Thursday, December 4, 2025

CUA SỐNG NGÂM TƯƠNG CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC

Cua ngâm tương gejang là món ăn truyền thống và rất tốn cơm của người Hàn Quốc từ thế kỷ 17.


Cua ngâm tương trong tiếng Hàn được gọi là gejang hoặc gejeot, tùy từng vùng miền. Đây là một trong các loại geotgal (món ướp muối hoặc ngâm tẩm tương ăn kèm với cơm hoặc dùng như gia vị để tăng hương vị khi nấu món khác). Từ gejang gồm hai chữ, ge nghĩa là cua và jang nghĩa là tương hoặc gia vị.

Gejang truyền thống được làm bằng cách đem những con cua còn sống ngâm với tương. Ngày nay, phiên bản gejang cay ngâm thêm tương và bột ớt được thực khách ưa chuộng hơn, từ đó hình thành cách gọi ganjang gejang để chỉ loại truyền thống, trong khi yangnyeom gejang để gọi cua ngâm đã nêm thêm gia vị kiểu mới.

Để gejang ngon phải chọn những con cua gạch rửa sạch và xếp chồng lên nhau thành từng lớp, phần mai cua úp xuống trong hũ sành. Nước tương đã được trộn sẵn, nấu sôi để nguội rồi rưới lên cua đến khi ngập hũ. Sau vài ngày, chắt tương ra tiếp tục nấu sôi để nguội và đổ vào hũ. Lặp lại bước này 3-4 lần trong khoảng hai tuần là có thể thưởng thức cua.

Ngâm xong cua được bóc mai, cắt miếng phần thân để dễ ăn hơn. Ảnh: Guide.Michelin

Trước đây, người Hàn Quốc chỉ dùng chamge (loại cua đồng Trung Quốc) thường thấy ở các dòng sông, suối, ven cửa sông và đồng lúa. Trong đó, cua bắt ở hạ lưu sông Imjin vào mùa thu là ngon nhất vì nhiều trứng và gạch. Tuy không nhiều thịt như cua nước mặn, chamge vẫn được đánh giá cao vì hương vị đặc biệt. Gejang từ cua đồng Trung Quốc thường mặn hơn so với gejang cua nước mặn. Vì vỏ dày hơn mà quá trình ngâm ướp tương có thể kéo dài vài tháng, và tương pha cũng cần hàm lượng natri cao để bảo quản được lâu hơn.

Khi lượng cua đồng Trung Quốc ngày càng giảm theo thời gian vì nhiều sông suối bị ô nhiễm, người Hàn Quốc bắt đầu tiêu thụ các loại cua nước mặn như cua biển và ghẹ để làm gejang. Hai loại này có kích thước lớn hơn cua đồng nhưng chỉ cần ngâm tương khoảng một tuần là ăn được.

Nhiều cuốn sách từ thời Joseon (1392-1910) đề cập tới gejang đã là món ăn của người Hàn Quốc từ thế kỷ 17. Theo cuốn Sallim Gyeongje, khoảng cuối thế kỷ 17, gejang làm bằng cua đồng ngâm muối, rượu gạo trong và bã rượu. Phương pháp này sẽ giữ cua để được lâu hơn. Ngoài ra, các ghi chép cũng nhắc tới nước muối, dấm và tương thường dùng làm nguyên liệu để bảo quản cua sống. Theo cuốn Gyuhap Chongseo, một bước quan trọng khi chuẩn bị làm gejang là đặt những con cua sống vào hũ sành có thêm một vài miếng nhỏ thịt bò sống, để hương vị ngọt đậm hơn. Cũng theo các tư liệu cổ, gejang được xem là đặc sản và làm món ăn kèm trong các bữa cơm của hoàng đế Hàn Quốc nhiều thế kỷ qua.

Với dân Hàn Quốc, cua ngâm tương là món rất tốn cơm vì vị mặn đặc trưng, những người thích gejang thường ăn với cơm ngon tới mức họ không nhận ra đã ăn nhiều cơm cỡ nào. Thực khách có thể ăn gejang theo nhiều cách khác nhau, một số hút thịt mềm trực tiếp từ vỏ cua, số khác lại mê kiểu trộn thịt và trứng cua với cơm ngay trong chiếc mai.


Ở Hàn Quốc, ghẹ có hai mùa trong năm là tháng 4 đến 6 khi những con cái đầy trứng và thịt chắc ngọt, và tháng 9-10 khi con đực béo hơn. Ghẹ cái thường có hương vị ngon hơn đực vì có thêm gạch và trứng mềm như bơ sau khi ngâm tương xong. Trong khi đó, cua đồng Trung Quốc được đánh bắt vào tháng 8-11 và chỉ ở khu vực sông Imjin ở tỉnh Gyeonggido gần Paju, các cánh đồng và suối nhỏ của tỉnh Gyeongsangdo.

Khánh Trần / Theo: Guide.Michelin



Wednesday, December 3, 2025

DANH LỢI - MÊ TRƯỚNG CỦA KẺ CHƯA TỎ TÂM MÌNH


Có kẻ vì một câu khen mà hớn hở cả ngày. Lại có kẻ vì một lời chê mà mất ngủ cả đêm.

