Wednesday, November 19, 2025

TRƯỜNG TƯƠNG TƯ - LÂM BỐ


Trường tương tư

Ngô sơn thanh,
Việt sơn thanh,
Lưỡng ngạn thanh sơn tương tống nghinh,
Thuỳ tri biệt ly tình.

Quân lệ doanh,
Thiếp lệ doanh,
La đới đồng tâm kết vị thành,
Giang đầu triều dĩ bình.


長相思 - 林逋

吳山青,
越山青,
兩岸青山相送迎,
誰知別離情。

君淚盈,
妾淚盈,
羅帶同心結未成,
江頭潮已平。


Trường Tương Tư
(Dịch thơ: Nguyễn Thi Bích Hải)

Núi non Ngô, Việt đều xanh,
Đôi bờ đưa đón, non xanh với mình.
Biệt ly ai thấu tâm tình,
Chứa chan dòng lệ mắt mình mắt ta.
Đồng tâm kết chẳng đặng mà,
Ngập ngừng ngọn nước chan hòa đầu sông.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lâm Bô 林逋 (967-1028) tự Quân Phục 君復, người đất Tiền Đường (nay là thành phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang). Từ lúc tuổi trẻ, ông đã không muốn rong ruỗi với đời, sau lui về ẩn cư ở Tây Hồ xứ Hàng Châu, nên còn có biệt hiệu là Tây Hồ xử sĩ. Thiên Ẩn dật truyện trong Tống sử mô tả ông: “Tính tình cao khiết, điềm đạm mà hiếu cổ, không muốn bon chen vào chốn phù hoa. Nhà nghèo, ăn mặc đều không được đầy đủ, nhưng vẫn luôn vui vẻ tự như... Ông về Hàng Châu, kết lều tranh tại Cô Sơn bên Tây Hồ. Hai mươi năm không đặt chân ra ngoài phố chợ.” (Tính điềm đạm hiếu cổ, phất xu vinh lợi. Gia bần y thực bất túc, yến như dã... Qui Hàng Châu, kết lô Tây hồ chi Cô Sơn, nhị thập niên túc bất cập thành thị)

Ông trồng mai nuôi hạc, thường đùa là “lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con” (dĩ mai vi thê, dĩ hạc vi tử), danh tiếng cao khiết của ông vang dội khắp thiên hạ, biết bao cao sĩ danh tăng đến xin yết kiến. Ông cùng với các danh sĩ như Phạm Trọng Yêm, Mai Nghiêu Thần, Cửu Tăng thường cùng nhau xướng hoạ.

Nguồn: Thi Viện



LA HÁN KHÔNG THUỘC KINH


Hai người Phật tử gặp nhau tại một quán nước trước cổng chùa, anh mập hỏi anh ốm:- Anh quy y tam bảo chưa?

- Chưa! (Anh ốm đáp).

- Anh có tụng kinh mỗi ngày không?

- Không! (Anh ốm lại đáp).

- Anh có thường dự pháp hội không?

- Không!

- Cái gì cũng không mà sao anh lại nói mình là Phật tử!?

- Ồ! Vậy làm thế nào mới có thể xưng mình là Phật tử hả anh? (Anh ốm hỏi).

- Ừ! Thì phải thuộc kinh, tụng kinh, trì chú mỗi ngày, nghe thuyết pháp, phải đi chùa vào các ngày rằm, mồng một! Anh không làm thế làm sao xứng với danh xưng con nhà Phật được, không làm thế thì sao gọi là tu?

- Vâng, tôi cũng có ý định làm như thế! Nhưng ngặt một nỗi tôi đi làm thường về muộn, mỗi lần mở kinh ra chưa đọc được bao câu lại thấy cái chị hàng xóm hì hục đẩy xe hủ tiếu ra cổng trọ nên tôi ra đẩy phụ, mới quay vào nhà ngồi xuống đọc thêm mấy câu lại nghe tiếng thằng bé phòng bên khóc ré lên. Ba mẹ nó đi làm công nhân trong xưởng may, nhưng tháng này lại bị trùng ca buổi chiều. Cả hai vợ chồng không có tiền gửi nhà trẻ nên đánh liều bỏ thằng bé trong nhà khóa cửa lại mà đi làm. Tôi thấy thế nên bảo họ đưa luôn chìa khóa để nhỡ thằng bé có gì còn vào mà xem nó. Thế là nghe nó ré lên tôi lại chạy sang xem sao. Tội nghiệp thằng nhỏ! Đấy thế nên tôi học cả tháng rồi mà còn chưa thuộc một bài chú, bài kinh nào cả!

