Saturday, January 18, 2025

CON NGƯỜI KHI CHẾT LIỆU CÓ THỂ MANG THEO ĐƯỢC GÌ?

Đạo gia cho rằng con người là trân quý nhất. Việc lớn nhất mà con người nên theo đuổi là tìm ra mục đích của sinh mệnh, cuối cùng là đắc Đạo thành tiên, phản bổn quy chân. Đạo gia đề cao việc khám phá sinh mệnh, trong đó sinh tử là một vấn đề quan trọng mà họ quan tâm hàng đầu. Hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu một câu chuyện ngắn, con người khi chết đi liệu có thể mang theo những gì.

Đạo gia giảng: “Con người khi chết liệu có thể mang theo được gì?” (Nguồn: Adobe Stock)

Có một người vừa mới qua đời, ngay lúc anh ta nhận ra cuộc sống của mình ngắn ngủi như vậy, anh ta nhìn thấy sứ giả Địa Phủ mang một chiếc rương bước tới.

Sứ giả Địa Phủ nói: “Được rồi, chúng ta đi thôi!”

Chàng trai nói: “Nhanh thế sao? Tôi vẫn còn nhiều việc chưa hoàn thành.”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Xin lỗi, thời gian của anh đến rồi.”

Chàng trai hỏi sứ giả Địa Phủ: “Trong chiếc rương của ông có gì vậy?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Đó là những di vật của anh.”

Chàng trai nghi hoặc nói: “Những di vật của tôi? Ý ông là quần áo và tiền của tôi sao?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Những thứ đó chưa bao giờ thuộc về anh, chúng thuộc về dương gian.”

Chàng trai tiếp tục hỏi: “Có phải là ký ức của tôi không?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Không phải, chúng thuộc về thời gian.”

Chàng trai đoán tiếp: “Vậy phải chăng là tài năng thiên phú của tôi?”

Sứ giả Địa Phủ trả lời: “Không phải, chúng thuộc về cảnh ngộ.”

Chàng trai hỏi: “Vậy là bạn bè và gia đình của tôi à?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Không, họ thuộc về hành trình mà anh đã trải qua.”

Chàng trai tiếp tục hỏi: “Có phải là vợ con của tôi không?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Không, họ thuộc về trái tim anh.”

Chàng trai nói: “Vậy chắc chắn là thân thể của tôi rồi.”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Không, thân thể của anh thuộc về cát bụi.”

Cuối cùng, chàng trai khẳng định: “Vậy thì chắc chắn là linh hồn của tôi!”

Sứ giả Địa Phủ mỉm cười nói: “Anh hoàn toàn sai rồi, linh hồn của anh là thuộc về ta.”

Người đàn ông nhận lấy chiếc rương từ tay sứ giả Địa Phủ, mở ra và thấy bên trong trống rỗng! 

Chiếc rương trống rỗng (Nguồn: pngtree)

Anh ta rơi nước mắt, với trái tim tan nát hỏi sứ giả Địa Phủ: “Tôi chưa bao giờ sở hữu bất cứ thứ gì sao?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Đúng vậy, trên thế gian này không có thứ gì thật sự là thuộc về anh.”

Chàng trai hỏi: “Vậy, điều gì mới là của tôi?”

Sứ giả Địa Phủ nói: “Mỗi khoảnh khắc anh sống trên thế gian này đều là của anh.”

Một lời nói đánh thức người trong giấc mơ, nhưng đã quá muộn rồi.

Nhân sinh trăm năm trôi qua nhanh chóng. Con người suốt đời đấu tranh vì danh và lợi, khi chết cũng chẳng thể mang theo được gì, trừ những thống khổ giây phút cuối đời.

Hãy trân trọng những người xung quanh, không tranh cãi, không giận dữ, hãy nói lời tử tế với họ, thấu hiểu và tôn trọng lẫn nhau. Vì thời gian của mỗi người ngày càng ít đi, cuối cùng chúng ta sẽ phải chia tay nhau. Đừng phí phạm thời gian, đừng than thở vô ích, hãy sống mỗi ngày một cách đơn giản và tận hưởng.

Chúng ta tới thế gian này với mục đích gì? Điều gì là quan trọng nhất đối với chính bản thân chúng ta? Đó là những câu hỏi mà mọi người nên thật sự suy ngẫm.

Lan Chi biên dịch / Theo: vandieuhay

Friday, January 17, 2025

CÂY BÍ ẨN NÀY ĐƯỢC MỆNH DANH LÀ "CÂY NGUY HIỂM NHẤT THẾ GIỚI" MỌC HOANG NHIỀU Ở VIỆT NAM, CÁC CHUYÊN GIA BÓ TAY!

