Wednesday, May 14, 2025

ROBERTA FLACK: CÒN ĐÂU "NỖI ĐAU DỊU DÀNG"

Sinh thời, giọng ca mượt trầm của Roberta Flack rất hợp với những bản tình ca đầy cảm xúc, giai điệu hòa quyện nhiều thể loại, từ nhạc soul folk cho đến jazz và pop. Bà cũng là nghệ sĩ Mỹ đầu tiên đoạt giải Grammy dành cho Bản ghi âm xuất sắc nhất trong 2 năm liền. Giọng ca ấy giờ đây không còn nữa, Roberta Flack đã qua đời tại nhà riêng hôm 24/02/2025, hưởng thọ 88 tuổi.

Roberta Flack (T) biểu diễn cùng Maxwell trong Lễ trao giải Grammy, ngày 31/01/2010, tại Los Angeles, Hoa Kỳ. ASSOCIATED PRESS - Matt Sayles

Sinh trưởng tại Bắc Carolina, Roberta Flack (1937-2025) xuất thân từ một gia đình có truyền thống âm nhạc. Mẹ của bà là nghệ sĩ chơi đàn organ cho dàn đồng ca ở nhà thờ, cho nên từ khi còn nhỏ Roberta đã sớm học nhạc cổ điển. Nhờ có năng khiếu chơi đàn piano, cho nên vào năm 15 tuổi, bà trở thành sinh viên trẻ tuổi nhất, nhận được học bổng toàn phần chuyên khoa âm nhạc tại trường Đại học Howard.

Sau khi tốt nghiệp đại học năm 19 tuổi, Roberta Flack bắt đầu đi dạy nhạc một thời gian. Roberta lúc đầu nuôi mộng trở thành nghệ sĩ trong làng nhạc opera nhưng sau đó lại nhận ra con đường này không hợp với mình. Để kiếm sống, ngoài công việc giảng dạy, Roberta Flack còn đi hát trong các phòng trà, hộp đêm vào những ngày cuối tuần. Đến năm 1968, tài nghệ chơi nhạc của bà lọt vào tai của một nhà sản xuất, nên được mời thu âm thử giọng cho hãng đĩa Alantic.

Album phòng thu đầu tay của Roberta Flack được cho ra mắt vào năm 1969. Thế nhưng, các bản ghi âm này lại không bán chạy, cho đến khi đạo diễn kiêm diễn viên Clint Eastwood chọn nhạc phẩm « The First time ever I saw your face » do Roberta Flack trình bày (sáng tác của Ewan MacColl) làm ca khúc chủ đề cho bộ phim đầu tay của ông năm 1971 với tựa đề « Play Misty for me ».

Mặc dù lúc bấy giờ đạo diễn Clint Eastwood chỉ trả 2.000 đô la để được quyền sử dụng bài hát, nhưng thành công của bộ phim lại giúp công chúng khám phá giọng ca Roberta Flack. Bản nhạc phim trở thành ca khúc thành công nhất trong năm 1972, giữ vị trí quán quân trong 6 tuần liên tục và nhận giải Grammy dành cho Bài hát xuất sắc nhất.

Gần 3 năm sau ngày phát hành, album đầu tay của Roberta Flack cuối cùng cũng giành lấy hạng đầu thị trường Hoa Kỳ và đã bán được gần 2 triệu bản tại Bắc Mỹ. Từ đó, Clint Eastwood và Roberta Flack trở thành bạn thân, để cảm ơn Clint Eastwood đã tạo cho mình cơ hội thành công, Roberta Flack đã nhận lời thu âm bản nhạc chủ đề cho bộ phim « Sudden Impact » (trong loạt phim Dirty Harry) theo đề nghị của Clint Eastwood.

Roberta Flack tại Lễ trao giải Grammy, ngày 31/01/2010, Los Angeles, Hoa Kỳ. AP - Mark J. Terrill

Roberta Flack là một trong những giọng ca định hình nền âm nhạc phổ thông (pop music) trong thập niên 1970. Xen kẽ nguyên tác và các bản cover, bà đã nhiều lần thành công trên thị trường quốc tế với các nhạc phẩm như « Will you love me tomorrow », « Where is the Love » song ca với Donny Hathaway, « Tonight, I celebrate my love » (Dâng trọn tình yêu) với Peabo Bryson. Bài này từng được tác giả Trung Hành đặt thêm lời Việt và ghi âm cùng với nữ ca sĩ Ngọc Bích.

Vào năm 1973, Roberta Flack tiếp tục thành công trên tột đỉnh khi phát hành bài hát « Killing me softly with his song », ca khúc chủ đề của album cùng tên. Bài này đã đoạt cùng lúc hai danh hiệu quan trọng là Bản thu âm hay nhất và Màn biểu diễn nhạc pop xuất sắc nhất nhân kỳ trao giải Grammy năm 1974.

« Killing Me Softly » do tác giả Charles Ira Fox soạn nhạc và do Norman Gimbel đặt lời. Cả hai gương mặt này đều là những tên tuổi lớn trong ngành công nghiệp giải trí. Vào giữa những năm 1960, Norman Gimbel đến Hollywood để lập nghiệp. Có một lần ngồi trong một quán nhạc uống rượu giải sầu, ông được nghe một nghệ sĩ nhạc blues biếu diễn. Chỉ trong một khoảnh khắc, tiếng đàn piano lại nói lên được tâm trạng chán đời của ông. Một cách vô tình, tác giả thật sự có cảm tưởng một người khác đang nói thay cho mình. Trong quyển sổ tay, Norman Gimbel ghi chép dòng chữ, ma lực vô hình nào từ phím đàn nỉ non ai oán, khiến hồn ta như thể bị giết dần, chết mòn. Bản nhạc « Killing Me Softly » từ đó mà nẩy sinh.