Thời gian đọc tụng cũng không được như anh!

Mỗi tháng tôi cũng định đi chùa ngày rằm, mồng một dâng hương cúng phật, nhưng vợ tôi bảo hôm đó là ngày đi phát bánh mì cho mấy người lang thang. Vậy là ngày đó hai vợ chồng chạy xe lòng vòng để đi phát bánh mì, đến lúc phát xong thì trời đã tối quá nên không kịp vào chùa dâng hương cúng phật, nhưng tôi nghĩ, phật dạy mình làm thiện, mình làm thiện là dâng cả trái tim mình cho phật rồi, còn dâng hương, dâng hoa có được hay không chắc phật soi thấu lòng mình mà anh!?


- Anh mập (ơ... thì... tôi nghe người ta chỉ thế nên chỉ cho anh, anh không nghe thì tùy, ai tu nấy chứng mà!)

Mọi người xem ai đang học phật? Ai là người đang tu? Ai xứng là Phật tử?

Tu phật, học phật là ở cái tâm, từ cái tâm dẫn tới cái tay, cái chân, từ cái tay, cái chân sẽ đưa đến hành động (hành pháp), từ hành động mang đến lợi lạc cho mọi người (đó chính là thụ pháp). Đó đích thực là người đang tu, là người xứng danh Phật tử.

Ngược lại người nào tự xưng mình là phật tử, thuộc làu kinh điển, thập chú mà chỉ luyến láy, chú tâm đến cái hình thức bên ngoài. Có thể luận nói triết lý thâm sâu vi diệu đến tận cảnh giới niết bàn, mà sự (hành pháp), (thụ trì) chỉ như một phàm phu thì đó chưa phải là phật tử. Thuộc kinh nhiều chỉ như một quyển sách vụn nát, đọc kinh nhiều mà không hành trì cũng chỉ như nước chảy qua ống, tuôn ào nhưng không giữ được giọt nào!

Ngày Thế Tôn còn tại thế, có ngài Châu Lợi Bàn Đặc không thuộc nổi một bài kệ nhưng vẫn chứng quả A La Hán bởi sự hành pháp, thụ trì các pháp một cách cần mẫn, tinh tấn!
Thích Ca thành đạo là nhờ thực hành, từ đó mới mang truyền thụ cái kinh nghiệm thực hành đó đến chúng sanh, để làm gì? Để chúng sanh thực hành theo, chứ không có phải để học thuộc lòng theo hướng dẫn ấy!

Không có sự chứng đắc của một vị hành giả nào qua lời nói mà không có sự thực hành nghiêm mật cả!

Ngày nay, người ta chỉ chú trọng hình tướng lý thuyết bên ngoài, không mấy quan tâm đến sự thực hành các pháp cho nên có thể thấy người tu thì nhiều, người chứng lại chẳng mấy ai!?


Ngay trong kinh Bát Nhã ta cũng thấy rõ việc thực hành của bồ tát Quán Thế Âm:
(...hành thâm Bát Nhã Ba La Mật Đa Thời...), phải trải qua sự thực hành thâm sâu, triệt để mới ngộ ra được cái chánh ý đó chứ không phải chỉ là học thuộc lòng vào đầu, rồi từ đầu đưa lại cái môi, từ cái môi đưa tới cái lưỡi, từ cái lưỡi đến cổ họng, rồi phát thành lời, như vậy thì cái điều mà họ đọc được, nghe được đó lại trở vào rồi trở ra.

Như nước vào đầu ống rồi chảy ra nơi cuối ống, đâu có chuyển biến gì trong thân, trong tâm thì cái đó sao gọi là tu cho được!?

Mỗi người phải tự phản tỉnh lấy mình, đừng bắt chước ai ngoài Thích Ca Mâu Ni.
Hãy thực hành pháp phật mọi lúc, mọi nơi trong đời sống, đó mới thật sự là người đang tu, và sẽ sớm ngày viên mãn!

Chúc tất cả thân tâm thường lạc! Thực hành các pháp, xứng danh con nhà Phật.

Trích học phật giữa đời thường ân sư Tuệ Minh

Tuesday, November 18, 2025

NGHIỆP CỨ TRẢ - PHƯỚC CỨ LÀM – ĐẠO CỨ TU


1. NGHIỆP CỨ TRẢ

“Nghiệp” cứ trả, tức là do trước khi biết Phật pháp, ta không biết được Luật Nhân Quả, không biết thế nào là chấp ngã, là vô ngã, không biết điều nào là điều thiện, điều nào là điều ác, không biết đúng không biết sai. Vì vậy ta tạo một mớ tội mà không biết đó là tội thì gọi là vô minh. Cho nên chư Phật, Thánh thần không trách ta vì biết rằng: “Tội nghiệp chúng sinh là vô minh tăm tối nên các Ngài thương”. Tuy Phật thương, nhưng còn điều sai ta đã làm thì vẫn phải trả quả báo, không tránh đâu được, cái đau là chỗ đó. Mà khi trả nghiệp thì không dễ chịu chút nào, vì ta đã gây khổ cho người khác.