Chút danh mà hư, chút lợi mà mỏng. Vậy mà đủ khiến con người dấn thân, tranh đoạt, khổ lụy suốt đời.

Danh đến thì mừng, danh mất thì sầu. Lợi tới thì giữ, lợi đi thì tiếc.

Được một bước thì kiêu, thua một phần thì oán.

Cả đời sống trong được-mất, vui buồn như con thuyền nhỏ giữa sóng đời.

Người như thế, há chẳng khổ sao?

Người mê danh lợi, phần nhiều là người chưa hiểu chính mình.

Không rõ căn tánh, không tỏ mệnh trời. Nên mới lấy ánh mắt người đời làm thước đo. Lấy lời khen chê làm gió mát hay sấm giật.

Họ sống vì bên ngoài. Nên lòng không vững, tâm không yên.

Một lời tung hô khiến tim đập nhanh. Một lời phê phán khiến máu sôi trào.

Thật ra, không phải đời quá phũ. Mà vì tâm họ quá yếu mềm trước danh lợi.


Người biết mình là ai, không cần ai nhắc mới nhớ. Người rõ đường mình đi, không vì ai quên mà lạc.

Có câu:

“Tâm bớt động trước danh, thân mới an giữa thế.”

Danh là bóng, lợi là mây. Chạm vào tưởng chắc, nhưng lại trống rỗng.

Vui trong khoái cảm chốc lát. Nhưng sau đó là lo, là sợ, là chấp niệm khôn nguôi.

Một đời như vậy, dẫu có vinh, cũng là vinh giả. Dẫu có lợi, cũng là lợi cạn.

Vì chưa sống một ngày cho thanh thản. Chưa từng ăn một bữa cơm nào cho thật an tâm.

Danh đến – cứ đến. Lợi đến – cứ đến. Cũng như trăng soi mặt nước. Lặng lẽ, thong dong, không để lại vết.

Được – không kiêu. Mất – không sầu. Đó là người đã qua bên kia bờ danh lợi.

Người như vậy, không cần nói cao xa, không cần áo gấm, tiếng vàng. Chỉ cần ánh mắt tĩnh, dáng ngồi yên, cũng đủ khiến người khác cúi đầu mà tôn trọng.

Vì khí chất không từ bên ngoài mà ra, mà từ cái tâm thanh khiết dưỡng nên.


Danh là giả danh. Lợi là vọng lợi. Nếu không tỉnh, thì cả đời cứ chạy.

Chạy tới lúc xuống huyệt còn chưa biết vì sao mỏi chân.

Chi bằng, sớm tĩnh tâm mà xét: Ta là ai? Ta sống vì điều gì?

Nếu không vì danh, không vì lợi. Thì còn lại là “Chân”.

Mà Chân, mới là thứ không đổi theo thời gian. Không phai theo tuổi tác. Không mất khi người đời quay lưng.

Danh lợi, nhìn thì rực rỡ, nhưng cầm vào lại bỏng tay mình.

Chỉ có người tỏ tâm, rõ mệnh. Mới biết dừng đúng chỗ, đi đúng đường.

Không tranh, mà thành.
Không cầu, mà đủ.
Không khoe, mà sáng.
Ấy mới là khí độ bậc quân tử.

Nguyên Tác An Hậu
Theo: vandieuhay

"DƯA MUỐI" - TINH HOA ẨM THỰC TRUYỀN THỐNG BỊ HIỂU NHẦM

Từ thời xa xưa, khi con người chưa có tủ lạnh, chưa có hóa chất bảo quản, thì dưa muối chính là một trong những tinh hoa ẩm thực của con người. Không chỉ là món ăn dân dã, dưa muối, cải muối, còn là biểu tượng của sự tiết chế, sự giao hoà giữa trời đất, giữa âm và dương, giữa con người với quy luật của tự nhiên.


Ở Việt Nam, dưa cải muối là món ăn không thể thiếu trong mâm cơm ngày Tết, ngày giỗ, hay cả trong những bữa cơm thường nhật của người Việt.

Ở Hàn Quốc, kimchi là quốc hồn quốc túy. Ở Nhật, tsukemono là nghệ thuật. Ở Ấn Độ, achar là sự hòa trộn của gia vị và văn hóa.

Dưa muối có lợi gì? Không chỉ cho cái bụng, mà cả cái tâm

1. Tốt cho tiêu hóa. Ông bà ta đã đi trước khoa học

Nhiều người quê vẫn nói: “Ăn dưa cho dễ tiêu.” Họ không cần biết đến probiotic, men lactic, hay microbiome, nhưng họ biết dưa muối để lâu ăn vào khỏe bụng.

Còn ngày nay y học hiện đại đã phát hiện một số lợi ích dinh dưỡng chính gồm:

Cân bằng hệ vi sinh đường ruột: Vi khuẩn có lợi trong dưa muối giúp hỗ trợ tiêu hóa, hấp thu dưỡng chất và tăng cường hệ miễn dịch.