Hầu như mọi người đều biết đến nhạc phẩm này qua giọng ca của Roberta Flack. Tuy vậy, người đầu tiên thu thanh bản nhạc này lại là nữ ca sĩ Lori Lieberman chứ không phải là Roberta, thế nhưng khi được phát hành vào mùa hè năm 1972, bài hát lại không thành công. Đến khi Roberta phát hành bản cover của mình vào đầu năm 1973, bài hát này lại phá kỷ lục số bán.

Click để nghe "Nỗi đau dịu dàng - Khánh Hà"

Trong tiếng Việt, « Killing Me Softly » đã có nhiều phiên bản khác nhau. Trước năm 1975, bài từng được nhạc sĩ Lê Hựu Hà Việt hoá thành nhạc phẩm « Nỗi đau dịu dàng ». Lời Việt thứ nhì là của tác giả Vũ Xuân Hùng qua phần thể hiện của Vy Vân, giọng hát chính của ban tam ca Apple Three (Ba Trái Táo). Gần đây hơn, có lời phóng tác thứ ba của ca sĩ kiêm tác giả Nguyễn Thảo với nhạc phẩm « Dịu dàng giết chết tôi ». Lời Việt thứ tư là của tác giả Nguyễn Hoàng Đô với tựa đề « Nỗi chết dịu êm ».

Trong suốt sự nghiệp, Roberta Flack đã ghi âm 17 album, nhận 5 giải Grammy trong số 14 đề cử, kể cả danh hiệu Thành tựu sự nghiệp vào năm 2020. Roberta Flack ra đi, để lại ảnh hưởng sâu rộng cho nhiều nghệ sĩ thế hệ sau, trong đó có George Michael, Lauryn Hill, Ariana Grande hay Lady Gaga … bà thành công trong cả hai vai trò : nhạc sĩ sáng tác cũng như người thể hiện lại ca khúc của nhiều nghệ sĩ khác như Carole King, Leonard Cohen, Gilbert Bécaud hay The Beatles.

Với phong cách sang trọng kín đáo, lối diễn đạt mềm mại tinh tế, Roberta Flack trở thành một gương mặt tiên phong của trường phái « quiet storm » (giông bão tĩnh lặng), một nhánh của dòng nhạc R&B. Được đặt theo bài hát cùng tên, phát hành vào năm 1975 của Smokey Robinson, trường phái này thường đề cao các giai điệu du dương dịu dàng, gieo vào hồn người nghe những cảm xúc thoải mái nhe nhàng, như khi ta nằm nghe các chương trình kể chuyện đêm khuya. Giọng ca mượt mà của Roberta truyền tải trọn vẹn những cung bậc thăng trầm trong con tim khi đam mê nóng bỏng chết lịm dần trong dư âm. Đó là nghịch dụ của tiếng thầm trong đêm khuya quạnh vắng, cuồng phong soi bóng mặt hồ tĩnh lặng.

Tuấn Thảo
Theo: RFI Tiếng Việt



Tuesday, May 13, 2025

ĐẶC SẢN NGHỆ AN LÀM TỪ LOẠI QUẢ GAI CHI CHÍT, KHÁCH KHEN NGON LẠ, ĂN TỐN CƠM

Qua bàn tay khéo léo của người dân Nghệ An, quả mít non đã được sáng tạo thành món đặc sản hấp dẫn, ăn cực tốn cơm.


Nhút (hay còn gọi nhút mít) là đặc sản dân dã thường xuất hiện trong mâm cơm hàng ngày của nhiều gia đình ở Nghệ An.

Món ăn này cũng phổ biến ở Hà Tĩnh và hiện được vận chuyển tới nhiều tỉnh thành từ Bắc vào Nam, đáp ứng nhu cầu thưởng thức đa dạng của thực khách thập phương.

Mít non được gọt vỏ, băm nhỏ hoặc thái sợi, đem phơi nắng rồi trộn gia vị và ủ chín, trở thành đặc sản ngon có tiếng ở Hà Tĩnh, Nghệ An. Ảnh: Thơm

Chị Nguyễn Liên (sống ở Thanh Chương - địa phương được biết đến với nghề chế biến nhút nổi tiếng Nghệ An) cho biết, nhút được làm từ quả mít non (mít mật, mít dai hay mít Thái… đều được), sau đó đem trộn gia vị.

Mùa làm nhút thường bắt đầu từ tháng 3, tháng 4 dương lịch hàng năm. Khi ấy, quả mít trên cây mới đậu khoảng 2 tháng, chưa quá già mà cũng không quá non, phù hợp để chế biến.

Quả mít non sau khi thu hái sẽ được gọt hết lớp vỏ gai bên ngoài rồi đem rửa cho sạch nhựa. Tùy từng nơi, người ta có thể băm nhỏ hoặc thái từ ngoài vào trong sao cho xơ, múi và hạt mít non đều tạo thành sợi dài khoảng 3-4cm.

Tiếp đến, mít được ngâm với nước gạo trong 1-2 tiếng để loại bỏ hết nhựa, khử thâm, giúp sợi mít từ bầm đen trở nên trắng tinh, trông lạ mắt.

Tùy thuộc vào thời gian sử dụng mà người ta muối nhút có độ mặn nhạt khác nhau. Nếu để ăn quanh năm thì nhút phải muối mặn. Ảnh: Phan Phương Thủy

Theo chị Liên, để làm món nhút, ngoài mít non băm nhỏ hoặc thái sợi, người dân địa phương còn kết hợp với một số nguyên liệu, gia vị “cây nhà lá vườn” như sả, riềng, tỏi, ớt cay,…

Tất cả cũng được đem thái nhỏ, trộn đều với sợi mít rồi cho vào muối. Ở một số nơi, trước khi muối, người ta còn đem phơi nắng để sợi mít săn lại, tăng độ giòn, dai.

Cách muối nhút cũng tương tự cách muối dưa, cà ở một số tỉnh thành miền Bắc. Cứ một cân sợi mít thì bóp với một cân muối, tiếp đó ủ trong nồi, chum (hoặc vại) tùy theo nhu cầu sử dụng của từng gia đình.

