Monday, June 30, 2025

"NẾU ĐI HẾT BIỂN...", CÓ NHÌN RA NHAU?

Nơi bên kia của biển, ta thấy được những lời kể thẳng và thật, thoát ly mọi định chế kiểm duyệt và tự kiểm duyệt, về cuộc ly hương của những người con đất Việt: đó không chỉ là sự phân ly về mặt địa lý, còn là và sự ly tán của lòng người.

Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Thời Văn.

Đạo diễn Trần Văn Thủy được công chúng trong và ngoài nước biết đến qua các bộ phim tài liệu ghi dấu ấn như “Chuyện tử tế” và “Hà Nội trong mắt ai”. Ấy vậy, không nhiều người biết ông còn là một tác giả sách được yêu thích với những thiên hồi ký đậm chất văn chương như Chuyện nghề của Thủy hay Trong đống tro tàn. Tuy nhiên tác phẩm gây tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông có lẽ là tập ký sự Nếu đi hết biển… do nhà xuất bản Thời Văn tại Mỹ xuất bản lần đầu năm 2003.

Trần Văn Thủy sinh ra và lớn lên ở Nam Định, mảnh đất thuộc về “bên thắng cuộc”. Ông từng được chính quyền cử vào miền Nam từ năm 1966 làm phóng viên chiến trường, trực tiếp tham gia tác nghiệp, quay phim tại các vùng chiến địa. Vì lẽ đó, vị đạo diễn người Nam Định có nhiều năm tận mắt chứng kiến hiện thực của khói lửa binh đao và nỗi niềm núi sông chia cắt.

Từ những trải nghiệm đau đớn ấy, trong Nếu đi hết biển… ông đã đảm nhận vai trò nhà báo, trực tiếp phỏng vấn một số trí thức thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại và một học giả người Mỹ về những ký ức lẫn góc nhìn về cuộc chiến, về hoà giải dân tộc, về văn chương và quan điểm chính trị.


Có thể nói, đây là những cuộc trò chuyện có giá trị vì đã tạo nên cuộc đối thoại thẳng thắn, cởi mở, giữa tác giả với những người ở bên kia chiến tuyến một thời, những người đã từng sống trong lòng chế độ “ngụy” trước đây, và bây giờ là những công dân Mỹ. Họ, những người bị ám ảnh bởi cuộc chiến ở nhiều mức độ, nay đã lựa chọn thẳng thắn đối diện với sự thật, đối diện với người phỏng vấn mang xuất thân “kẻ thù” để trải lòng thổ lộ, dù sự thật có phũ phàng và chua chát đến mức nào.

Cuốn sách lấy tựa đề từ một cuộc trò chuyện thời ấu thơ giữa tác giả với người vú nuôi ngày nào, trong một lần ông hỏi bà rằng: “Nếu đi hết biển thì đến đâu hả thím?” Người vú nuôi im lặng một lúc rồi buồn bã đáp: “Đi hết biển, đến đâu thì thím không biết.” Câu nói của người vú nuôi năm ấy đã gây ám ảnh trong tâm thức tác giả suốt nhiều năm liền, khi chứng kiến và nghe tin hàng loạt đồng bào đã chọn lao thân ra biển lớn để tìm kiếm tương lai hy vọng ở bên kia bờ tuyệt vọng.

Những nhân vật mà đạo diễn Thủy phỏng vấn đều đã chọn rời khỏi tổ quốc. Họ đều là những thuyền nhân, những người vượt biên, những người liều mình “đi hết biển” trong khổ đau và sợ hãi. Giờ đây, khi đã “đi hết biển” và định cư ở nước ngoài, họ vẫn mang tấm lòng hướng về quê hương, đất nước, về những đồng bào, người thân vẫn còn ở Việt Nam.

Một điều rất đáng chú ý mà tác giả đề cập, đó là đề xuất cần nhìn nhận lại sự chia rẽ hai miền Nam – Bắc. Đây là vấn đề của ý thức hệ chứ không phải đơn thuần địa lý. Và thực tế, rất nhiều chính khách, sĩ quan hay người dân Việt Nam Cộng hòa, như Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên, Trần Kim Tuyến, v.v. đều là người di cư từ Bắc. Nhiều nhân vật được phỏng vấn cũng có gia đình gốc Bắc. Và rất nhiều những lãnh đạo chính quyền Cộng sản quân phiệt, điển hình là Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng lại là người miền Nam và gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng.