Bây giờ biết đạo rồi, và cũng biết rằng trong quá khứ vì vô minh ta cũng đã lỡ tạo nghiệp thì quả báo sẽ phải đến. Và người đệ tử Phật của ta quan niệm rằng: Thôi! nghiệp cứ trả, có nghĩa là chấp nhận, chịu đựng, không nản lòng. Ở đây, Thượng toạ muốn nhấn mạnh đến quan niệm “cứ” trả của một người đệ tử Phật rất khác với một người không biết Phật pháp, họ trốn nghiệp không chịu trả là chỗ:

- Thứ nhất, khi đau khổ tới thì người không biết đạo họ xoay sở đủ cách để tránh (tránh bệnh, tránh tật, tránh nạn) và trong khi xoay sở đủ cách đó, có khi họ tạo nghiệp mới nữa mà còn ác hơn. Trong khi người biết đạo, nghiệp cứ trả, họ chấp nhận khổ đau, chấp nhận đối diện cả với cái chết, miễn đừng gây nghiệp mới. Do vậy, mỗi khi thấy tai hoạ tới mà ta xoay sở đủ cách để tránh, coi chừng mình rơi vào trạng thái của người không biết đạo. Nếu tránh được ta cũng tránh chứ không thụ động, không buông xuôi, nhưng bằng cách nào đó chứ không chấp nhận gây tội thêm nữa.

- Thứ hai, khi nghiệp tới, ví dụ như khi bị phá sản, cơ nghiệp suy sụp, gia đình tan nát, mắc bệnh không trị được, v.v… người không biết đạo thì quýnh quáng, bất an, khổ đau, buồn rầu; còn người biết đạo thì chấp nhận bình thản. Như vậy mới gọi là nghiệp “cứ” trả. Thế nhưng, người nào trong cái trả nghiệp đó mà bình thản được thì gọi là người có đạo lực tu hành. Biết nhau tu giỏi hay không là lúc trả nghiệp.


2. PHƯỚC CỨ LÀM

Tức là khi đã hiểu đạo, hiểu được nhân quả rồi thì không một người đệ tử Phật nào khờ dại làm biếng làm phước cả, ngược lại, ai cũng chỉ có một điều khát khao làm phước, làm phước và làm phước. Người chưa phải Thánh thì cái khát khao tạo phước rất ít, ngược lại, người có chất Thánh thì khát khao tạo phước thật mãnh liệt.

Nguyên nhân của những dằn vặt đau khổ mà người nghèo phải trải qua đó là luôn khát khao được giàu có. Phải làm phước, phải có phước thì mới có tiền. Còn suốt ngày chỉ ngồi nghĩ về tiền thì tiền càng không đến, càng mong muốn nhiều tiền thì tiền càng không có. Không mong cầu, không mong giàu chính là đạo lý.

Tuy nhiên, không phải ai muốn làm phước là được toại nguyện. Phải có phước rồi mới làm phước được. Do tâm ta thiết tha làm phước mà phước đời trước không nhiều, vì vậy ta chỉ làm phước nho nhỏ mà thôi, nhưng dù làm nhỏ ta vẫn cứ làm. Không phải đợi có điều kiện mới làm phước lớn. Cứ làm phước nhỏ rồi mới có phước lớn, có phước lớn rồi mới làm phước lớn được.

Nhân đây, Thượng toạ nhắc nhở: Làm phước không dễ, bởi vì: thứ nhất là chưa có phước; thứ hai khó làm phước là vì lười. Làm phước phải mất công, mất thời gian, mà từ lâu ta bị cái tật lười nên không làm phước được. Muốn làm phước cũng phải thắng được cái lười này. Trong Tứ Chánh Cần Phật dạy: chữ “cần” tức là cần mẫn; siêng năng là ám chỉ cho việc làm phước, còn “tấn” tức là tinh tấn ám chỉ cho việc ngồi thiền. Làm phước khó do ta bị lười, cho nên phải tu tập cái hạnh tinh cần, siêng năng, chịu khó, chịu cực, còn không thì không làm được. Người quen lười cứ ngồi nhìn hay sai người khác làm thì bản thân cũng không làm phước được.