Giảm độc tố: Quá trình lên men giúp phân giải nitrat, oxalate và một số độc tố tự nhiên có trong rau củ.

Bổ sung vitamin: Đặc biệt là vitamin C, K và một số nhóm B, vốn dễ mất khi nấu nướng.

Giảm nguy cơ ung thư đại tràng: Theo một số nghiên cứu gần đây, men vi sinh từ dưa muối có thể ức chế sự phát triển của tế bào ung thư ruột già.

Người quê đâu biết nghiên cứu nào, nhưng trăm năm họ đã sống khoẻ với dưa muối.


2. Dưa muối và sự tiết chế dục vọng

Trong các truyền thống tâm linh phương Đông, đặc biệt là Phật giáo, sự giản dị trong ăn uống là một phần của tu hành. Dưa muối, món ăn không dầu, không thịt, chỉ có rau, muối và thời gian là biểu tượng cho:

Sự tiết dục trong ẩm thực: Không nồng đậm, không béo ngậy, dưa muối giúp thanh lọc vị giác và làm dịu tham vọng vật chất.

Tịnh hóa tâm hồn: Mùi vị lên men chua thanh phản ánh sự thay đổi từ thô đến tinh, từ sinh đến dưỡng, như hành trình tu luyện của một người đi tìm đạo.


Khoa học hiện đại nói gì và tại sao có lúc họ nói sai?

Dưa muối từng bị lên án: “Gây ung thư”. “Nhiều muối, tăng huyết áp”. “Chứa nitrit, hại gan, hại thận.”

Gây ung thư vì nitrosamine: Một số nghiên cứu ở châu Á gắn dưa muối với tỷ lệ ung thư dạ dày cao. Tuy nhiên, phần lớn là do dưa muối bị hỏng hoặc muối bằng hóa chất không đúng cách, không phải lỗi của bản thân dưa muối, mà là cách làm sai, vì lợi nhuận mà bán rẻ sức khỏe khách hàng.

Người xưa luôn dặn nhau không ăn dưa mới muối, phải chờ đủ ngày. Họ không cần biết tên chất gì, chỉ cần biết: dưa chưa chua thì chưa lành. Đừng gấp gáp, ủ muối mà phải là muối hột, không phải muối iot.

Vậy nên, kẻ gây ung thư không phải là dưa, mà là lòng người vội vã, muốn ăn ngay, muốn nhanh mà không hiểu quy luật.

Chứa nhiều muối gây cao huyết áp: Dĩ nhiên, bất cứ thực phẩm nào lạm dụng đều có hại. Nhưng ăn dưa muối với cơm trắng, canh loãng, theo cách truyền thống, thì hoàn toàn cân bằng. Chính thực phẩm siêu chế biến, nước ngọt, thức ăn nhanh mới là thủ phạm thực sự.

Ngày nay, người ta ăn dưa như món chính, lại thêm đồ chiên, đồ nêm đậm, nên mới dư muối. Khoa học trách món ăn, nhưng lẽ ra nên nhìn vào cách ăn mất cân bằng của con người hiện đại.

Thiếu chuẩn vệ sinh: Một sự ngụy biện phổ biến khác của các nền công nghiệp thực phẩm hiện đại để hợp pháp hóa việc xóa bỏ món ăn cổ truyền.

Nếu rau không rửa kỹ, hũ không sạch, nước lã, để hở… thì bất kỳ món gì cũng thành hại, không chỉ dưa. Nhưng người xưa muối dưa bằng tay sạch, nước sôi để nguội, hũ sành kín nắp, phơi nắng, hoàn toàn vô trùng tự nhiên.

Khoa học hiện đại nhiều khi chỉ nhìn cái kết quả hỏng, mà không nhìn đến quy trình truyền thống đúng đắn đã tồn tại và được kiểm chứng cả trăm năm.

Dưa muối là món ăn không thể thiếu trong bữa cơm người Việt

1. Khi ta quên mất gốc rễ đạo lý trong món ăn

Một vấn đề lớn của khoa học ngày nay là cô lập hiện tượng, tách từng thành phần nhỏ để đánh giá. Họ không nhìn tổng thể, không nhìn ngữ cảnh sống. Họ thấy nitrit và bảo dưa có hại, nhưng họ không xét đến men lactic phân giải nitrit sau quá trình lên men.

Họ xét riêng muối mà không xét đến cơm, canh, cách ăn. Họ nhìn vào hiện tượng vi phạm vệ sinh thực phẩm ngoài xã hội rồi phán cả nền ẩm thực là độc hại.

Trong khi đó, người quê không cần phòng lab, mà biết chọn rau lành, rửa sạch, để ráo, phơi nắng, đậy kín, chờ đủ ngày, nếm đúng lúc. Đó là cả một khoa học tự nhiên, không cần bằng cấp, chỉ cần có tâm và hiểu đời. Hiểu những tinh hoa ẩm thực mà ông bà ta đi trước đã để lại cho con cháu. 