Những cuộc hội ngộ gia đình sau năm 1975 của những thành viên ở hai bờ chiến tuyến vẫn nhuốm màu cay đắng. Như câu chuyện của bố con Cao Xuân Huy giữa những éo le của lịch sử đã gây xúc động cho nhiều người: Trước năm 1975, cha và con ở hai mặt trận đối đầu. Năm 1975, người cha thuộc bên thắng trận, còn người con ở bên thua cuộc nên bị trừng phạt. Người cha mới chỉ gặp con duy nhất một lần khi mới lọt lòng, nay phải vào thăm con trong nhà tù cải tạo. Và ngay chính tác giả cũng có những người bạn “ngụy” phải xa quê vì những tai ương của lịch sử.

Cuốn sách cho thấy, vấn đề hoà giải bị ngăn trở bởi nhiều yếu tố từ hai phía, cả trong nước và hải ngoại (cụ thể là ở Mỹ). Hai bên đều nghi ngờ, e ngại bên kia sẽ tuyên truyền, khiến cho người trẻ xa rời những “giá trị đích thực của truyền thống văn hoá Việt Nam” theo mỗi bên quan niệm.


Nhưng có những thực tế cay đắng cần nhìn nhận trong cách hành xử đầy cực đoan của mỗi phía. Trong nước, chế độ của người thắng cuộc không chìa tay hoà giải mà còn khiến sự chia rẽ càng sâu sắc bằng một loạt những động thái: trại cải tạo, đổi tiền, kinh tế mới, chế độ khẩu phần, phân biệt đối xử, v.v. Tại nước ngoài vẫn có những người “bị dẫn dắt vào cơn mê lộ của thù hận” không những không cổ vũ mà còn phản đối chuyện hoà giải dân tộc. Những tổ chức chính trị hải ngoại bài xích những người biểu diễn các văn hoá phẩm trong nước.

Nhà văn Trương Vũ phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với tác giả – đạo diễn Trần Văn Thủy:

“Một điều khôi hài là báo chí Việt Nam có thể đăng một hình cựu chiến binh miền Bắc trong bộ quân phục của quân đội nhân dân ôm một anh cựu chiến Mỹ trong bộ quân phục của quân đội Mỹ, nhưng không biết bao giờ chúng ta mới thấy một hình ảnh như vậy giữa một anh lính cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam với một anh cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà? Hai bên từng chiến đấu, mà cầm thứ vũ khí đều không phải do chính họ sản xuất.”

Theo tác giả và nhà văn Nguyễn Mộng Giác, hành động biểu diễn lập trường – thể hiện khuynh hướng chính trị – một cách thái quá, là một căn bệnh trầm kha đến từ cả hai phía. Ở cộng đồng hải ngoại cũng tồn tại cả những mặt trận và chiến dịch chống cộng một cách mù quáng.

Một điều ta có thể nhận thấy, từ trong thực tế cũng như từ trong từng trang viết và trang kể trước mặt, rằng hoà giải dân tộc không chỉ là câu chuyện của chính quyền và người dân, mà còn là giữa những người dân thường với nhau. Cuốn sách này chính là đại biểu cho nỗ lực của một nhóm trí thức đã suy ngẫm, đã nhìn nhận về con người trong ánh nhìn rộng rãi và cởi mở hơn. Nhiều trong số họ đã bị cầm tù trước khi đến Mỹ, đã từng mang nỗi căm hận với kẻ thắng trận, nhưng vẫn biết phân biệt rạch ròi người dân và chính quyền.

Để có được sự hoà giải cần có lòng can đảm dám nhìn thẳng và nói thẳng về sự thật của cuộc chiến huynh đệ tương tàn phi nghĩa và đau thương, và cần có sự bao dung chấp nhận quan điểm đa dạng của mỗi người, mỗi hoàn cảnh. Quan trọng nhất vẫn là sự sẵn lòng giúp đỡ nhau làm những người tử tế. Thực tế đã chứng minh rằng: rất nhiều con người ở hai phía sau bao biến cố vẫn giữ trọn vẹn nhân cách và luôn sẵn lòng hoà giải.