“Tùy văn hóa từng nơi và sở thích từng nhà mà bà con có thể biến tấu món nhút với một số nguyên liệu khác. Ngoài mít non, người dân còn làm nhút từ xơ mít chín, kết hợp với cà, hoa chuối hay cả măng…”, chị cho hay.

Nhút đạt chuẩn là khi muối xong phải có màu vàng hoặc hơi ngả nâu, sợi mềm, ngấm vị thơm của các gia vị và độ mặn vừa phải. Ảnh: Nguyễn Nhung

Nhút muối càng lâu càng ngon, mùa hè thì ủ chừng 3-5 ngày là chín. Còn mùa đông, thời gian muối lâu hơn, khoảng 1-2 tuần.

Chị Liên nói thêm, việc muối nhút cần có kinh nghiệm, không được muối mặn quá hoặc nhạt quá. Quá trình muối phải đảm bảo nguyên liệu sạch, đậy nắp kín, nếu không có thể làm món ăn bị hỏng, phải bỏ đi.

“Để món nhút đạt chuẩn, người dân khi muối thường dùng vật cứng nén chặt, đè lên trên và không để mít nổi trên mặt nước. Nếu mít nổi thì thành phẩm lúc chín sẽ bị thâm đen, làm giảm độ ngon”, chị giải thích.

Từ món ăn dân dã của làng quê, món nhút Nghệ An dần trở thành đặc sản nổi tiếng, được vận chuyển và tiêu thụ trên khắp cả nước. Trong hình là món nhút xào thịt ba chỉ. Ảnh: Nguyễn Thị Thùy Linh

Mỗi vụ nhút kéo dài vài tháng. Để có nhút sử dụng quanh năm, chị Liên và nhiều gia đình ở Nghệ An thường muối mặn mấy chục cân mít (sau sơ chế) một lần.

Nhút chín có thể ăn ngay giống dưa, cà muối hoặc đem chế biến thành một số món ăn lạ miệng như xào, nộm, nấu canh chua, kho cùng thịt gà, cá…

Nhút mít Nghệ An ăn giòn ngon, lạ miệng. Ảnh: Nguyễn Nhung

Những thực khách từng thưởng thức nhút Nghệ An nhận xét, món ăn có độ giòn, bùi và thơm, hòa quyện giữa vị mặn mặn, chua chua với vị cay nhẹ của riềng.

Một số người mới ăn lần đầu sẽ khó cảm nhận được vị ngon lạ miệng của món nhút. Nhưng ai ăn quen lại thấy thích thú, “nghiện” cái vị chua, mặn dân dã của thứ đặc sản đậm chất quê này.

“Món này ăn kèm cơm nóng rất ngon, không cần thêm bất kỳ món thịt nào mà tôi cũng có thể ăn hết sạch 2,3 bát”, chị Liên nói.

Thảo Trinh / Theo: vietnamnet



Sunday, May 11, 2025

3 THÓI XẤU KHIẾN BẠN MÃI NGHÈO: RUNG ĐÙI ĐỨNG THỨ NHẤT, 2 THÓI XẤU CÒN LẠI LÀ GÌ?

Một số người thường than thở rằng, vận may của họ không tốt, mặc dù rất nỗ lực làm việc nhưng không thể kiếm được nhiều tiền, không biết được vấn đề xảy ra ở đâu. Thực ra, nếu chúng ta có cảm giác như vậy, nhất định phải chú ý đến thói quen sinh hoạt hằng ngày, sau khi thay đổi những thói quen sinh hoạt không lành mạnh, vận mệnh của bạn có thể sẽ thay đổi theo!


Người xưa thường nói rằng: “Thiên mệnh của con người sớm đã được Trời định sẵn”, nhưng nếu bản thân có những thói quen sinh hoạt không lành mạnh, nhất định sẽ có ảnh hưởng không tốt đến cuộc sống của chúng ta, ngoài ra phong thủy trong nhà cũng sẽ chịu ảnh hưởng.

Cổ nhân dặn: “Tiểu tiết quyết định thành bại” (những chuyện nhỏ bé cũng có thể quyết định sự thành công, thất bại), kì thực, trong phong thủy học cũng như vậy. Sống trên đời, không ai hoàn hảo cả, ai cũng có những điểm thiếu sót cần phải hoàn thiện, ai cũng có những thói xấu cần phải sửa.

Tài vận của chúng ta có thể dần dần bị ảnh hưởng và hao hụt, vận may của cải sẽ tự nhiên trôi tuột đi theo những thói quen xấu này:

Rung đùi

Còn có một hiện tượng rất phổ biến, chính là có rất nhiều người có thói quen rung đùi. Trong dân gian có một câu nói: “Đàn ông rung đùi thì nghèo khổ, đàn bà rung đùi thì hèn hạ”, có một số người thì không tin, rung đùi làm sao có thể trở nên nghèo được?

Như mọi người đã biết, rung đùi sẽ ảnh hưởng đến các bộ phận khác trong cơ thể như: thắt lưng và thận,… nếu rung đùi trong thời gian dài sẽ rất dễ gây ra các vấn đề liên quan đến các bộ phận khác. Khi xuất hiện vấn đề thì phải đến bệnh viện khám, do vậy sẽ phải tốn tiền đi khám, đây chẳng phải là dấu hiệu của việc tiêu tán tài sản hay sao?

Trong dân gian có một câu nói: “Đàn ông rung đùi thì nghèo khổ, đàn bà rung đùi thì hèn hạ” (Nguồn ảnh: SOH)

Ngoài ra, rung đùi sẽ khiến cho đối phương phản cảm, họ sẽ cho rằng: Bạn là một người tùy tiện, sống không có phép tắc, khi đối tác nhìn thấy thì tự nhiên sẽ có ác cảm với bạn. Vì vậy, muốn vận mệnh khởi sắc hơn lên, đầu tiên hãy thay đổi những thói quen xấu, bắt đầu là từ việc kiểm soát đôi chân!