2. Hũ dưa chua, một kho tàng bị xem thường

Giữa thời đại siêu thị, siêu thực phẩm, thức ăn nhanh, máy lạnh và kháng sinh, một hũ dưa chua có vẻ lạc hậu. Nhưng nó chứa:

Sự sống thật (men vi sinh tự nhiên).

Đạo lý sống (biết chờ đợi, không phí phạm, nhẫn nại).

Ký ức gia đình (mỗi hũ dưa là một phần của tuổi thơ, của bàn tay mẹ).

Bản lĩnh sinh tồn (giữ được rau xanh ngày mất mùa, thiếu thốn).


Dưa muối không chỉ giúp no bụng, mà nuôi dưỡng ký ức, tính cách, và cả một nền văn hóa sống điều độ, biết ơn và nhân hậu.

3. Không phải dưa sai, mà là lòng ta đã lệch lạc

Nếu dưa muối có hại, thì sao bao đời ông bà ta vẫn sống thọ, khỏe mạnh, trí tuệ minh mẫn?

Chỉ khi người ta làm ẩu, ăn vội, hiểu lệch, mới biến món ăn thành gánh nặng, rước bệnh vào thân.

Suy cho cùng, khoa học cần trái tim để soi sáng, chứ không chỉ cần máy móc để xét nét.

Văn hóa là gốc của con người, lưu giữ tinh hoa văn hóa là lưu giữ lại những điều tốt đẹp cho thế hệ sau này.

Nguyên Tác An Hậu
An Nhiên / Theo: vandieuhay

BAO NHIÊU MÉT VUÔNG CHO MỘT ĐỜI NGƯỜI?

Tôi đứng giữa một con ngõ nhỏ ở Sham Shui Po, khu phố cũ kỹ nhất của Hong Kong, nơi từng là biểu tượng cho sự phồn hoa đã lùi xa. Giờ đây, những tòa nhà cũ như phủ rêu thời gian, chen chúc nhau, tầng tầng lớp lớp những khung cửa sắt mở ra là một thế giới chật chội mà con người vẫn cố níu giữ lấy cuộc sống.


Tôi thuê một căn phòng nhỏ chỉ để ở vài đêm, căn phòng ấy chỉ rộng chừng 3 mét vuông, đủ kê một chiếc giường, một quạt trần, một bóng đèn vàng. Ở Hong Kong, người ta gọi đó là “cage home” tức nhà lồng. Còn tôi, gọi đó là “tổ chim tạm bợ” của những người bị kẹt giữa giấc mơ và hiện thực.

Buổi sáng, khi ánh nắng đầu tiên lách qua những song cửa sắt, tôi gặp ông Lau, người đàn ông ngoài bảy mươi, sống ở đây hơn hai mươi năm. Ông đang ngồi gọt trái táo, chậm rãi như thể sợ làm rơi mất thời gian của chính mình.

“Ông ở đây lâu chưa?”, tôi hỏi.

“Lâu rồi. Ở riết rồi quen. Lúc đầu còn muốn chuyển đi, giờ thì không. Chắc ra khỏi đây tôi lại nhớ mất.” Ông cười, nụ cười nhăn nheo mà hiền lành. “Chỗ này nhỏ, nhưng có cái yên. Ở ngoài kia, chỗ rộng thì lại đắt, còn chỗ rẻ thì chẳng ai muốn ở cùng.”

Trên tường, một tấm lịch cũ vẫn còn treo từ năm ngoái. Tôi nhìn quanh, chỗ nào cũng là vách ngăn, là đồ đạc. Mỗi tiếng động nhỏ cũng vang lên như một lời thở dài.

Buổi trưa, tôi ghé thăm bà Cheng, người phụ nữ độc thân sống ở căn phòng chỉ vừa đủ để bà ngồi xếp bằng. Khi tôi đến, bà đang gấp lại một chiếc khăn tay, bên cạnh là hộp cơm nhựa còn dang dở.


“Tôi sống ở đây 15 năm rồi,” bà kể. “Lúc đầu khó chịu lắm. Giờ thì quen. Ở chật mà được yên ổn, còn hơn rộng mà cô đơn.”

Tôi hỏi bà có thấy khổ không. Bà im lặng một lúc, rồi nói chậm rãi: “Khổ chứ. Nhưng khổ riết rồi mình học cách thương lấy cuộc sống. Nếu cứ than mãi, chắc tôi chết lâu rồi.”

Câu nói của bà khiến tôi phải suy ngẫm. Ở Hong Kong, nơi những tòa nhà cao chọc trời, lại có hàng chục nghìn người sống trong những căn phòng chỉ bằng tấm chiếu. Còn ở Sài Gòn nơi tôi sinh ra, tôi cũng từng thấy những khu nhà trọ lụp xụp bên kênh Nhiêu Lộc, những mái tôn thấp lè tè, đêm đến nghe tiếng người thở ra khói thuốc và tiếng nước chảy qua cống rãnh. Cuộc sống vẫn luôn như thế, không công bằng, nhưng biết đâu chính trong những góc hẹp đó, người ta học được cách nở nụ cười mà chẳng cần lý do.

