây Thần dạy chúng ta rằng cây cối gắn liền với số phận của nhân loại. Chúng ta nắm giữ trách nhiệm phải coi sóc quá khứ, ghi nhớ những gì đã mất, đồng thời trân trọng thế giới tươi đẹp phồn vinh này, khoảnh khắc hiện tại, trong khi hướng tới một viễn cảnh trong tương lai.

Tác giả: Andreas Kornevall, Ancient Origins.
Hoàng Sâm biên dịch
Link bài gốc:


PHONG KIỀU DẠ BẠC - TRƯƠNG KẾ


Phong Kiều dạ bạc - Trương Kế

Nguyệt lạc ô đề sương mãn thiên,
Giang phong ngư hoả đối sầu miên.
Cô Tô thành ngoại Hàn San tự,
Dạ bán chung thanh đáo khách thuyền.


楓橋夜泊 - 張繼

月落烏啼霜滿天
江楓漁火對愁眠
姑蘇城外寒山寺
夜半鐘聲到客船


Nửa đêm đậu bến Phong Kiều 
(Dịch thơ: Nguyễn Hàm Ninh)

Quạ kêu, trăng lặn, trời sương,
Lửa chài le lói sầu vương giấc hồ.
Thuyền ai đậu bến Cô Tô,
Nửa đêm nghe tiếng chuông chùa Hàn San.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Trương Kế 張繼 (?-779) tự Ý Tôn 懿孫, người Tương Châu 襄州, đỗ tiến sĩ năm Thiên Bảo thứ 12 (754), là một nhà thơ có tiếng thời Trung Đường. Thơ của ông trong Toàn Đường thi có chép thành một quyển, nhưng chỉ một bài Phong Kiều dạ bạc 楓橋夜泊 đã giúp ông lưu danh thiên cổ.

Nguồn: Thi Viện



BƯỚC SANG TUỔI 35, TÔI NHẬN RA: NHỮNG THỨ ĐẮT GIÁ NHẤT ĐỀU MIỄN PHÍ

Khi còn trẻ, chúng ta nghĩ mọi lợi ích đều gắn liền với tiền bạc nhưng thực ra, những thứ quý giá nhất trên thế giới thường miễn phí.

(Ảnh minh hoạ)

Bài viết là lời chia sẻ của Ngô Lục, 35 tuổi, được đăng trên Toutiao (MXH Trung Quốc).

Một nhà văn nổi tiếng từng nói: “Nhiều người cảm thấy muốn có được thứ gì đó thì phải trả giá cao. Nhưng trên thực tế, hầu hết những điều tốt đẹp quan trọng nhất trong cuộc sống đều miễn phí, chẳng hạn như nắng, không khí, ánh trăng sáng, sao sáng, tình cảm gia đình, trí tuệ,... Chúng quan trọng nhưng miễn phí".

Khi mọi người còn trẻ, họ nghĩ rằng mọi lợi ích đều phải gắn liền với tiền bạc. Khi tôi lớn lên và có nhiều kinh nghiệm, cuối cùng tôi cũng hiểu: những thứ quý giá nhất trên thế giới thường miễn phí.

1. Đi bộ là cách ít tốn kém nhất để duy trì sức khỏe

Tổ chức Y tế Thế giới đã chỉ ra qua nghiên cứu: Bài tập tốt nhất trên thế giới là đi bộ. Đi bộ mỗi ngày không chỉ có tác dụng bồi bổ cơ thể mà còn giúp bạn giải tỏa tâm trạng và cải thiện giấc ngủ. Đặc biệt khi con người bước vào tuổi trung niên, mọi chức năng trong cơ thể đều suy giảm, nếu thiếu vận động thì sức khỏe sớm muộn gì cũng suy giảm.