Bên cạnh câu chuyện về đường hòa giải vẫn còn nhiều gian truân phía trước, tác phẩm cũng bàn về tính độc lập của nhà văn trong việc tự do biểu đạt quan điểm, chính kiến của mình. Từ những khảo sát và phỏng vấn nghiêm túc, đạo diễn Thủy đã cho thấy, thực ra ở cả hai phía đều chịu áp lực từ những lực lượng kiểm duyệt. Nhưng những rào cản ấy chưa bao giờ là thành trì không thể vượt qua, như nhà văn Hoàng Khởi Phong, vốn là sĩ quan của Việt Nam Cộng hòa phát biểu:

“Tự do hay không là chính ở người viết, hãy cứ nhìn thật sâu vào cõi lòng mình, không è dè, không huý kỵ và phải viết cho thật hay, thật tới. Đừng bao giờ viết mà lúc nào cũng nơm nớp có ông chính uỷ ngồi chễm trệ trước mặt hay ông cộng đồng lấp ló ở phía sau. Nếu ở trong nước thì chẳng thà im lặng không sáng tác như Văn Cao, còn hơn là viết ngàn bài ca ‘cúng cụ’. Còn ở hải ngoại thì không bị một ai dí súng vào màng tang bắt viết thì hà cớ gì mà phải vừa viết vừa cảnh giác đề phòng cộng đồng biểu tình chống đối.”

Dẹp bỏ những thành trì quan điểm cùng những chính sách kiểm duyệt đầy định kiến cũng chính là cánh cổng đưa đến sự hòa giải, như ý kiến mà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nêu lên. Rằng, chính quyền hiện tại cần xóa bỏ cách gọi miệt thị “ngụy”, còn những người hải ngoại cần chấp nhận một thực tế là nước Việt Nam trên bản đồ thế giới ngày nay đã khác xưa rất nhiều.

Những cá nhân mang quan điểm cực đoan trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng dựng nên một cái khung đóng sẵn cho chính họ, cũng hô vang những khẩu hiệu đầy gai góc và nghi kỵ khi nói đến những vấn đề nhạy cảm cả trong đời sống chính trị lẫn văn chương.

Đó là biểu hiện của việc chống cộng một cách mù quáng, không khác tình huống các cây viết trong nước trước đây thường bị buộc phải nói xấu miền Nam, rằng miền Nam không làm nên trò trống gì, để được duyệt là có lập trường và có “tính đảng”. Cả hai bên họ đều mắc phải chứng định nghĩa “quốc gia” theo sự yêu ghét của cá nhân hay của cộng đồng cùng ý thức chính trị với họ.

Đến đây, hình ảnh biển cả một lần nữa trở lại với chúng ta, với bóng dáng của đạo diễn Thủy đang nỗ lực cất bước: đi hết biển, cũng là vượt qua đại dương của định kiến, của hận thù, của sự hẹp hòi dai dẳng và cũ kĩ. Nơi bên kia của biển, ta thấy được những lời kể, những chia sẻ thẳng và thật, thoát ly mọi định chế kiểm duyệt và tự kiểm duyệt, về sự ly hương của những người con đất Việt, nhưng không chỉ là sự phân ly về mặt địa lý, còn là sự ly tán của lòng người.


Đâu đó, trên một bãi vắng, biển đã đi hết, thuyền đã buông neo, lửng lơ trong tâm thức người đọc có thể là những dòng suy niệm đầy băn khoăn, trăn trở của tác giả, rằng:

“Nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình. Tôi không biết trong lịch sử thịnh, suy của đất nước tôi, có thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán lòng người sâu thẳm, dẫn đến việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không. Nhưng tôi biết rất rõ, không ít người việt xa xứ qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi mà cuối cùng không thể trở về quê mình làng mình được…”

Đoan Trang
Theo: luatkhoa.com