Buổi chiều, tôi gặp anh Wong người đàn ông trung niên, từng làm tài xế, nay thất nghiệp vì tai nạn. Anh ngồi cạnh cửa sổ, hút điếu thuốc rẻ tiền.

“Tôi từng có một căn hộ ở Kowloon,” anh kể, “nhưng sau dịch, tôi mất việc, mất nhà. Giờ sống ở đây, miễn có mái che là đủ.” Anh nhìn ra bầu trời mờ khói bụi, rồi cười: “Nhìn lên không bằng ai, nhìn xuống cũng chẳng ai bằng mình. Ở đời, có lẽ quan trọng nhất là biết mình còn thở.”

Câu nói của anh khiến tôi nhớ đến những người lái xe ôm công nghệ ở Sài Gòn, mưa gió vẫn cười, bảo “khổ riết rồi quen, quan trọng là sống được.” Giữa những đô thị sáng đèn, có những con người vẫn lặng lẽ mang trên vai cả đời sống của mình, chỉ để mỗi ngày trôi qua trong bình yên nhất có thể.

Đêm xuống, tôi trở về căn phòng chật hẹp của mình. Tiếng tivi từ phòng bên vọng sang một bộ phim TVB cũ, tiếng cười lẫn tiếng ho khan. Tôi bỗng nhớ đến mẹ tôi ở quê, cũng hay xem những bộ phim ấy rồi nói: “Con coi, người ta khổ nhưng vẫn sống tốt.”

Phải rồi, những người sống trong căn nhà lồng này, dù bị bó chặt trong bốn bức tường, họ vẫn sống. Có người chọn vui vẻ mà sống, có người chỉ lặng lẽ chờ hết ngày.


Tôi mở khung cửa sắt, nhìn xuống con phố. Ánh đèn neon phản chiếu lên những tấm kính mờ bụi. Dưới kia, dòng người vẫn đi, tiếng xe lẫn tiếng gió. Ở một thành phố tưởng như chẳng bao giờ ngủ, vẫn có những giấc mơ bị kẹt lại trong không gian chật hẹp.

Và giữa những giấc mơ ấy, con người vẫn học cách chịu đựng, học cách yêu đời, học cách sống tiếp, như thể đó là điều tự nhiên nhất trên đời.

Khi tôi rời đi, ông Lau tiễn tôi ra tận cửa. “Cô trẻ, nhớ quay lại nha. Biết đâu lúc đó tôi vẫn còn ở đây.”

Tôi cười. “Nhất định rồi.”

Ông gật đầu, rồi quay vào, khép cánh cửa sắt lại. Tiếng khóa cửa vang lên khẽ khàng mà buồn bã, như khép lại một thế giới riêng, nơi người ta vừa sống, vừa đợi, vừa hy vọng.

Bước ra khỏi con hẻm nhỏ, ánh sáng ngoài kia rọi lên khuôn mặt tôi. Hong Kong vẫn sáng rực, vẫn nhộn nhịp. Nhưng trong lòng tôi lại thấy một nỗi lặng. Giữa những tòa nhà cao tầng ấy, có bao nhiêu căn phòng nhỏ đang hít thở cùng một bầu không khí, bao nhiêu con người đang cố gắng tìm một lý do để sống tiếp thêm ngày nữa?

Tôi bỗng nhận ra: Cuộc sống, đôi khi không cần lớn lao hay hoàn hảo. Chỉ cần có một góc nhỏ đủ để ngồi yên, có một tia sáng lọt qua song cửa, có một lý do nhỏ để mỉm cười, vậy là đủ.

Tú Uyên biên tập
Theo: vandieuhay

    Tuesday, December 2, 2025

    ELVIS VÀ ĐIỀU KỲ DIỆU CỦA TÌNH YÊU

    Trong số những bài hát gắn liền với tên tuổi của Elvis Presley, The Wonder of You từng được ông hoàng nhạc rock, thu âm trực tiếp khi hát live và biểu diễn thường xuyên trên sân khấu. Tuy không phải là người đầu tiên hát bài này, nhưng bản ghi âm của Elvis được xem là hay hơn nhiều so với bản gốc.

    Danh ca Elvis Presley. AFP

    Do nhạc sĩ Baker Knight sáng tác, bài hát này ban đầu được ca sĩ Vince Edwards thu thanh vào năm 1958, nhưng không hiểu vì sao bản ghi âm lại không bao giờ được phát hành trên băng đĩa.

    Một năm sau đo, đến phiên ca sĩ Ray Peterson vào phòng thu thanh rồi phát hành bản ghi âm này lần đầu tiên dưới dạng đĩa đơn. Bài hát đã ăn khách nhanh chóng, lọt vào bảng xếp hạng Billboard của Mỹ, rồi chinh phục hai thị trường Canada và v ương quốc Anh.

    Cũng trong năm 1959, bài hát The Wonder of You lại thành công trên thị trường Anh với một bản thu âm khác của Ronnie Hilton. Bản nhạc này sau đó xuất hiện vào năm 2017 trong mùa thứ hai của loạt phim truyền hình "The Crown" nói về hoàng gia Anh. Nhưng bài hát ăn khách đầu tiên vẫn là bản ghi âm của Ray Peterson.