Tùy tiện khạc nhổ lung tung

Thói quen tùy tiện khạc nhổ lung tung này, chúng ta bình thường có thể nhìn thấy. Có một số người cho rằng đây không phải là việc gì đó to lớn. Nếu bạn có thói quen xấu này, nhất định phải chú ý.

Trong phong thủy rất chú trọng “giữ gió và nạp khí”, hành động khạc nhổ lung tung chính là biểu thị cho việc “phun tất cả của cải, vận khí tốt ra bên ngoài”.

Đối với vận khí, thói xấu này cũng không mang lại ảnh hưởng tốt đẹp. Đứng tại góc độ phong thủy mà xét, thói quen này chính là: “Tiền tài khó tụ”.

Vứt tiền lẻ lung tung

Trong cuộc sống hàng ngày của chúng ta, không thể tránh khỏi việc nhận một số tiền lẻ, sau khi nhận được số tiền lẻ này, có một số người sẽ vứt loạn xung quanh nhà, ở ghế sofa, ngăn kéo tủ hoặc giá sách,… khắp nơi đều có.

Thực ra, đây là thói xấu điển hình của việc tiêu tán của cải, về lâu dài, số tiền nhỏ sẽ biến thành số tiền lớn, tiền dù nhiều đến mấy cũng sẽ tiêu tán hết.

Chỉ cần bỏ được những thói quen xấu này, thì vận mệnh của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn (Nguồn ảnh: Sohu)

Nói đến đây, cũng muốn nhắc nhở mọi người rằng, bình thường chúng ta không hay để ý đến những thói quen xấu nhỏ nhặt trong cuộc sống. Tuy nhiên, những thói xấu đó có thể sẽ trở thành vật cản, khiến cho đoạn đường thăng quan tiến chức của bạn gặp trở ngại.

Thực tế, những thói quen này đều có mối liên hệ với nhau, môi trường chúng ta sống lâu ngày, thói quen sinh hoạt hằng ngày sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến vận mệnh của chúng ta. Chỉ cần bỏ được những thói quen xấu này, thì vận mệnh của chúng ta sẽ ngày càng tốt hơn, tài vận của chúng ta cũng tự nhiên trở nên tốt hơn.

Lan Hòa biên dịch
Theo: vandieuhay

Saturday, May 10, 2025

5 LOÀI SINH VẬT ĐÃ TIẾN HÓA ĐỂ THÀNH CUA - CÓ PHẢI MẸ THIÊN NHIÊN ĐÃ HẾT Ý TƯỞNG TẠO HÌNH

Charles Darwin tin rằng sự tiến hóa đã tạo ra “những dạng vô tận đẹp nhất ”. Tuy nhiên, thuyết tiến hóa và những rung cảm của ông không giải thích được tại sao thiên nhiên vẫn tiếp tục tạo ra những con cua.


Các nhà khoa học từ lâu đã tự hỏi liệu có giới hạn nào đối với những gì tiến hóa có thể làm, hay liệu ý tưởng của Darwin có đúng hay không. Sự thật có thể nằm ở đâu đó giữa hai điều này.

Bởi mặc dù dường như không có giới hạn về số lượng loài có thể tiến hóa, nhưng có thể có những hạn chế về số lượng các dạng cơ bản mà loài đó có thể tiến hóa thành. Sự tiến hóa của các sinh vật giống cua có thể là một trong những ví dụ điển hình nhất về điều này, vì điều đó không chỉ diễn ra một lần, mà là ít nhất năm lần.

Những con cua là minh chứng điển hình về việc chống lại thuyết tiến hóa.

Nếu bạn chưa biết thì cua thuộc nhóm động vật giáp xác được gọi là decapod. Từ này nghĩa đen là “mười chân”, vì chúng có năm cặp chân để phục vụ cho việc đi bộ. Một số loài decapod, chẳng hạn như tôm hùm và tôm, có phần bụng dày và đầy cơ bắp. Chỉ với một cú búng nhanh từ bụng, tôm hùm có thể lao ngược về phía sau và thoát khỏi những kẻ săn mồi.

Ngược lại, cua có phần bụng bị nén lại , nằm gọn dưới phần ngực và mai dẹt nhưng rộng. Điều này cho phép chúng chui vào các khe đá để nhận được sự bảo vệ. Sự tiến hóa cho thấy dường như giải pháp này là khả thi hơn cả.

Năm nhóm “cua”

Cua hoàng đế tiến hóa từ tổ tiên giống tôm hùm ở Anomura.

Giờ, hãy cùng làm quen với một khái niệm mới. "Cua" không phải là một nhóm sinh học thực sự. Chúng là một tập hợp các nhánh trong một cây decapod, đã tiến hóa để trở nên trông giống nhau.

Cua bọt biển mắt đỏ thích mang theo miếng bọt biển để ngụy trang.

Nhóm cua lớn nhất là Brachyura (còn gọi là cua thật) bao gồm cua ăn được và cua xanh Đại Tây Dương. Chúng có tổ tiên cũng mang hình con cua. Một số loài đã tiến hóa “ngược” và duỗi thẳng bụng trở lại.

Bề ngoài cua sứ rất giống các loài thuộc nhóm cua thật.

Và một nhóm lớn khác gọi là Anomura (hay cua giả), với tổ tiên trông giống tôm hùm hơn.

Tuy nhiên, có ít nhất bốn nhóm trong Anomura là cua bọt biển, cua sứ, cua hoàng đế và cua đá Úc đã tiến hóa một cách độc lập với nhau, nhưng cùng thành một dạng giống cua theo cách tương tự như những con cua thật.

Giống như những con cua thực sự, cơ thể nhỏ gọn của chúng có khả năng phòng thủ cao hơn và có thể di chuyển theo chiều ngang nhanh hơn.