Thêm nữa, làm phước là giúp đời, giúp người, nếu ta không thương đời, không thương người thì không có sức mạnh để làm phước, nên muốn làm phước ta phải có tâm từ bi. Ngoài ra, làm phước không dễ vì bị cản trở bởi công việc, bởi hoàn cảnh gia đình. May mắn hơn, những ai đang có công ăn việc làm thì ta làm phước ngay trong công ăn việc làm của mình. Ví dụ: mình là người công chức thì ráng phục vụ dân cho tốt; còn người trong cơ quan, công xưởng thì ráng làm cho tăng công suất, để đóng góp vào sự thành công của cơ quan, đó cũng là việc làm phước. Cho nên, Thượng toạ thường khuyến khích các phật tử:

Mỗi người làm việc bằng ba
Chính mình có phước, nước nhà vinh quang.

Nước ta không giàu bởi vì dân mình làm việc ít năng suất quá, thua các nước trên thế giới gấp 3,4 lần. Bây giờ mỗi người Việt Nam mạnh hơn, làm nhiều hơn thì ta mới bắt đầu thoát nghèo được. Cho nên phải cố gắng tăng năng suất lên. Muốn làm phước thì ngay trong công việc mưu sinh ta cũng làm được, còn nếu không có công việc mưu sinh thì phải ráng tìm tòi bất cứ công việc gì đó mà bòn mót tạo phước. Sợ nhất là không có gì để làm.


3. ĐẠO CỨ TU

Đạo là bắt đầu bước vào thế giới tâm linh siêu việt đi về con đường giác ngộ, giải thoát, vô ngã. Còn cái ta làm phước thật sự chưa phải là đạo giác ngộ siêu nhiên mà Phật dạy, đó mới chỉ là đạo đức thôi. Sống trên đời, nghiệp ta biết trả; phước ta biết làm… đó là đạo đức; còn để bắt đầu bước vào đạo ta biết tu là một tầng bậc khác, một đẳng cấp mới của loài người rồi. Ví dụ nghiệp trả thì ta vẫn là đẳng cấp của con người, biết tạo thêm phước cũng chỉ là đẳng cấp của con người, nhưng nếu biết tu thì ta bắt đầu vượt khỏi thân phận của con người để bước lên làm Thánh. Mà tu theo đạo là hướng về tâm linh vô ngã, phải làm sao lắng được tâm yên tĩnh, vô niệm, nhất như để đi sâu dần và cuối cùng đạt được vô ngã tuyệt đối, đó là mục tiêu tu hành trong đạo Phật. Do vậy, việc tu hành khó gấp triệu lần, thời gian không thể tính kể được so với việc trả nghiệp hay làm phước.

Thượng toạ đã liệt kê ra nhiều cái khó của việc tìm con đường, tìm Thầy hướng dẫn cũng như việc thực hành tu tập. Qua đó, Người khuyến khích các phật tử phải hết sức nỗ lực tu tập, tu được giờ nào, phút nào tốt giờ đó, vì mỗi cái đều là nhân lành để ta đắc đạo sau này. Cho dù chưa đắc đạo viên mãn, dù vẫn còn trên con đường đi, nhưng với sự tu hành chân chính, mình vẫn giáo hóa người khác, vẫn làm lợi ích cho chúng sinh được rồi. Đó cũng là điều ta đền ơn Phật được.

Trong việc tu tập thì định tâm là chính, ta phải định được tâm để đi về vô ngã. Nhưng muốn định được tâm thì ta phải có ba điều hỗ trợ”: “Một là đạo đức, mới tu thiền được. Hai là phải có nhiều phước, mới tu thiền được. Ba là có khí công để rèn luyện nội lực bên trong, hỗ trợ cho việc tu hành.”

Theo: langzen.vn (st)

MÃ THI KỲ 5 - LÝ HẠ


Mã thi kỳ 5

Đại mạc sa như tuyết,
Yên sơn nguyệt tự câu.
Hà đương kim lạc não,
Khoái tẩu đạp thanh thu?


馬詩其五

大漠沙如雪
燕山月似鉤
何當金絡腦
快走踏清秋


Thơ về ngựa kỳ 5
(Dịch thơ: Nguyễn Minh)

Sa mạc cát như tuyết
Núi Yên trăng móc câu
Bao giờ rọ vàng thếp?
Phi nhanh trong trời thu?