    Click để nghe: "Le meilleur de toi" - Jessé Garon

    Trong một cuộc phỏng vấn trên đài phát thanh bang Tennessee, Ray Peterson cho biết tác giả Baker Knight từng tâm sự rằng : The Wonder of You ban đầu được sáng tác như một bản nhạc phúc âm và như vậy tựa đề bài hát gốc, có nghĩa là "Điều kỳ diệu của Ngài" : trong mắt dân sùng đạo, Đức Chúa luôn là hiện thân của tình yêu tối cao.

    Hơn một thập niên sau ngày phát hành phiên bản đầu tiên, đến phiên Elvis Presley thu âm trực tiếp bài The Wonder of You trên sân khấu Las Vegas, vào đầu những năm 1970. Bản nhạc này sau đó được đưa vào album live của anh, rồi được phát hành dưới dạng đĩa đơn vào mùa xuân năm 1970.

    Lôi diễn đạt của Elvis Presley nâng bài hát lên một tầm cao mới. The Wonder of You là một trong những bản thu âm thành công nhất của Elvis tại Vương quốc Anh, giành lấy vị trí quán quân trong sáu tuần liên tục tại Anh và Ai Len, đồng thời lọt vào Top Ten thị trường Bắc Mỹ : hạng 9 tại Hoa Kỳ, hạng 7 tại Canada.


    Trước khi thu âm nhạc phẩm The Wonder of you, Elvis từng gọi điện cho Ray Peterson và hỏi rằng : điều đó có làm phiền anh không ? Ray Peterson trả lời : khi đã là ông hoàng Elvis, thì không cần phải xin phép ai cả. Elvis khiêm nhường với đàn anh : dù gì đi nữa, tôi phải nói với anh một lời ì anh là Ray Peterson.

    Ngoài thành công của ông hoàng Elvis, nhiều bản ghi âm khác đã ra đời, kể từ đầu những năm 1960, trong đó có các nhóm The Platters, The Sandpipers, The Lettermen …. Vào năm 2016, một phiên bản hoàn chỉnh của bài hát The Wonder of You kết hợp giọng ca của Elvis với lốihòa âm của Dàn nhạc giao hưởng Hoàng gia Anh, được phát hành trên album tưởng niệm ông hoàng nhạc rock, qua nhiều bản phối mới.

    Hơn nửa thế kỷ sau ngày được phát hành, The Wonder of You tính đến nay đã có cả ngàn bản ghi âm trong 9 ngôn ngữ. Trong tiếng Pháp bài này có hai lời khác nhau : phiên bản "Le meilleur de toi" của Jesse Garon và "Mes rêves d'enfant" của Frank Michael.

    Click để nghe: "Tình Như Thoang Mây Bay" - Julie

    Còn trong tiếng Việt, bản nhạc này từng có thêm nhiều lời : Lời đầu tiên "Tình như thoáng mây bay" của tác giả Nam Lộc do Thụy Anh ghi âm trên Băng nhạc trẻ số 7 vào năm 1974, và sau đó có phiên bản của Nhật Hạ. Lời thứ nhì là "Thế giới riêng em" qua phần trình bày của Elvis Phương.

    Tuấn Thảo
    Theo: RFI Tiếng Việt



    NICCOLÒ PAGANINI - NGHỆ SỸ VĨ CẦM VĨ ĐẠI NHẤT TRONG LỊCH SỮ

    Paganini (1782 – 1840) là nhà soạn nhạc và nghệ sỹ violin có khả năng thần kỳ: chơi 3 quãng tám trên 4 dây trong khoảng 1 gang tay, cho đến nay vẫn còn được giới cầm thủ xem như là bất khả thi. Chính vì thế, ông được đánh giá là người nghệ sỹ violin vĩ đại nhất lịch sử.


    Tuổi niên thiếu sa ngã

    Niccolò (hay Nicolò) Paganini là một nghệ sỹ chơi violin, viola, guitar và nhà soạn nhạc người Ý. Ông được coi là một trong những nghệ sỹ violin vĩ đại nhất trong lịch sử, dù rằng không thể xác thực điều này do không có được những băng ghi âm các tác phẩm ông trình diễn. Mặc dù thế kỷ 19 ở châu Âu có một số nghệ sỹ violon xuất chúng, nhưng Paganini là nghệ sỹ bậc thầy ở thế kỉ này.

    Niccolò Paganini sinh tại Genova, Ý ngày 27/10/1782, con trai của Antonio và Teresa Paganini. Paganini học chơi mandolin với cha khi mới 5 tuổi, chuyển sang học violin lúc lên 7, và bắt đầu sáng tác vào năm 8 tuổi. Ông có buổi biểu diễn đầu tiên trước công chúng năm 11 tuổi. Ngay từ thời thơ ấu Paganini đã học nhạc với nhiều thầy giáo, trong đó có Giovanni Servetto và Alessandro Rolla.