Cua đá lông (Lomis hirta) cũng là một loài giáp xác giống cua.

Cua không phải là ngoại lệ duy nhất

Điều gì đó tương tự đã xảy ra trong quá trình tiến hóa của loài chim, từ loài khủng long có lông vũ. Những chiếc lông vũ có thể đã tiến hóa trong lần đầu tiên để mang tới hiệu quả cách nhiệt, để thu hút bạn tình, để bảo vệ trứng và cũng có thể là tạo thành "lưới" để bắt con mồi . Hàng triệu năm sau, lông dài ra và được sắp xếp hợp lý để hỗ trợ việc bay.

Các nhà cổ sinh vật học không đồng ý về các chi tiết, nhưng tất cả các loài chim hiện đại (nhánh Neoaves) đều tiến hóa từ tổ tiên sống trên mặt đất ngay sau sự kiện tuyệt chủng hàng loạt đã quét sạch các loài khủng long.

Microraptor có tới hai cặp cánh.

Tuy nhiên, đôi cánh có lông vũ và khả năng bay cũng đã tiến hóa sớm hơn ở các nhóm khủng long khác, bao gồm cả Troodontidae và Dromaeosaur. Một số trong số này, như Microraptor, có tới bốn cánh.

Tua lại cuốn băng cuộc đời

Thật không may, chúng ta không thể tiến hành các thí nghiệm tiến hóa để xem liệu những điều tương tự có tiếp tục xảy ra hay không. Bởi vì điều đó sẽ mất hàng trăm triệu năm. Nhưng lịch sử về sự sống đã làm điều gì đó tương tự với chúng ta, khi các dòng dõi có quan hệ gần gũi đã tiến hóa và đa dạng hóa trên các lục địa khác nhau. Trong nhiều trường hợp, những dòng tổ tiên này liên tục đưa ra các giải pháp tiến hóa giống nhau hoặc gần như giống hệt nhau cho các vấn đề.

Một trong những ví dụ tốt nhất là nhóm động vật có vú.

Có hai nhóm chính của động vật có vú. Phân lớp động vật có vú nhau thai (bao gồm cả con người) và thú có túi (động vật có vú có túi sinh con nhỏ). Cả hai nhóm đều tiến hóa từ cùng một tổ tiên chung hơn 100 triệu năm trước , thú có túi chủ yếu ở Australasia và Châu Mỹ và động vật có vú nhau thai ở những nơi khác.

Hộp sọ của chó sói Tasmania hay chó sói túi (trái) và sói xám thuộc loài động vật nhau thai (phải) cho thấy sự hội tụ kiểu hình nổi bật, mặc dù chúng tiến hóa tách biệt ở các lục địa khác nhau.

Sự cô lập này đã dẫn đến hai lần thiên nhiên đã chạy “thí nghiệm” gần như độc lập để xem có thể làm gì với sơ đồ cơ thể của động vật có vú. Và kết quả tạo ra các phiên bản có túi và nhau thai của chuột chũi, chuột nhắt, thú ăn kiến, sóc bay Úc và mèo. Thậm chí còn có một con sói có túi (chó sói túi, đã tuyệt chủng vào năm 1936), có hộp sọ và răng khớp với nhau đến từng chi tiết một cách đáng kinh ngạc.

Không chỉ các dạng cơ thể tiến hóa độc lập mà cả các cơ quan và cấu trúc khác cũng vậy. Con người có mắt được thiết kế như một máy ảnh phức tạp với một thấu kính, mống mắt và võng mạc. Mực và bạch tuộc, là động vật thân mềm và có họ hàng gần hơn với ốc sên và trai, cũng tiến hóa mắt với các thành phần tương tự.

Nhìn chung, mắt có thể đã tiến hóa độc lập tới 40 lần ở các nhóm động vật khác nhau. Ngay cả sứa hộp, loài không có não, cũng có mắt với thấu kính ở gốc bốn xúc tu.

Đôi mắt của sứa hộp. Những động vật không xương sống ở gần gốc của cây tiến hóa động vật có những đôi mắt phức tạp.

Càng nhìn ra tự nhiên, chúng ta càng thấy nhiều trường hợp tương tự. Các cấu trúc như hàm, răng, tai, vây, chân và cánh đều tiếp tục phát triển độc lập trên cây sự sống của động vật.

Gần đây hơn, các nhà khoa học phát hiện ra sự hội tụ cũng xảy ra ở cấp độ phân tử. Các phân tử opsin trong mắt chuyển đổi các photon ánh sáng thành năng lượng hóa học và cho phép con người nhìn thấy. Và nó có sự tương đồng chặt chẽ với các phân tử trong mắt ở sứa hộp. Kỳ lạ hơn nữa, các loài động vật khác nhau như cá voi và dơi có sự hội tụ nổi bật trong các gen cho phép chúng định vị bằng tiếng vang.

Con người có thực sự độc đáo?

Nhiều thứ mà chúng ta muốn nghĩ rằng đó là thứ đã làm cho con người trở nên đặc biệt, hóa ra đã được tái phát minh bởi quá trình tiến hóa ở những loài khác. Một số loài quạ có trí thông minh để giải quyết nhiều vấn đề và cùng với cú, chúng có thể sử dụng các công cụ đơn giản.

Bạch tuộc vân (Amphioctopus marginatus) biết dùng mọi thứ xung quanh để ngụy trang.

Cá voi và cá heo có cấu trúc xã hội phức tạp và bộ não lớn của chúng cho phép chúng phát triển ngôn ngữ. Cá heo sử dụng các công cụ như bọt biển để che mũi khi chúng tìm kiếm thức ăn dưới khu vực đáy biển có đá. Bạch tuộc cũng sử dụng các công cụ và biết cách học hỏi từ việc xem điều gì xảy ra với những con bạch tuộc khác.

