Trên thế giới, chim bắt cô trói cột phân bố ở châu Á, từ Pakistan, Ấn Độ, Sri Lanka đến Indonesia ở phía nam và Trung Quốc.
Chim bắt cô trói cột có tên khoa học là Cuculus micropterus.
Đây là loài chim cu cỡ trung bình, con trống và con mái có vẻ ngoài khá giống nhau.
Chim bắt cô trói cột thường sống trong rừng, ở độ cao trên 3.600m.
Chúng có nửa thân trên màu trắng trong khi nửa dưới có nhiều vạch trắng đen.
Do nghe tiếng kêu của chim nên nhiều người Việt Nam nghe thành nhiều câu khác nhau: hay "năm trâu sáu cột", "khó khăn khắc phục", "chim cu Ấn Độ", "Bắc quang Bắc mục", "Hà Giang nước độc", "bốn cô chín chục", "chín cô bốn chục", "năm trâu sáu cọc", "trói cô vào cột", "vua quan trói cột", "đuổi Tây đánh Nhật"...
Có hai phân loài được công nhận rộng rãi:
Phân loài Cuculus micropterus sp. micropterus phân bố trên lục địa châu Á, còn phân loài Cuculus micropterus sp. concretus S. Müller, 1845 nhỏ hơn, lông màu tối hơn và phân bố ở bán đảo Mã Lai, Java, Sumatra và Borneo. Những con chim ở vùng Amur có thân lớn hơn và Swinhoe gọi nhóm này (từ Hoa Bắc trở lên) là Cuculus michieanus trong khi Walter Norman Koelz miêu tả dạng fatidicus ở đông bắc Ấn Độ.
Chim non trong tổ có miệng màu đỏ cam và viền màu vàng.
Sự tích chim bắt cô trói cột
Ngày xưa, có một anh nông dân nghèo, phải làm rẽ năm sào ruộng của một phú ông trong làng. Phú ông là tay giàu có nhất tổng: ruộng đất, trâu bò nhiều không kể xiết. Thấy anh tính nết thực thà chăm chỉ, lúc nào cũng nộp lúa sòng phẳng, phú ông giao thêm cho anh nuôi trâu rẽ. Anh chí thú làm ăn, vừa làm ruộng, vừa nuôi trâu, chẳng mấy chốc đôi trâu đã phát triển thành năm con.
Ngày nọ, phú ông bỗng dưng... lăn ra chết, tất cả gia sản ruộng đất, trâu bò đều trở thành sở hữu của cô con gái độc nhất. Có điều, nhiều thứ phú ông giao cho các tá điền thì có cái đã làm văn tự hẳn hoi, có cái chưa kịp làm thì ông đã đột tử.
Cô con gái rất giống tính phú ông, cha nào con gái nấy, lại là người có mánh khóe vặt, không bao giờ chịu để mất không cho người ngoài dù là một vật nhỏ mọn. Tang cha xong, ả bắt đầu đi kiểm soát một lượt gia sản của cha để lại.
Ả đến nhà anh nông dân nghèo vừa lúc anh chăn trâu chưa về. Ả chỉ biết anh có nuôi trâu rẽ, nhưng cụ thể bao nhiêu con thì không rõ, không thấy phú ông ghi trong sổ sách, mà hỏi người ăn kẻ ở trong nhà thì họ mang máng nhớ rằng năm sáu con gì đó.
Ngày đó nuôi trâu không có chuồng, chỉ đóng một hàng cột nơi góc sân, tối về buộc mỗi con vào một cột. Lúc đến, ả đếm được sáu cái cột và lẩm nhẩm: “Sáu cột vị chi là sáu con trâu”.
Lúc anh lực điền đánh trâu về, ả đếm xuôi đếm ngược chỉ có năm con. “Quái lạ! Không lẽ nghe tin cha mình chết mà việc nuôi trâu lâu nay cha mình không bắt làm giấy tờ nên thằng cha này đã bán trộm một con chăng?”. Nghĩ thế, ả nói to: “Này anh! Còn một con nữa đâu rồi?”. Anh lực điền ngạc nhiên: “Cô nói con nữa là con nào? Tôi nuôi của cụ cả thảy chỉ năm con”. Ả cười ranh mãnh: “Nè, anh đừng qua mặt tui nghe, năm trâu sao lại sáu cột? Anh đừng nói là đã đánh lạc mất một con trong rừng đó nghe”.
Anh phân trần rằng có một cột gần gãy nên anh phải đóng một cột khác mà lu bu quá chưa kịp nhổ cái kia đi. Ả nào chịu nghe, cương quyết: “Không nói nhiều nữa, anh không tìm ra trâu thì khó mà sống với tôi. Năm trâu sao lại sáu cột?”.
Loài chim kỳ lạ này thích sống trong các khu rừng thường xanh và xanh tạm thời, tuy nhiên chúng cũng sống trong các khu vườn và bụi cây.
Cả hai đều hóa thành chim, cùng sống chung trong một khu rừng. Cả hai kiếm ăn từ nhá nhem tối cho đến mờ sáng, một con đằng này núi, một con đằng kia núi. Tiếng đối đáp ngày nào vẫn chưa dứt, một con kêu “năm trâu sáu cột” thì con kia đáp lại “bắt cô trói cột”.
Theo: Kiến Thức
No comments:
Post a Comment