Nhà triết học Liang Shuming đi dạo trong công viên mỗi sáng và vẫn còn khỏe mạnh khi ông đã 90 tuổi. Đạo diễn Zhang Yimou vẫn nhất quyết đi bộ năm km dù bận rộn đến đâu vào ngày thường, điều này khiến ông tràn đầy năng lượng như những người trẻ tuổi.

Sức mạnh đơn giản nhất trong cuộc sống là đi bộ. Những bước thực hiện đó là sự nuôi dưỡng tốt nhất cho cơ thể. Bạn không cần phải tốn tiền đến phòng gym để tập những môn thể thao ưa thích, cũng không cần phải tốn thời gian tìm hiểu đủ loại phương pháp rèn luyện sức khỏe. Mỗi ngày dậy sớm, đi bộ chậm nửa tiếng, mỗi ngày sau bữa ăn đi bộ 5.000 bước là phương thuốc hữu hiệu.

Hãy đi bộ thay vì nằm, đi bộ thay vì ngồi lâu, giãn cơ và thư giãn cơ thể và tinh thần.
 
2. Đọc là cách giúp bản thân trở nên cao quý nhất

Nhà văn Chu Linh đã nói: “Mỗi khi bạn đọc một cuốn sách, bạn đang thực hiện một cuộc phỏng vấn người nổi tiếng và giao tiếp với các chuyên gia hàng đầu. Đọc sách là chiến lược tăng trưởng tiên tiến nhất với chi phí thấp nhất".

Sách giống như một liều thuốc, đọc tốt không chỉ có thể chữa khỏi bệnh khờ dại, kém hiểu biết mà còn khiến bạn tinh tế hơn. Hãy để suy nghĩ của bạn được thăng hoa và tinh thần của bạn được nuôi dưỡng.

Một người đọc quá ít chắc chắn sẽ bị hạn chế bởi kiến thức, nhận thức hạn hẹp, không đủ trí tuệ để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống. Chỉ trong quá trình đọc liên tục, những kiến thức trong sách mới có thể biến thành trí tuệ sống trong tâm trí mỗi người. Sau đó, bạn có thể xử lý nhiều việc khác nhau và giải quyết nhiều vấn đề khác nhau một cách dễ dàng.

Khi con người đến tuổi trung niên, già cũng như trẻ, những khó khăn của cuộc sống và những tổn thương của thời gian nối tiếp nhau. Khi bạn bị kéo vào vũng lầy cuộc sống, những cuốn sách bạn đọc luôn có thể tiếp thêm sức mạnh nội tâm. Sau tuổi trung niên, hãy tiếp tục đọc sách.

Khi bạn bị kéo vào vũng lầy cuộc sống, những cuốn sách bạn đọc luôn có thể tiếp thêm sức mạnh nội tâm cho bạn. (Ảnh minh hoạ)

3. Cô đơn là khoản đầu tư hiệu quả nhất về mặt chi phí

Khi còn trẻ, tôi luôn thích giao tiếp xã hội, bị ám ảnh bởi việc làm quen với nhiều người hơn và đến những nơi sôi động hơn. Thời gian càng trôi qua, tôi càng nhận ra rằng sau khi giao lưu sôi nổi càng trống trải, sau khi vui vẻ lại càng cô đơn. Đặc biệt ở độ tuổi trung niên, chúng ta thấy rằng sự ồn ào của thế giới bên ngoài chỉ làm con người kiệt quệ về thể chất và tinh thần.

Chỉ khi ở một mình, bạn mới có thể đạt được sự bình yên và tự do nội tâm, đồng thời phát triển một trái tim phong phú và tâm hồn trọn vẹn trong niềm vui.

Như giáo sư Fudan Chen Guo đã nói: "Khi một người cho mình nhiều thời gian hơn để ở một mình, sức mạnh của họ bắt đầu thức tỉnh và trái tim ngày càng trở nên mạnh mẽ".