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Thi quỷ Lý Hạ 李賀 (790-816) thuộc dòng dõi tôn thất nhà Đường, cực kỳ thông minh đĩnh ngộ, khi mới lên bảy đã biết làm thơ. Danh sĩ đương thời là Hàn Dũ nghe tiếng Hạ bèn cùng Hoàng Phủ Thực đến nhà. Hai người muốn thử tài nên bắt Hạ làm thơ. Hạ thản nhiên cầm bút viết ngay bài Cao hiên quá trình lên, hai ông xem xong đều kinh hoảng. Bài thơ Cao hiên quá có những câu vô cùng kỳ dị, nếu đúng là do một cậu bé làm ra như giai thoại được kể trong Thái bình ngự lãm thì hai nhà thơ đương thời có kinh tâm động phách cũng là điều dễ hiểu: “Điện tiền tác phú thanh ma không, Bút bổ tạo hoá thiên vô công” (Trước nhà, làm thơ trình, thanh âm của bài thơ chạm vào bầu trời, Ngọn bút bổ sung những chỗ khiếm khuyết bất toàn của tạo hoá một cách dễ dàng, không tốn chút công sức).

Theo tiểu truyện về Lý Hạ do Lý Thương Ẩn - một nhà thơ lớn thời Vãn Đường - viết, thì khi Lý hạ bệnh nặng, bỗng có một vị tiên mặc áo lụa đào, cưỡi con cù long màu đỏ, bay đến bên cửa, cầm một cuốn sách, chữ giống như chữ triện thời thái cổ, trao cho Lý Hạ và nói: “Thượng đế đã cho xây xong lầu Bạch Ngọc, xin mời ông lên gấp để viết cho bài ký” (Đế thành Bạch Ngọc lâu, lập quân chiêu vi ký). Lát sau Lý Hạ mất. Người nhà thấy hơi và khói thấp thoáng qua cửa sổ, và nghe tiếng xe đi trong tiếng sáo réo rắt. Trong lịch sử Đường thi, có lẽ chỉ có Thi Tiên Lý Bạch và Thi Quỷ Lý Hạ mới có huyền thoại chung quanh cái chết mà thôi. Một người nhảy xuống sông ôm trăng rồi cưỡi con kình ngư lên cõi thiên khung (tương truyền khi Lý Bạch nhảy xuống sông ôm trăng thì có con kình ngư tới đón và chở lên trời), một người được Thượng đế cho tiên nhân đem xe nhạc đến mời lên viết bài ký cho lầu Bạch Ngọc chốn thiên đình. Ai dám khẳng định điều đó là hoang đường không thực, khi mà cõi đời tự bản chất đã là sắc sắc không không?

Nguồn: Thi Viện



CẢ ĐỜI, ĐIỀU ĐÁNG SỢ NHẤT KHÔNG PHẢI NGHÈO KHÓ MÀ LÀ ĐÁNH MẤT HAI THỨ NÀY

Trong đời, có những thứ mất đi có thể tìm lại, nhưng cũng có những thứ một khi đã vỡ, sẽ chẳng bao giờ lành như xưa. Đó chính là niềm tin và tấm chân tình.


Tiền bạc mất có thể kiếm lại, cơ hội lỡ có thể tìm thêm, nhưng hai điều dưới đây một khi đã đánh mất thì khó mà hàn gắn: N iềm tin và tấm chân tình . Niềm tin như làn nước trong, một khi bị vẩn đục sẽ khó trở lại nguyên vẹn; chân tình như chiếc gương, đã vỡ rồi thì không thể ghép lại hoàn hảo. Giữ được hai thứ này là giữ được sự ấm áp, sự gắn kết và những điều đẹp nhất trong đời.

1. Niềm tin – sợi dây vô hình kết nối trái tim

Niềm tin giống như dòng nước mát, trong vắt và thuần khiết. Một khi bị nhuốm bẩn bởi sự nghi ngờ hay dối trá, rất khó để trở lại nguyên lành. Người ta tin bạn nghĩa là họ bỏ xuống hàng rào phòng bị, mở cánh cửa lòng để bạn bước vào. Bởi tin tưởng, họ mới không giấu giếm; bởi coi trọng, họ mới dám phơi bày mọi điều.

Được người khác tin là một loại may mắn, nhưng giữ được sự tin ấy lại là cả một nghệ thuật sống. Đừng bao giờ để người đã tin mình phải thất vọng, bởi một khi niềm tin rạn nứt, mọi khoảng cách sẽ lại hình thành.


2. Chân tình – món quà quý giá không thể mua

Tấm chân tình là thứ không thể cân đo đong đếm, lại càng không thể mua bằng tiền. Khi ai đó yêu thương, quan tâm bạn thật lòng, nghĩa là họ đã trao cả trái tim. Bởi trân trọng, họ mới sẵn sàng nhường nhịn; bởi thương mến, họ mới chịu hy sinh.