Nếu mọi thứ tiếp tục phát triển theo những cách tương tự ở đây trên Trái đất, thì có khả năng chúng cũng sẽ đi theo một quá trình liên quan nếu sự sống đã phát triển ở những nơi khác trong vũ trụ. Điều đó có thể có nghĩa là những sinh vật ngoài trái đất sẽ trông ít xa lạ và quen thuộc hơn chúng ta mong đợi.

Tham khảo: theconversation
Theo: Trí Thức Trẻ

NỖI KHỔ CỦA NGƯỜI GIÀU VÀ CÁI KHỔ CỦA NGƯỜI NGHÈO

Trên đời này, giàu hay nghèo đều có nỗi khổ riêng. Người nghèo khổ vì thiếu thốn, vì lo toan từng bữa ăn, từng đồng tiền nhỏ. Người giàu khổ vì áp lực, vì những gánh nặng vô hình mà người ngoài khó thấu hiểu.


Chúng ta thường nghĩ rằng giàu có là hạnh phúc tuyệt đối, là đời sống vinh hoa không lo âu phiền muộn. Nhưng thực ra, chẳng ai thoát khỏi quy luật nhân sinh: càng có nhiều, càng sợ mất đi; càng đứng cao, càng chịu áp lực lớn. Cũng vậy, nghèo khó không đồng nghĩa với bất hạnh, nếu một người biết đủ, biết trân trọng những gì mình đang có.

Nỗi khổ của người giàu: Khi hào quang trở thành xiềng xích

Người giàu có tiền, có địa vị, nhưng liệu họ có thật sự tự do không?

1. Áp lực gánh vác và trách nhiệm

Một người càng sở hữu nhiều, càng phải gánh vác nhiều. Tiền bạc không chỉ là của riêng họ, mà còn là của nhân viên, của gia đình, của bao nhiêu người đang dựa vào họ để sinh tồn.

Một doanh nhân thành đạt không thể tùy tiện nói “tôi mệt mỏi” rồi buông bỏ công việc. Bởi phía sau họ là hàng trăm, hàng ngàn con người cần lương, cần kế sinh nhai.

Một người giàu có không thể chỉ sống cho riêng mình. Họ bị ràng buộc bởi trách nhiệm, bởi những kỳ vọng lớn lao từ gia đình, xã hội. Càng có nhiều quyền lực, càng phải chịu đựng những cuộc đấu trí khốc liệt. Họ không thể thảnh thơi như một kẻ vô danh tiểu tốt, bởi chỉ một sai lầm nhỏ cũng có thể khiến cả đế chế của họ sụp đổ.

2. Sự đơn độc giữa đám đông

Người càng giàu, càng khó tìm được một người bạn đối đãi chân thành.

Tiền bạc là con dao hai lưỡi, nó mang lại những mối quan hệ, nhưng cũng khiến con người nghi ngờ nhau nhiều hơn. Ai tiếp cận họ, liệu có phải vì bản thân họ, hay vì số tiền họ sở hữu? Ai khen ngợi họ, liệu có xuất phát từ sự chân thành, hay chỉ vì lợi ích?

Càng giàu có, càng dễ mất đi cảm giác an toàn. Họ có thể sống trong xa hoa, nhưng tâm hồn có thể là trống trải. Họ có thể có vô số bạn bè, nhưng khi gặp khó khăn, lại chẳng biết ai thật lòng với mình.

3. Nỗi sợ mất mát

Người giàu không chỉ lo kiếm tiền, mà còn lo giữ tiền.

Khi đã sở hữu nhiều, họ sợ một ngày sẽ mất tất cả. Sự giàu có không phải là một bức tường kiên cố, mà là một tòa tháp cao chót vót, có thể sụp đổ bất cứ lúc nào.

Họ lo biến động kinh tế, lo cạnh tranh, lo bị phản bội, lo rằng một ngày mình không còn giữ được vị trí đang có. Họ phải luôn đề phòng, luôn tính toán, không thể sống tùy hứng như một người không có gì để mất.

Cái khổ của người nghèo: Khi giấc mơ bị giới hạn bởi thực tại

Người nghèo có nỗi khổ khác, nỗi khổ của thiếu thốn, của những giấc mơ chưa kịp nở đã bị thực tại bóp nghẹt.


1. Cơm áo gạo tiền: nỗi lo không bao giờ dứt

Một người nghèo không thể chỉ mơ mộng, vì họ phải lo cái ăn, cái mặc từng ngày.

Họ không thể dành thời gian để suy tư về những triết lý xa xôi, bởi những hóa đơn, tiền nhà, tiền học phí con cái cứ đè nặng trên vai.

Họ không có lựa chọn xa hoa. Khi một người giàu có thể quyết định nghỉ ngơi, du lịch để tìm lại chính mình, thì một người nghèo chỉ có thể cắm đầu vào công việc, bởi họ không được phép ngơi nghỉ.

2. Cánh cửa cơ hội hẹp hơn

Một đứa trẻ sinh ra trong nghèo khó phải cố gắng gấp mười lần để đạt được điều mà một đứa trẻ giàu có xem là hiển nhiên.

Học một trường tốt? Không có tiền.

Đi du học? Không có điều kiện.

Khởi nghiệp? Không có vốn.

Khi cha mẹ nghèo, con cái cũng dễ bị giới hạn bởi hoàn cảnh. Dù có tài năng, có ý chí, nhưng nếu không có cơ hội, nhiều người mãi mãi bị mắc kẹt trong vòng xoáy của nghèo khó.

3. Sự mỏi mệt của một đời lao động vất vả

Người nghèo không có quyền lựa chọn công việc mình yêu thích. Họ làm việc vì mưu sinh, dù công việc đó có khắc nghiệt thế nào đi nữa.

Họ làm từ sáng đến tối, không có ngày nghỉ. Họ chấp nhận những công việc nặng nhọc, nguy hiểm mà người giàu chẳng bao giờ phải đụng tay.