Cô đơn là khoản đầu tư hiệu quả nhất về mặt chi phí. Khi bạn tránh xa đám đông và lặng lẽ tận hưởng thời gian một mình, bạn sẽ thấy cuộc sống của mình trở nên đơn giản và trọn vẹn hơn. Khi bạn tránh xa sự hối hả và nhộn nhịp và học cách hòa hợp với chính mình, bạn sẽ thấy trái tim mình trở nên bình yên. Một người càng có thể ở một mình, họ càng có thể bình tĩnh và trau chuốt bản thân.

Một người càng có thể ở một mình, họ càng có thể bình tĩnh và trau chuốt bản thân. (Ảnh minh hoạ)

4. Lòng tốt là một phước lành sẽ kiếm được tiền mà không mất tiền

Không biết khi nào, ngày càng có nhiều tiếng nói luôn nhắc nhở mọi người: thế giới lạnh lùng, lòng người lạnh lùng, nếu quá tốt bụng sẽ đau khổ và bị bắt nạt. Kết quả là, nhiều người bắt đầu cảnh giác và thờ ơ, không dám bộc lộ lòng tốt một cách dễ dàng. Kết quả là, theo thời gian, con người trôi đi, tình yêu phai nhạt và phước lành cũng phai nhạt.

Sau 35 tuổi, tôi mới hiểu: Điều thực sự có thể sưởi ấm trái tim con người trên thế giới này chính là lòng nhân hậu. Dù lòng người có lạnh lùng đến đâu, lòng tốt vẫn nên được truyền lại.

Cuộc sống là một vòng tuần hoàn của nguyên nhân và kết quả. Mỗi lòng tốt bạn thể hiện sẽ không chỉ sưởi ấm người khác mà còn soi sáng chính bạn. Mỗi lòng tốt bạn cho đi sẽ mang lại lợi ích cho người khác và cũng sẽ mang lại lợi ích cho chính bạn. Hãy trau dồi lòng từ bi và phước lành sẽ đến một cách tự nhiên.

5. Tình yêu đích thực là tài sản quý giá nhất

Khi còn trẻ, tôi không biết quý trọng, tôi làm tổn thương những người tôi quan tâm và bỏ mặc những người quan tâm đến tôi. Sau khi bỏ lỡ một số cảm xúc quý giá, tôi chợt nhận ra: Cuộc đời không có đường quay lại, và tôi sợ nhất là bị thất vọng.

Dù là bạn bè, người yêu hay người thân, con người đều sẽ thay đổi sau một thời gian dài buồn bã. Điều hiếm hoi nhất trên đời không phải là danh vọng hay sự giàu có mà là tình yêu đích thực giữa con người với nhau.

Điều may mắn nhất trên đời là có người yêu bạn bằng cả trái tim và tâm hồn, điều may mắn nhất trên đời là có người đối xử chân thành với bạn. Đặc biệt sau nửa cuộc đời, xung quanh tôi càng ngày càng ít người, có một trái tim chân thành và một tình yêu đích thực thì quả thật hạnh phúc hơn bất cứ điều gì khác.

Hãy tử tế với những người yêu thương bạn, trân trọng những người bạn yêu thương nhiều hơn, đừng để trái tim của mọi người bị tổn thương và đừng để cảm xúc thật của bạn trôi đi.

(Ảnh minh hoạ)

6. Tinh thần là liều thuốc vô giá nhất

Người bi quan thường suy nghĩ về sống và chết, còn người lạc quan thì bất tử. Cuộc sống của một người phụ thuộc hoàn toàn vào tâm lý.

Nếu bạn có thái độ tốt thì rắc rối lớn đến đâu, bạn cũng có thể cười trừ. Nếu bạn có thái độ xấu thì thất bại dù nhỏ đến đâu cũng khiến bạn đau khổ. Bạn sống hạnh phúc hay sống trong đau khổ thì quyền quyết định vẫn luôn nằm ở bạn.