Nếu một ngày, người hết mực yêu thương bạn lại bị bạn làm tổn thương, vết đau ấy sẽ hằn sâu như nhát dao vào tim. Và cũng như chiếc gương đã vỡ, dù có ghép lại vẫn còn nguyên những đường nứt không thể xóa.


3. Đừng để người tin mình phải lạnh lòng, đừng để người thương mình phải rời xa

Cả niềm tin và chân tình đều là những "tài sản" vô giá mà đời không dễ ban tặng lần thứ hai. Khi bạn thật lòng, người khác mới dám thật dạ; khi bạn biết ấm lòng người khác, tình cảm mới khăng khít bền lâu.

Trong suốt cuộc đời, số người thật sự đối tốt với bạn có lẽ chỉ đếm trên đầu ngón tay. Một khi đã gặp, xin hãy trân trọng, đừng tính toán, đừng lợi dụng. Bởi đánh mất họ, bạn sẽ mất đi cả một phần ấm áp của đời mình.

Tích Thành / Theo: Thanh Niên Việt

CHUYỆN CÁI LON BIA

Ngày nghỉ cuối tuần, trong lúc vợ đi chợ, anh ta ở nhà, pha bình trà nhâm nhi. Ngồi buồn, anh lấy lon bia ra nhấm nháp. Bỗng anh nảy ra một “sáng kiến”, gật gù khoái chí. Uống xong, anh ném luôn vỏ lon ra đường, rồi nhìn chằm chằm vào chiếc vỏ lon nằm chỏng chơ ở đó.


Thế gian có 4+1 kiểu người

Chẳng lâu sau đó, một người đàn ông đi tới, vô ý giẫm phải chiếc lon, trượt chân suýt ngã. Hậm hực nhìn quanh bằng đôi mắt đỏ ngầu tức giận, ông ta buông vài câu chửi tục, rồi bỏ đi.

Một lúc sau, có cô gái bước tới, suýt giẫm phải chiếc vỏ lon, nhưng may thay, cô đã kịp thấy và thản nhiên đi tiếp.

Chừng mười phút nữa, một em bé nhìn thấy, vội vàng chạy tới nhặt vỏ lon, đem bỏ vào thùng rác công cộng.

Vợ vẫn chưa về, anh lại chăm chú nhìn xuống lòng đường. Chiếc xe rác leng keng đi tới. Những người công nhân lại nhặt chiếc vỏ lon ấy, bỏ vào chiếc túi riêng, treo bên cạnh chiếc xe.

Vợ đi chợ về, anh hớn hở khoe: “Ngày hôm nay anh chiêm nghiệm được một điều rất kỳ thú nhé”, rồi thuật lại cho vợ chuyện vừa xảy ra.

Anh phấn khích rút ra triết lý sống ở đời: “Vậy là trong xã hội có 4 loại người. Loại thứ nhất trước việc sai trái chỉ biết chửi cho sướng miệng mình, thật đáng phê phán. Loại thứ hai bình chân như vại, việc sai mặc ai, thật đáng chê. Kiểu thứ ba là thấy việc sai trái không thuận mắt, sửa ngay. Còn kiểu người thứ tư, thật đáng khâm phục. Họ biết tìm niềm vui trong lao động, cải tạo những thứ vô ích để trở thành thứ có ích”.

Anh cười lớn với sự “chiêm nghiệm sâu sắc” của mình, nhưng nhìn sang vợ, anh lại thấy cô có nét buồn. Anh bèn hỏi vợ: “Anh nói sai hay sao mà trông em nhăn nhó thế?”.

– Em rất buồn vì không ngờ…

– Không ngờ gì?

– Không ngờ anh quên đi một loại người đáng phải nói. Loại người là thủ phạm của việc sai trái, nhưng không chịu nhìn để thấy, mà lại chỉ thích phán xét và tìm lỗi ở người khác. Những con người ấy, theo anh thì phải kết luận thế nào đây?

Nghe vợ nói, anh ta ngồi đơ ra như một pho tượng.


Biết cái sai của mình là Trí, không tính đến cái sai của người là Nhân

Kỳ thực, thấy cái sai của người khác và buông lời phán xét là việc rất dễ dàng. Thế nhưng, để hướng nội – tự nhìn vào bản thân để thấy thiếu sót của mình, đồng thời không phán xét, nhìn thấu nguyên nhân đằng sau cái sai của người khác, để hiểu và cảm thông, thì không phải ai cũng có thể làm được.