Mặc dù loài cây bí ẩn này mang đến cho chúng ta sự tò mò và khao khát khám phá vô tận, nhưng chúng ta phải biết rằng trong tự nhiên tồn tại hàng loạt những sức mạnh đáng kinh sợ. Có lẽ đối với khoa học hiện đại ngày nay, bí ẩn về sinh vật được mệnh danh là “cây nguy hiểm nhất thế giới” vẫn chưa được giải mã, điều này không có nghĩa là chúng ta nên dừng lại. Hãy cùng nỗ lực, tạo ra nhiều khả năng mới để giải mã bí ẩn về sinh vật này!

Cây Datura, hay còn gọi là cà độc dược (Nguồn: aboluowang.com)

Cây nguy hiểm nhất thế giới: cây Datura

Cây Datura (hay còn gọi là “cà độc dược”) được biết đến là một trong những loại cây nguy hiểm nhất thế giới. Những bông hoa xinh đẹp và dược tính độc đáo của nó đã thu hút sự chú ý rộng rãi trên toàn thế giới, nhưng nó cũng mang đến những nguy hiểm và thách thức lớn cho con người.

Cây Datura ban đầu xuất hiện ở Nam Mỹ, sau đó được du nhập vào các khu vực khác. Hoa của cây có màu sặc sỡ, thơm ngát và rất lôi cuốn. Tuy nhiên, vẻ đẹp bên ngoài ẩn giấu sự nguy hiểm của nó. Toàn bộ cây Datura đều có độc, bao gồm lá, hoa và quả. Độc tính chủ yếu của nó đến từ nhiều loại alkaloid sinh học, bao gồm alkaloid Datura và atropine. Những alkaloid này được sử dụng rộng rãi trong y học và các nghi lễ thờ cúng bí mật, nhưng nếu sử dụng sai cách có thể gây ra trường hợp ngộ độc nghiêm trọng hoặc thậm chí tử vong.

Độc tính của cây Datura ảnh hưởng đến nhiều hệ thống trong cơ thể. Alkaloid của nó có thể được hít vào qua hệ hô hấp, gây cảm giác cháy rát cổ họng, khó thở và ho. Nếu tiếp xúc với da, alkaloid này có thể gây ra dị ứng, ngứa và sưng. Việc ăn quả hoặc các phần của cây Datura thường gây ra triệu chứng ngộ độc nghiêm trọng, như chóng mặt, ảo giác, đồng tử mở to, nhịp tim tăng, triệu chứng về đường tiêu hóa và nhiều triệu chứng khác.

Mặc dù cây Datura mang lại nguy hiểm lớn, nhưng nó vẫn được xem như một loại cây linh thiêng trong một số nền văn hóa. Điều cần cảnh báo là, vẻ đẹp của bông hoa và sức quyến rũ của cây Datura có thể khiến người ta bỏ qua tính nguy hiểm của nó. Nhiều người lơ là việc tự bảo vệ mình khi ngắm hoa và vô tình tiếp xúc với các bộ phận của cây dẫn đến ngộ độc.

Phải duy trì đủ cảnh giác và kiến ​​thức khi xử lý cây này. Đối với người bình thường, tốt nhất nên tránh tiếp xúc với cây và các bộ phận của nó để tránh vô tình bị ngộ độc. Đặc biệt, trẻ em và vật nuôi cần được theo dõi chặt chẽ để ngăn ngừa việc nuốt phải hoặc ăn nhầm cây này.

Nguồn: aboluowang.com

Datura là một trong những cây nguy hiểm nhất thế giới. Mặc dù vẻ đẹp và dược tính tiềm tàng của nó rất hấp dẫn nhưng mối nguy hiểm cũng rất lớn. Mọi người cần nâng cao hiểu biết về nó, nâng cao nhận thức về rủi ro và cẩn thận tránh tiếp xúc với nó để bảo vệ bản thân và người khác.

Thông qua nghiên cứu khoa học và giáo dục, chúng ta có thể hiểu rõ hơn về sự nguy hiểm của cây và ngăn ngừa những rủi ro không đáng có. Chỉ bằng cách này, chúng ta mới có thể thực sự trân trọng vẻ đẹp của cây mà không phải trả giá bằng mạng sống của mình.

Tại sao các chuyên gia bó tay: cây Datura chứa thành phần cực độc

Cây Datura chủ yếu phân bố ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, hoa thường có hình ống, mang nhiều màu sắc đa dạng, quyến rũ và thu hút sự chú ý. Đây cũng là một trong những lý do mà cây này được trồng rộng rãi và sử dụng làm cây cảnh. Mặc dù vẻ đẹp của nó quyến rũ nhưng lại ẩn chứa nguy cơ lớn.