Khi gặp thất bại, bạn trở nên tiêu cực và bi quan, mắc kẹt trong tâm trạng chán nản và không thể thoát ra được, và ngày tháng sẽ chỉ trở nên tồi tệ hơn theo thời gian. Khi đối mặt với khó khăn, hãy nở nụ cười lạc quan, bạn sẽ cảm thấy thư thái, không mệt mỏi. "Tục ngữ có câu: Mọi chuyện đều bắt đầu từ trái tim, nụ cười giải quyết được vạn lo lắng".

Phát triển một thái độ tốt có giá trị bằng tất cả liều thuốc tốt trên thế giới. Sau tuổi trung niên, áp lực cuộc sống ập đến với chúng ta. Nếu bạn có tâm lý không tốt thì cuộc sống sẽ chỉ trở nên khó khăn hơn.

9/10 điều trong cuộc sống là không đạt yêu cầu. Nhưng hãy tin rằng mọi đau khổ đều chỉ là tạm thời, dù trải qua có tồi tệ hay bất hạnh thì nó cũng sẽ trở thành chuyện của ngày hôm qua. Nửa sau cuộc đời, trí tuệ cao nhất là thả lỏng đầu óc, xem nhẹ mọi chuyện, sống vui vẻ, sống vui vẻ.

(Ảnh minh hoạ)

7. Sự hài lòng là tài sản quý giá nhất

Khi còn trẻ, tôi luôn theo đuổi cuộc sống vật chất nhưng thường không hài lòng. Dường như niềm hạnh phúc lớn nhất trên đời chỉ có được khi có một ngôi nhà đủ lớn, một chiếc xe hơi sang trọng và đủ tiền.

Sau tuổi 35, tôi dần dần phát hiện ra, nếu tâm không thỏa mãn thì dù có bao nhiêu cũng sẽ không cảm thấy hạnh phúc. Như Franklin đã nói: “Không có chiếc ghế nào đem lại cảm giác thoải mái cho những người bất mãn”.

Lòng người không đủ để rắn nuốt voi. Muốn quá nhiều mà không bao giờ được thỏa mãn là bản chất xấu xa sâu thẳm trong bản chất con người. Việc một người có thể sống thoải mái hay không không phụ thuộc vào số lượng của cải mà phụ thuộc vào mức độ ham muốn. Nếu bạn muốn quá nhiều, bạn sẽ chỉ sống trong nỗi đau không đáng có. Chỉ khi biết cách hài lòng, bạn mới có được hạnh phúc, thực sự thoát khỏi đau khổ và đạt được hạnh phúc.

Tuổi trung niên là bước ngoặt trong cuộc đời và là sự trở về tinh thần. Càng lớn tuổi, tôi càng hiểu rằng, cách sống tỉnh táo và khôn ngoan nhất không phải là bám vào những ảo tưởng bên ngoài, mà là bảo vệ những gì thực sự quý giá trong trái tim.

Ứng Hà Chi / Theo Toutiao

PHONG THỦY TẠI TÂM

Tướng mạo không phải sinh ra là cố định, mà nó thay đổi tùy theo tâm thái của mỗi người.


Vẻ ngoài của một người không chỉ có dung mạo, mà còn là cử chỉ, lời nói, và thái độ của một người. Những biểu hiện bên ngoài đó thể hiện phần nào phẩm đức và tính cách cá nhân. Thông qua đó, những điểm này gián tiếp cho thấy phúc phần và vận mệnh của một người.

Theo quan niệm của người xưa, “tâm” là nhân của “tướng”, “tướng” là quả của “tâm”. Nếu một người giữ được nội tâm ngay thẳng, đoan chính, lạc quan thì dễ có tinh thần tốt, sức khỏe ổn định và dung mạo tươi sáng.

Dưới đây là đặc điểm của những người dễ gặp may mắn, hạnh phúc trong cuộc sống.