Có những người cả đời làm lụng vất vả nhưng vẫn không thể thoát khỏi cảnh nghèo, vì tiền kiếm được vừa đủ trang trải cuộc sống, không có dư để tích lũy hay đầu tư.

Rốt cuộc, giàu hay nghèo, ai hạnh phúc hơn?

Nếu chỉ nhìn vào vật chất, ai cũng nghĩ người giàu sẽ hạnh phúc hơn. Nhưng thực tế không đơn giản như vậy.

Hạnh phúc không nằm ở số tiền ta có, mà nằm ở cách ta cảm nhận cuộc sống và ta cách ta sống như thế nào.

Có những người nghèo nhưng biết đủ, họ trân trọng khoảnh khắc bên gia đình, họ sống bình dị mà an yên. Ngược lại, có những người giàu nhưng không ngày nào thanh thản, lúc nào cũng lo sợ, cũng bị cuốn vào những cuộc tranh đấu không hồi kết.

Người giàu khổ theo cách của người giàu, người nghèo khổ theo cách của người nghèo. Nhưng điều sau cùng sẽ quyết định một đời người không phải là họ giàu hay nghèo, mà là họ có tìm thấy bình yên trong chính tâm hồn mình hay không, có sống đúng với Thiên ý và lương tâm của mình hay không!

Vậy, phải sống thế nào để không khổ?


Có lẽ, câu trả lời nằm ở thái độ sống.

Nếu giàu có, hãy học cách buông bỏ bớt áp lực, tìm sự cân bằng giữa tiền tài và giá trị tinh thần. Quan tâm nhiều hơn, yêu thương nhiều hơn, cho đi nhiều hơn.

Nếu nghèo khó, hãy cố gắng vươn lên, nhưng đồng thời biết trân trọng những gì mình đang có, thay vì mãi oán trách số phận.


Giàu hay nghèo đều có nỗi khổ, nhưng cũng đều có cơ hội để tìm thấy hạnh phúc của riêng mình. Điều quan trọng không phải là ta có bao nhiêu, mà là ta nhìn cuộc đời bằng ánh mắt như thế nào.

Nguyên Tác An Hậu
Theo: vandieuhay

ĐẰNG VƯƠNG CÁC - VƯƠNG BỘT


Đằng Vương các

Đằng Vương cao các lâm giang chử,
Bội ngọc minh loan bãi ca vũ.
Hoạ đống triêu phi Nam phố vân,
Châu liêm mộ quyển Tây Sơn vũ.
Nhàn vân đàm ảnh nhật du du,
Vật hoán tinh di kỷ độ thu.
Các trung đế tử kim hà tại,
Hạm ngoại Trường Giang không tự lưu.


滕王閣 - 王勃

滕王高閣臨江渚
佩玉鳴鸞罷歌舞
畫棟朝飛南浦雲
珠簾暮捲西山雨
閒雲潭影日悠悠
物換星移幾度秋
閣中帝子今何在
檻外長江空自流


Gác Đằng Vương
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Cao cao Đằng gác bên sông.
Leng keng ngọc bội, ca công đã ngừng.
Nam Phố mây họa lưng chừng.
Rèm châu mưa móc, tưng bừng núi Tây.
Lững lờ đầm nước soi mây.
Sao dời vật đổi, bấy chầy bao thu.
Gác xưa đế tử vân du.
Trường Giang sóng vỗ, mịt mù ngoài song.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Bột 王勃 (649-675) tự Tử An 子安, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.

Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).

Khoảng 675-676, lúc 27-28 tuổi, Vương Bột bị đắm thuyền, chết đuối ở biển Nam Hải trên đường sang Giao Chỉ thăm cha.

Nguồn: Thi Viện



THẦN NÔNG - ÔNG TỔ CỦA NGHỀ NÔNG

Để cảm nhận rõ hơn về giá trị của Thần Nông – một nhân vật huyền thoại trong văn hóa Trung Hoa cổ, ta chỉ cần nhớ lại lời của Mahatma Gandhi – người cha của dân tộc Ấn Độ. Ông từng nói: “Thước đo thực sự của sự phồn vinh một quốc gia chính là đời sống của người nông dân và sức mạnh của nền nông nghiệp.” Và: “Quên cách cuốc đất và chăm sóc ruộng vườn, là quên mất chính bản thân mình.”

Những Anh hùng Một bức tranh minh họa Thần Nông của họa sĩ Trung Quốc thời nhà Minh Qiu Ying (仇英, 1494–1552). (Ảnh: Miền công cộng)

Câu chuyện về Thần Nông cũng bắt đầu từ đó – một con người, hoặc một vị thần – đã dành cả đời mình để chỉ dạy con người cách trồng trọt và dùng cây cỏ làm thuốc. Những đóng góp của ông không chỉ thay đổi lịch sử mà còn lưu dấu trong tâm thức con người suốt hàng ngàn năm sau.

Truyền thuyết về Thần Nông

Người Trung Hoa xưa tin rằng nền nông nghiệp nước họ có khởi nguồn từ Thần Nông (神農), nghĩa là “Người Nông Dân Thần Thánh”. Ông được cho là người đầu tiên dạy con người canh tác và dùng cây cỏ làm thuốc. Có người tin rằng Thần Nông từng tồn tại thật, có người lại cho rằng ông là nhân vật huyền thoại được truyền miệng qua nhiều đời. Nhưng dù là ai, câu chuyện về Thần Nông vẫn là một bản anh hùng ca về trí tuệ, sự hy sinh và đóng góp to lớn cho nền văn minh nhân loại.

Sự ra đời kỳ bí

Theo truyền thuyết, Thần Nông sống vào khoảng 5.000 năm trước. Mẹ ông – một nàng công chúa – đã mang thai sau khi nằm mộng thấy rồng bay ngang trời, được xem là biểu tượng cho sự kết hợp giữa trời và đất. Có người cho rằng cha ông chính là một con rồng thiêng, ban cho ông sức mạnh thần thánh.