Bởi lẽ, con người ta sinh ra, ai cũng có “cái tôi”, với khuynh hướng tự bảo vệ cho lý lẽ, quan điểm cá nhân, khi xảy ra sự việc thì nhìn vào người khác chứ không xét lại lỗi mình, không muốn thừa nhận rằng mình sai. Sai lầm khiến người ta xấu hổ và cảm thấy mình kém cỏi chăng? Nhưng làm người, có ai chưa từng phạm phải lỗi lầm chứ? Chúng ta chẳng phải đều trưởng thành từ những lần thử và sai đó ư, kể cả việc nhìn thấy cái sai của người khác để dặn lòng không bao giờ mắc phải những lỗi như vậy!

Vậy nên, hãy nghiêm túc soi xét lại mình và sửa sai, và hãy bao dung cho sai lầm của người khác. Chúng ta không muốn sống trong một môi trường, nơi mà những sai lầm nhỏ trở thành cái cớ để bị dè bỉu, phán xét, quy chụp. Vậy, xin đừng góp gió thành bão mà tạo nên cái văn hóa ấy.

Đừng chỉ nhìn bằng cặp mắt dò xét, cũng đừng ngạo nghễ, cho mình là cao minh hơn người như anh chàng trong câu chuyện. Người khiêm tốn, luôn biết tự tu sửa bản thân, ắt sẽ có trí huệ, được mọi người yêu kính. Người có thể thấu hiểu nỗi khổ và cái khó của người khác, thiện ý lý giải lỗi lầm của người khác là người có tấm lòng nhân từ độ lượng, khiến mọi người mến phục.

Team Uống Trà Thôi sưu tầm

Monday, November 17, 2025

CÂU CHUYỆN LY KỲ VỀ CA KHÚC BẤT HỦ "HOTEL CALIFORNIA"

Bên cạnh giai điệu tuyệt vời, những câu chuyện ly kì đã phủ lên ca khúc một màn sương huyền ào, khiến nó càng trở nên bất tử trong lòng người nghe.


Tranh cãi về địa danh Hotel California

California là một trong những thành phố nổi tiếng nhất nhì của nước Mỹ. Nơi đây không những sản sinh cho làng nhạc thế giới những nghệ sĩ tài ba mà còn là nguồn cảm của nhiều ca khúc bất hủ. Trong đó, ca khúc Hotel California đã đi vào huyền thoại cùng tên tuổi của ban nhạc Eagles.

Kể từ khi ra đời (năm 1976 ) đến nay, địa danh Hotel California vẫn luôn là một bí ẩn mà người hâm mộ đi tìm kiếm. Xung quanh tựa đề của ca khúc này là nhiều câu chuyện kỳ lạ xen lẫn rùng rợn được thêu dệt từ trí tưởng tượng của những người hâm mộ.


Một số người vẫn cho rằng, ca khúc viết về một quán trọ có thật mang tên Hotel California. Tuy nhiên, dù có một Hotel California ở Todos Santos - thị trấn nhỏ nằm trên bán đảo Mexico’s Baija California, thế nhưng, mối quan hệ duy nhất giữa khách sạn California này và bài hát Hotel California của Eagles chỉ là cái tên. Chưa có thành viên nào của The Eagles từng nghỉ tại khách sạn này và cũng không ai trong nhóm có ý tưởng về khách sạn ấy khi họ viết bài hát mà sau đó đã trở nên rất nổi tiếng kia.

Từ chối đỉnh cao

Theo những gì The Eagles từng chi sẻ, Hotel California chỉ đơn giản là một bài hát phản ánh về chủ nghĩa vật chất và sự dư thừa quá mức tại miền nam California trong những năm 60 của thế kỷ trước. Trong ca khúc này, The Eagles sử dụng rất nhiều hình ảnh liên quan tới tình dục và cuộc sống trụy lạc. Tuy nhiên, ca khúc này cũng tồn tại khá nhiều câu từ mang tính mâu thuẫn và khó hiểu như "They stab it with their steely knives but they just can't kill the beast" (Họ đâm nhau bằng những con dao thép, nhưng họ không thể giết chết con quái vật trong con tim). Điều này về sau cũng đã được lý giải là lối chơi chữ mà The Eagles dành cho Steely Dan khi cả 2 ban nhạc này từng cạnh tranh lẫn nhau và có cùng chung một người quản lý.


The Eagles

The Eagles phải thu tới 3 lần ca khúc Hotel California trước khi phiên bản hoàn chỉnh được ra đời với phần hòa âm phối khí tỉ mỉ và phức tạp. Chỉ 2 năm sau khi ra mắt, ca khúc đã nhanh chóng trở thành hít lớn trên toàn thế giới. Không dừng lại ở đó, bài hát xuất sắc đem về cho The Eagles giải thưởng ghi âm của năm tại lễ trao giải Grammy lần thứ 20.