1. Ngoại hình tươi tắn, ánh mắt sáng

Một người có ngoại hình tươi tắn thường đem lại cảm giác tích cực, thân thiện và vui vẻ cho mọi người xung quanh. Bên cạnh đó, con mắt là bộ phận quan trọng và đặc biệt nhất, xét theo nhân tướng học. Cái thần và nội tâm của một người chủ yếu được phản ánh qua ánh mắt.

Có những điều được thể hiện trực tiếp qua ánh mắt, dù che đậy bằng bao thứ hào nhoáng bề ngoài cũng không có ích gì. Một đôi mắt sáng, đẹp đẽ thường mang đến cảm giác thoải mái với người đối diện.

Theo người xưa, nét mặt càng hiền hòa, tươi sáng thì khả năng khí vận càng nhiều. Người như vậy thường hòa đồng và có nhiều mối quan hệ bạn bè, mọi người chủ động kết thân, vận may và phúc khí theo đó mà đến.


2. Nụ cười lạc quan

Theo nhân tướng học, môi không chỉ là cơ quan xuất nạp mà còn là “cánh cửa” của lưỡi. Thông qua tướng miệng, người ta phán đoán được phần nào sự nghiệp, tính cách và vận mệnh cuộc đời. Nó là phương thức, khẩu đức của ngôn ngữ, là khí chất của tính cách, là hệ số tham khảo quan trọng của ý chí. Cho nên người đi trước mới nói, họa hay phúc đều từ miệng mà ra.

Một người muốn thay đổi tướng miệng để đạt vận may, phúc khí tốt hơn thì trước hết phải tu khẩu, nói lời khiêm tốn, không buông tiếng thị phi và cay độc.

Bên cạnh đó, người ta thường nói: “Người hay cười sẽ gặp nhiều may mắn”. Vì thế, nếu một người muốn có được phúc khí, trước tiên người đó phải học cách suy nghĩ tích cực và lan tỏa những năng lượng tích cực cho môi trường xung quanh.

Nếu ví đôi mắt là cửa sổ tâm hồn thì nụ cười có thể coi là “mặt tiền”. Trong mọi hoàn cảnh, nụ cười có thể trở thành phương pháp hữu hiệu nhất để thể hiện cái tâm bên trong.

Người có nụ cười lạc quan tạo cho người đối diện cảm giác ấm áp thoải mái, tích cực vui vẻ, khiến ai nhìn thấy cũng muốn tới gần và làm thân. Những người luôn mỉm cười sẽ có một thái độ lạc quan và tích cực đối với cuộc sống, và phước lành sẽ tự nhiên đi cùng với họ!

Vì vậy, khi gặp khó khăn rắc rối, hãy dùng thái độ tích cực và lạc quan để đối mặt và tìm cách xử lý vấn đề. Nụ cười lạc quan sẽ không thể giúp bạn thay đổi cục diện ngay lập tức, nhưng sẽ giải tỏa một phần gánh nặng áp lực trên vai.

3. Cẩn trọng và khiêm tốn

Một suy nghĩ bất chợt nảy ra trong lòng có thể không khiến tướng mạo thay đổi. Nhưng nhiều suy nghĩ lặp đi lặp lại ít nhiều sẽ để lại dấu ấn trong vẻ bề ngoài mà một người thể hiện. Do đó, người trong lòng giữ sự khiêm tốn và cẩn trọng thì thần thái sẽ có xu hướng ôn hòa, khiêm nhường.


Bất luận là ai, phàm là kiêu ngạo tự mãn thì không dễ đạt được sự thỏa mãn. Còn người biết khiêm nhường, nhìn nhận cái sai của bản thân sẽ biết cách bù đắp thiếu hụt cá nhân, giống như vùng đất trũng thì nước sẽ dễ dàng chảy tới, tươi tốt và đầy đủ.

Người khôn ngoan biết giữ lại cái tôi để có thể học hỏi và mở rộng tâm trí với mọi điều xung quanh. Ở địa vị cao mà giữ được lòng khiêm tốn thì được sự kính trọng. Ở địa vị thấp mà có lòng khiêm tốn cũng thể hiện sự đoan chính, ngay thẳng của cá nhân.