Ngay từ khi lọt lòng, Thần Nông đã có những dấu hiệu phi thường: ông biết nói chỉ sau vài ngày, biết đi sau một tuần, và đến năm ba tuổi thì đã biết cày ruộng. Theo Sử ký của Tư Mã Thiên và Hoài Nam tử thời Hán, Thần Nông lớn lên trở thành một vị thủ lĩnh nhân hậu, chăm chỉ và tràn đầy lòng thương dân.

Vẻ ngoài đặc biệt

Bản khắc gỗ thời Đường (618-907) của Thần Nông, họ Khương (Gừng). Vào thời xa xưa, ông đã kế vị Phục Hy làm Hoàng đế. (Ảnh: Gan Bozong qua Commons Wikimedia CC BY 4.0)

Thần Nông thường được mô tả với thân hình vạm vỡ và đầu có sừng – hoặc mang đầu của một con bò. Những hình ảnh này tượng trưng cho mối liên kết giữa ông với nông nghiệp và chăn nuôi, cũng như sự kiên trì và sức mạnh cần có của một người làm nông.

Người khai sinh nghề nông

Trước khi nghề nông ra đời, con người chủ yếu sống dựa vào săn bắt và hái lượm. Cuộc sống luôn đối mặt với nạn đói và thiếu thốn.

Truyền thuyết kể rằng, Thần Nông đã dày công quan sát, thử nghiệm để tìm ra loại cây có thể trồng được. Ông sáng chế ra những nông cụ đầu tiên như rìu, cuốc và cày. Không chỉ vậy, ông còn hướng dẫn người dân cách thuần hóa vật nuôi và xây dựng hệ thống tưới tiêu.

Nhờ ông, con người biết phát quang đất hoang, gieo hạt, thu hoạch đúng cách và giữ lại hạt giống cho mùa sau – từ đó ổn định lương thực và mở ra thời kỳ phát triển dân số.

Các loại lương thực cơ bản như lúa, kê, lúa mì và đậu được cho là do Thần Nông giới thiệu. Ông cũng tạo ra lịch nông nghiệp đầu tiên, giúp người dân trồng trọt theo mùa vụ và nhịp điệu tự nhiên.

Khám phá dược liệu

Thần Nông được cho là sẽ nếm các loại thảo mộc và quan sát tác dụng của chúng thông qua dạ dày trong suốt của mình. (Ảnh: Commons Wikimedia CC BY 4.0)

Không chỉ quan tâm đến cái ăn, Thần Nông còn lo cho sức khỏe của người dân. Thời ấy, con người chưa biết loại cây nào ăn được, loại nào độc. Có nhiều người vì ăn nhầm mà bị ngộ độc, thậm chí tử vong.

Thần Nông đã quyết định tự mình nếm thử từng loại cây để tìm ra đâu là dược liệu, đâu là chất độc. Nhờ có cái bụng trong suốt – theo truyền thuyết – ông có thể nhìn thấy phản ứng của cơ thể với từng loại cây cỏ.

Ông ghi chép cẩn thận tất cả những gì học được, tạo thành quyển sách y học cổ đầu tiên: Thần Nông Bản Thảo Kinh, ghi lại 365 loại thảo dược, trong đó có trà, nhân sâm và ma hoàng. Cuốn sách này trở thành nền tảng cho y học cổ truyền Trung Quốc.

Thần Nông phân loại cây cỏ thành ba nhóm:

Cây lành – Có thể ăn hằng ngày, giúp cơ thể khỏe mạnh.

Cây thuốc – Dùng chữa bệnh, nhưng phải cẩn trọng.

Cây độc – Tuyệt đối tránh xa vì có thể gây hại.

Một trong những câu chuyện nổi tiếng nhất kể rằng, một hôm Thần Nông đang đun nước thì lá trà rơi vào nồi. Khi uống thử, ông thấy người nhẹ nhõm, tinh thần tỉnh táo, và còn giúp giải độc. Từ đó, trà trở thành thức uống quen thuộc và mang đậm giá trị văn hóa Á Đông.

Cái chết vì lòng vị tha

Người ta nói rằng Thần Nông đã chết vì ăn phải cỏ Gelsemium elegans, còn được gọi là cỏ đau lòng. (Ảnh: EJY257 qua Commons Wikimedia CC BY-SA 4.0)

Thần Nông dấn thân vào công việc nghiên cứu dược liệu, dù biết trước hiểm nguy. Và chính tấm lòng ấy đã khiến ông phải hy sinh.

Một hôm, ông thử một loài hoa vàng mà không biết đó là loại cực độc – ngày nay gọi là “Đoạn Trường Thảo”. Chất độc mạnh đến mức làm bụng ông vỡ toang trước khi kịp uống thuốc giải. Cái chết của ông để lại niềm tiếc thương sâu sắc, nhưng cũng trở thành biểu tượng cho tinh thần hy sinh vì cộng đồng.

Di sản bất diệt

Cho đến ngày nay, Thần Nông vẫn được tôn kính tại nhiều nơi ở Trung Quốc. Ông được gọi là “Ông Tổ của nghề nông” và “Thần Y”, được thờ phụng trong đạo giáo, nhất là vào mùa gieo trồng và thu hoạch. Hàng năm, người dân tổ chức lễ hội để tưởng nhớ ông, biết ơn vì lương thực và thuốc men mà họ có ngày hôm nay.

(Ảnh: alchetron.com)

Nhờ trí tuệ và lòng dũng cảm của Thần Nông, con người đã bước ra khỏi thời kỳ săn bắt lạc hậu, tiến tới nền văn minh nông nghiệp và y học. Dù ông là nhân vật có thật hay huyền thoại, những gì ông đại diện – tri thức, lòng nhân ái và sự tận tụy – vẫn luôn là tấm gương cho hậu thế.

Khai Tâm biên dịch
Theo: visiontimes