Tuy nhiên, ban nhạc lại từ chối giải thưởng này và vắng mặt tại lễ trao giải khiến rất nhiều người hâm mộ phải bất ngờ. Đây có lẽ cũng là một tiền lệ hiếm hoi trong làng âm nhạc thế giới bởi có rắt ít nghệ sĩ từ chối một giải thưởng âm nhạc lớn như Grammy.


Quay trở lại với ca khúc Hotel California, phiên bản ra mắt năm 1976 có vẻ như vẫn chưa làm các thành viên của The Eagles hài lòng. Vì vậy, nhóm quyết định thực hiện lại bản live của ca khúc trong lần tái hợp năm 1994 (album Hell Freezes Over). Album này lại tiếp tục vươn lên vị trí no.1 ngay trong tuần đầu tiên ở US. Bảy thành viên cũ và mới của Eagles đã cùng trình diễn bản này năm 1998 khi họ được giới thiệu vào Rock And Roll Hall Of Fame.

Bìa của album là hình chụp khách sạn Beverly Hills Hotel, được biết đến với tên Pink Palace, nơi thường được các ngôi sao Holywood lui tới. Bức ảnh được chụp bởi hai nhiếp ảnh gia David Alexander và John Kosh. Họ đã túc trực ở đại lộ Sunset Boulevard, canh đúng thời điểm để lấy được cảnh khách sạn nhìn qua những hàng cây lúc hoàng hôn.

Những truyền thuyết ly kỳ

Mặc dù sau rất nhiều lần The Eagles trả lời phỏng vấn, ca khúc này chỉ mang một ý nghĩa ẩn dụ. Nhưng trên Internet vẫn còn lan truyền rất nhiều câu truyện rùng rợn liên quan đến ca khúc này mà tiêu biểu là 3 giả thuyết dưới đây.

Một số người khẳng định, bài hát này có liên quan đến bệnh viện Camarillo - một bệnh viện tâm thần của Nhà nước. Hotel California là biệt danh của bệnh viện này. Với những bệnh nhân của bệnh viện, lời của bài hát dường như phản ánh đúng những bế tắc tâm lý mà họ đã phải trải qua. Những hình ảnh trong bài hát được lý giải như là những ảo giác nối tiếp nhau giữa tỉnh và điên.

Tuy nhiên, giai thoại nổi tiếng nhất liên quan đến bài hát này là lời đồn cho rằng, bài hát liên quan đến một quán trọ quỷ dữ, của những kẻ ăn thịt người. Lời bài hát giống như căn nguyên của nhiều học thuyết về quỷ Satan. Tuy nhiên lời đồn đại này có lẽ xuất phát từ bìa của album một tấm ảnh chụp cảnh hoàng hôn trên sân của một khách sạn có thiết kế kiểu một quán trọ Tây Ban Nha. Những người trên bức ảnh như vô thức với niềm hân hoan của những bóng quỷ quanh họ. Vẻ vô thức đã tạo cho người xem cảm giác những con người kia đang lang thang trong ngôi nhà của quỷ dữ.


Người ta đã đồn rằng, bài hát viết ra để tỏ lòng tôn kính với địa điểm Kinh của quỷ Satan (Satanic Bible) ra đời. Những kẻ thờ quỷ dữ đã mua một nhà thờ cũ và đổi tên thành Hotel California. Có lẽ đã có thành viên của The Eagles đã có liên hệ mật thiết với những kẻ này. Những lời đồn đại còn cho rằng, ảnh bìa của album có lẽ đã được chụp gần trụ sở chính của Nhà thờ Quỷ dữ (Church of Satan), nhà thờ này đã “đăng ký” ở California dưới cái tên Hotel California.

Một số lời đồn khác lại cho rằng, Hotel California là một quán trọ, chủ nhân là những kẻ ăn thịt người. Quán trọ đón khách vào buổi tối và khách sẽ không bao giờ trở về: "You can check out any time you like, but you can never leave.” (Anh có thể trả phòng bất cứ khi nào anh muốn. Nhưng anh sẽ không bao giờ có thể rời khỏi đây…).

Lời đồn khác lại cho rằng, Hotel California nói về con đường dẫn đến nghiện ngập ma túy: "Warm smell of colitas rising through the air" (Mùi ấm nồng của colitas dâng đầy trong không khí), và từ “Hotel California” được xem như là một tên lóng của một loại cocaine.

Theo: Đất Việt