Người giữ được tâm thái như vậy tự nhiên sẽ có tướng mạo ôn hòa, dễ có được cảm tình từ mọi người xung quanh.

Thùy Anh / Theo: Sohu

Saturday, April 27, 2024

NHỮNG MÓN ĂN BẠN NHẤT ĐỊNH PHẢI THỬ KHI DU LỊCH Ý

Nước Ý mang đến cho nhân loại rất nhiều đóng góp về văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, bên cạnh đó là một nền ẩm thực phong phú. Pizza tươi, mì ống sốt kem, rượu vang… đây thực sự là điểm đến châu Âu tuyệt vời cho những người sành ăn.


Dưới đây là 10+ món ăn bạn nhất định phải thử khi du lịch Ý:

1. Cơm risotto

Risotto là món ăn miền Bắc nước Ý, có thể được pha trộn với nhiều loại nguyên liệu. Đặc điểm quan trọng của cơm risotto là được nấu chín chậm trong nước dùng. Nếu nấu chưa tới cơm sẽ bị nát, còn quá lửa cơm sẽ bị khô. Cơm risotto truyền thống được làm từ gạo, rượu vang trắng, phô mai parmesan, bơ và hành tây, nhưng nhiều cửa hàng cũng tự tạo ra công thức mới với nhiều loại nguyên liệu như nấm, tỏi, tôm hùm, tôm và các loại rau khác.

(Ảnh: Shutterstock)

2. Kem Gelato

Gelato là một món tráng miệng phổ biến nhất ở Ý. Thành phần chính của gelato không phải là cream mà là sữa nguyên chất, thậm chí là sữa gầy đã tách toàn bộ hàm lượng kem béo. Kem thông thường hay được bảo quản trong nhiệt độ khoảng âm 25 độ C, còn gelato được giữ ở âm 14 độ C nên khi ăn không có cảm giác lạnh buốt, mà có vị mát lạnh tan dần, mềm mượt. Gelato được xem như món ăn tốt cho sức khỏe bởi nguyên liệu từ nguồn gốc thiên nhiên, hàm lượng béo thấp và nhiệt độ ấm hơn kem.

(Ảnh: Shutterstock)

3. Pizza

Pizza ở Ý được làm bằng các nguyên liệu tươi và đơn giản. Ngày nay pizza xuất hiện ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, nguyên liệu đa dạng không giới hạn nhưng nó vẫn được xem là món ăn đặc trưng của ẩm thực Ý, đặc biệt là ở vùng Napoli (pizza napoletana). Pizza chính hãng ở Ý được làm từ các thành phần đơn giản, không thể thiếu cà chua và phô mai mozzarella.

(Ảnh: Shutterstock)

4. Prosciutto

Prosciutto là giăm bông khô, thường được thái lát mỏng, ăn như món khai vị. Mỗi vùng miền ở Ý sẽ có một biến thể riêng của giăm bông nhưng Prosciutto di Parma và Prosciutto di San Daniele là phổ biến nhất ở đất nước này.

(Ảnh: Shutterstock)

5. Cacio e pepe

Cacio e pepe là một món ăn đơn giản của Ý được làm từ phô mai và hạt tiêu. Nếu dịch sang tiếng Anh, bạn sẽ thấy đây là cách viết khác của “phô mai và hạt tiêu”. Trong cacio e pepe chỉ có 4 thành phần: bơ, mì ống, hạt tiêu và phô mai (pecorino hoặc parmesan). Đây là một trong các món mì ống cổ điển của Rome nên bạn sẽ thấy nó xuất hiện trong mọi thực đơn. Felice a Testaccio là một nhà hàng nổi tiếng với món ăn này.