    Cậu thiếu niên Paganini đã không khỏi choáng ngợp trước những thành công và đến năm 16 tuổi sa vào cờ bạc và rượu chè. Một thiếu phụ vô danh đã cứu sự nghiệp của Paganini khi đưa ông về điền trang của mình. Ở đó ông từ bỏ khỏi các tật xấu, tiếp tục học violin trong 3 năm. Trong thời gian này, ông đồng thời học cả guitar.

    Chân dung Paganini khi còn trẻ. (Ảnh: Public Domain)

    Sau 3 năm này ông tiếp tục đi du lịch và biểu diễn violin, sau đó quay trở lại Genova năm 1804, bắt đầu sáng tác một số tác phẩm. Thời gian này ông để ý tài năng của một cô bé học trò 7 tuổi của mình Catarina Calcagno, cô bé sau này trở thành nhạc công violin dàn nhạc giao hưởng rất nổi tiếng.

    Tái xuất trước công chúng năm 23 tuổi: là nhạc công đầu tiên đi lưu diễn với vai trò nghệ sỹ độc tấu

    Ông tái xuất hiện trước công chúng vào năm 23 tuổi: năm 1805, vùng Lucca bị Napoleon kiểm soát, ông trở thành nhạc trưởng cho em gái của Napoleon, Elisa Baciocchi, Công nương Lucca mỗi khi ông không đi diễn. Ông trở nên nổi tiếng với vai trò nghệ sỹ violin, xuất hiện lần đầu trước công chúng Milano năm 1813, Viên năm 1828, London và Paris năm 1831. Paganini là một trong những nhạc công đầu tiên, nếu không nói là người đầu tiên đi lưu diễn với vai trò nghệ sỹ độc tấu không có những nghệ sĩ khác đi kèm. Ông có khả năng thu hút đông đảo khán giả và trở thành một siêu sao giàu có.

    Chân dung Paganini, 1819 – được vẽ bởi hoạ sỹ Jean Auguste Dominique Ingres (1780–1867). (Ảnh: Public Domain)

    Nhạc cụ ưa thích của ông là cây violin Il Cannone được làm năm 1742 bởi Giuseppe Antonio Guarnieri del Gesù, được ông đặt tên là “The Cannon” do với nó ông có thể tạo ra những âm hưởng mạnh mẽ. Các dây đàn gần như nằm trên một mặt phẳng, khác với phần lớn các loại violin khác đặt các dây theo hình vòng cung để tránh chạm phải các dây không mong muốn khi chơi đàn. Cách đặt dây của cây Il Cannone cho phép Paganini cùng lúc đánh 3 hoặc 4 dây cùng lúc. Cây Il Cannone bây giờ được trưng bày trong tòa thị chính thành phố Genova, mỗi tháng người trông giữ nó lấy ra chơi một lần, và cho các cầm thủ nổi tiếng thuê theo định kỳ.

    Cây vĩ cầm nổi tiếng Il Cannone của Paganini được làm năm 1742 bởi Giuseppe Antonio Guarnieri del Gesùlãm – hiện trưng bày tại Palazzo Doria Tursi, Genova, Italy. (Ảnh: Wikipedia /Creative Commons Attribution-Share Alike 3.0 Unported)

    Năm 1833 tại Paris, ông đặt Hector Berlioz viết một bản viola concerto. Berlioz viết Harold in Italy nhưng Paganini chẳng bao giờ chơi bản nhạc.

    Sức khỏe ông suy giảm dần do ngộ độc thủy ngân có trong thuốc chữa bệnh thời đó. Bệnh tật làm ông mất khả năng chơi violin, ông ngừng diễn năm 1834.

    Ngày 27/5/1840 ông mất tại Nice nước Pháp.

    Paganini và sự phát triển của kỹ thuật violin: một hiện tượng kỳ lạ

    Cầm thủ violin người Israel Ivry Gitlis nói: “Paganini là hiện tượng kỳ lạ chứ không là sự phát triển…đã có những vĩ cầm thủ (trước Paganini) và rồi là Paganini.” Dù rằng các kỹ thuật Paganini sử dụng đã có trước đó nhưng phần lớn các tay violin đương thời vẫn chú tâm vào âm điệu và kỹ thuật kéo vĩ (gọi là “kĩ thuật tay phải” cho cầm thủ bộ dây) là hai vấn đề cơ bản cho vĩ cầm thủ cho đến ngày nay.

    (Ảnh: Public Domain)

    Cụ thể: Arcangelo Corelli (1653-1713) được xem như là người cha của kỹ thuật violin, ông đã biến vai trò cây violin từ nhạc cụ chỉ ở trong dàn nhạc trở thành nhạc cụ đơn tấu. Khoảng trong thời gian đó khả năng biểu đạt phức điệu của cây violin được khẳng định bằng các tác phẩm như Sonatas and partitas dành cho violin đơn tấu BWV 1001-1006 của Johann Sebastian Bach (1685-1750).

    Còn các tay violin nổi danh khác như Antonio Vivaldi (1678-1741) và Giuseppe Tartini (1692-1770). Mặc dù vậy tiến bộ của kỹ thuật violin vẫn chậm trong giai đoạn này. Kỹ thuật đòi hỏi sự nhanh nhẹn của ngón tay cũng như của cây vĩ vẫn không được thừa nhận và khuyến khích bởi những hội nghệ sỹ violin.