(Ảnh: Shutterstock)

6. Nấm truffle

Nấm truffle là một nguyên liệu cực kỳ sang trọng và đắt tiền, những đầu bếp hàng đầu cũng rất cẩn trọng khi dùng nấm để nấu ăn. Du khách muốn nếm thử các món ăn cao cấp nên dừng chân ở Alba, nơi được biết đến với nấm cục trắng nổi tiếng thế giới. Ở đây, bạn sẽ tìm thấy các món mì ống hàng đầu có chứa truffle, không rẻ nhưng rất đáng để trải nghiệm.

(Ảnh: Shutterstock)

7. Gnocchi

Nơi tốt nhất ở Ý để thử món gnocchi là Verona. Gnocchi là một loạt các loại mì ống bao gồm các loại bánh bao bột dày, nhỏ và mềm khác nhau có thể được làm từ semolina, bột mì thông thường, trứng, phô mai, khoai tây, vụn bánh mì, bột ngô hoặc các thành phần tương tự, và có thể bao gồm cả hương vị của các loại thảo mộc, rau quả, ca cao hoặc mận khô.

(Ảnh: Pixabay)

8. Ribollita

Được tạo ra lần đầu tiên ở Tuscany, Ribollita là món hầm cổ điển đã tồn tại hàng trăm năm ở Ý. Món ăn này đơn giản đến ngạc nhiên. Nguyên liệu gồm rau xanh, đậu, rau thơm, dầu ô liu và phô mai Parmesan cùng một vài miếng bánh mì được xếp xung quanh.

(Ảnh: Wikipedia)

9. Osso Buco

Osso Buco là một món thịt hầm (khoanh dày), làm từ thịt bê om với rượu, nước dùng và rau (như hành tây, cà rốt và cà chua). Nó thường được trang trí với gremolata, phục vụ kèm với risotto hoặc polenta. Tùy vùng miền sẽ có cách kết hợp khác nhau.

(Ảnh: Wikipedia)

10. Limoncello

Thường được phục vụ như một thức uống sau bữa tối, Limoncello là loại rượu nổi tiếng đến từ bờ biển Amalfi, Sorrento và Capri. Limoncello có các thành phần gồm đường, vỏ chanh, vodka và nước, luôn được phục vụ khi đã ướp lạnh.

(Ảnh: Alex B / Pixabay)

11. Carbonara

“Tứ đại mì ống” của Rome chính là carbonara, cacio e pepe, gricia và amatriciana. Sốt carbonara đem đến cho thực khách trải nghiệm béo ngậy nhờ hỗn hợp sốt gồm phô mai tươi và trứng gà. Có 2 loại phô mai thường được dùng phổ biến nhất trong carbonara là Pecorino Romano và Parmigiano – Reggiano. Hai loại phô mai này đã có sẵn vị mặn, nên các đầu bếp ít khi phải nêm thêm gia vị gì vào sốt trừ hạt tiêu đen xay nhỏ. Thịt ba chỉ xông khói là phiên bản truyền thống, còn ngày nay người ta còn cho cả bò, gà, nấm, tôm, cá hồi vào món carbonara.

(Ảnh: Wow Phochiangrak / Pixabay)

12. Tiramisu

Tiramisu là món ngọt có mặt trong tất cả các quán cà phê. Nhưng đã một lần đến Ý, nhất định bạn phải thử hương vị chính gốc. Tiramisu là món tráng miệng cổ điển của Ý, là sự kết hợp hương vị của cà phê, ca cao và phô mai mascarpone. Tiramisu là một trong những món ăn tráng miệng phổ biến nhất của Ý.

(Ảnh: Andrey Cojocaru / Pixabay)

13. Polenta

Polenta có mặt từ thời La Mã cổ đại. Món ăn làm từ bột ngô dần dần trở thành mặt hàng chủ lực ở Milan. Bạn có thể ăn polenta như cháo hoặc dạng bánh mì cắt lát. Món ăn này được phục vụ đi kèm với thịt hay ăn riêng đều được.

(Ảnh: Wikipedia)

Minh Minh / Theo: trithucvn