    Pietro Locatelli (1693-1746) sáng tác 24 bản caprice mà tại thời điểm viết ra rất khó để chơi, được xem như là cuộc khám khá thấu đáo đầu tiên các kỹ năng của cây violin. August Duranowski đã sáng tác những tác phẩm sử dụng bước đầu cách hòa âm và cách móc dây bằng tay trái, cùng được xem như đã tìm ra những kỹ thuật trên.

    Như vậy, có thể nghi ngờ rằng Paganini đã phát hiện ra những kỹ thuật tiên phong nhưng không nghi ngờ rằng ông là người đầu tiên phổ biến rộng rãi chúng ra trước công chúng và đưa vào những tác phẩm phổ thông.

    “Paganini là hiện tượng kỳ lạ chứ không là sự phát triển…” (Tranh của hoạ sỹ Georg Friedrich Kersting (1785–1847)/Public Domain)

    Paganini có khả năng chơi 3 quãng tám trên 4 dây trong khoảng 1 gang tay, cho đến nay vẫn còn xem như là bất khả thi.

    Các ngón tay dẻo và dài khác thường của ông được cho là hậu quả của hội chứng Marfan hay hội chứng Ehlers-Danlos. Các kỹ thuật ngón được xem là của ông gồm: chơi 2 nốt trên 2 dây cùng lúc (double stops), chơi quãng đôi, kỹ thuật móc tay trái mà ngày nay được các cầm thủ violin tập luyện thường xuyên.

    Sau đây chúng ta cùng thưởng thức tác phẩm kỳ diệu của ông, Caprice 24 và cảm nhận Paganini mạnh mẽ và điên cuồng đến cỡ nào khi biểu diễn. Những ai đã từng học qua violon thì có thể biết độ khó của nhạc cụ này là nhất thế giới.


    Kim Cương / Theo: ĐKN

    SƠN VIÊN TIỂU MAI - LÂM BỐ


    Sơn viên tiểu mai

    Chúng phương dao lạc độc huyên nghiên,
    Chiếm tận phong tình hướng tiểu viên.
    Sơ ảnh hoành tà thuỷ thanh thiển,
    Ám hương phù động nguyệt hoàng hôn.
    Sương cầm dục há tiên thâu nhãn,
    Phấn điệp như tri hợp đoạn hồn.
    Hạnh hữu vi ngâm khả tương hiệp,
    Bất tu đàn bản cộng kim tôn.


    山園小梅 林逋

    眾芳搖落獨暄妍
    占盡風情曏小園
    疏影橫斜水清淺
    暗香浮動月黃昏
    霜禽欲下先偷眼
    粉蝶如知合斷魂
    幸有微吟可相狎
    不須檀闆共金尊


    Cành mai nhỏ trong khu vườn núi
    (Dịch thơ: Vương Hải Đà)

    Mai cười giữa đám hoa tan
    Vàng khoe sắc thắm ngỡ ngàng vườn xuân
    Chiều soi bóng nước bần thần
    Đong đưa nguyệt hạ hương thầm vấn vương
    Chim trời ngơ ngác nhìn sương
    Bướm mơ tỉnh giấc hoàng lương lặng nhìn
    Thơ hay tức cảnh sinh tình
    Đâu cần chén ngọc, đàn xinh, rượu nồng.


    Sơ lược tiểu sử tác giả:

    Lâm Bô 林逋 (967-1028) tự Quân Phục 君復, người đất Tiền Đường (nay là thành phố Hàng Châu, tỉnh Triết Giang). Từ lúc tuổi trẻ, ông đã không muốn rong ruỗi với đời, sau lui về ẩn cư ở Tây Hồ xứ Hàng Châu, nên còn có biệt hiệu là Tây Hồ xử sĩ. Thiên Ẩn dật truyện trong Tống sử mô tả ông: “Tính tình cao khiết, điềm đạm mà hiếu cổ, không muốn bon chen vào chốn phù hoa. Nhà nghèo, ăn mặc đều không được đầy đủ, nhưng vẫn luôn vui vẻ tự như... Ông về Hàng Châu, kết lều tranh tại Cô Sơn bên Tây Hồ. Hai mươi năm không đặt chân ra ngoài phố chợ.” (Tính điềm đạm hiếu cổ, phất xu vinh lợi. Gia bần y thực bất túc, yến như dã... Qui Hàng Châu, kết lô Tây hồ chi Cô Sơn, nhị thập niên túc bất cập thành thị)

    Ông trồng mai nuôi hạc, thường đùa là “lấy mai làm vợ, lấy hạc làm con” (dĩ mai vi thê, dĩ hạc vi tử), danh tiếng cao khiết của ông vang dội khắp thiên hạ, biết bao cao sĩ danh tăng đến xin yết kiến. Ông cùng với các danh sĩ như Phạm Trọng Yêm, Mai Nghiêu Thần, Cửu Tăng thường cùng nhau xướng hoạ.

    Nguồn: Thi Viện