Nguồn: aboluowang.com

Cây Datura chứa nhiều thành phần hóa học, trong đó độc nhất là daturaline (Atropine) và atropine (Scopolamine). Những thành phần này có tác dụng kháng cholinergic mạnh và có thể cản trở hoạt động bình thường của hệ thần kinh. Sau khi cơ thể con người tiếp xúc với những chất độc này sẽ dễ xuất hiện các triệu chứng ngộ độc, bao gồm giãn đồng tử, khô miệng, nhịp tim nhanh, mờ mắt, ảo giác, buồn ngủ, v.v. Trong trường hợp nghiêm trọng, người bị nhiễm độc có thể gặp các triệu chứng như cứng cơ, khó thở hoặc thậm chí hôn mê.

Bởi vì độc tính của cây Datura, các chuyên gia cảm thấy bất lực khi đối mặt với các trường hợp ngộ độc liên quan đến nó. Độc tính của cây Datura rất mạnh, ngay cả khi tiếp xúc một lượng nhỏ cũng có thể gây ra triệu chứng ngộ độc nghiêm trọng. Khi có nghi ngờ về ngộ độc, nhiều người không biết phải ứng phó thế nào nên trì hoãn việc sơ cứu.

Việc giải độc chất độc của cây Datura khó khăn. Hiện nay, chưa có một phương pháp giải độc hiệu quả nào có thể khắc phục tác dụng của chất độc từ cây Datura. Do đó, trong cấp cứu y tế, các chuyên gia thường chỉ có thể thực hiện điều trị hỗ trợ dựa trên tình trạng cụ thể của bệnh nhân, giúp họ giảm triệu chứng và loại bỏ chất độc.

Độc tính cực mạnh của cây Datura cũng mang lại mối đe dọa đáng kể cho con người. Mặc dù một số người biết rõ cây Datura có độc, nhưng vẫn trồng nó tại nhà hoặc các khu vực công cộng vì nhiều lý do khác nhau. Những người vô tình tiếp xúc với cây Datura có nguy cơ bị ngộ độc tiềm ẩn. Quản lý và giám sát cây Datura một cách hợp lý là điều cực kỳ quan trọng để phòng ngừa các sự cố ngộ độc, nhưng các chuyên gia cũng phải bó tay do thiếu phương pháp giải độc hiệu quả.

Nguồn: aboluowang.com

Môi trường sống của cây Datura: khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới

Cây Datura được trồng rộng rãi và mọc hoang, chủ yếu sinh sống ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới. Loại cây này được trồng và sử dụng rộng rãi ở những khu vực này vì hoa đẹp, dược tính và lịch sử y học bí ẩn.

Đặc điểm khí hậu ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới là môi trường lý tưởng cho sự phát triển của cây Datura. Những vùng này thường có nhiệt độ và độ ẩm cao, điều này rất có lợi cho sự phát triển của cây Datura. Nhiệt độ cao có thể thúc đẩy quá trình sinh trưởng và sinh sản của cây, trong khi độ ẩm cung cấp nước và duy trì độ ẩm cho đất. Điều kiện thời tiết ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới cho phép cây Datura phát triển mạnh mẽ.

Điều kiện đất đai ở những khu vực này cũng rất phù hợp cho sự sinh tồn của cây. Ở khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới, do lượng mưa cao nên đất thường khá phì nhiêu. Đất phì nhiêu chứa nhiều chất dinh dưỡng, cung cấp nguồn dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của cây Datura. Đồng thời, đất ở khu vực này thường được giữ ẩm, tạo điều kiện tốt cho cây hấp thụ nước.

Nguồn: aboluowang.com

Ánh sáng mặt trời cũng là điều kiện cần thiết cho sự phát triển của cây Datura. Vì nằm gần xích đạo, khu vực nhiệt đới và cận nhiệt đới có ánh sáng mặt trời đầy đủ và mạnh mẽ. Cây Datura cần ánh sáng đầy đủ để thực hiện quá trình quang hợp, tạo ra năng lượng và thúc đẩy quá trình sinh trưởng. Điều kiện ánh sáng ở khu vực này cung cấp nguồn năng lượng quan trọng cho sự phát triển của cây Datura.

Khí hậu ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới cũng đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của cây Datura. Ở những khu vực này, thực vật thường có nguy cơ bị sâu bệnh cao hơn do độ ẩm cao hơn. Tuy nhiên, cây Datura có khả năng kháng sâu bệnh tốt, có thể phát triển tốt ở môi trường có độ ẩm cao hơn và chống chịu được các bệnh bên ngoài.

Vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới có khí hậu đặc trưng, đất đai phù hợp và ánh sáng mặt trời dồi dào đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của cây Datura. Loại cây này không chỉ phát triển khỏe mạnh trong khu vực này mà còn có khả năng liên tục ra hoa, kết quả và khai thác giá trị dược phẩm. Cây Datura ở vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới không chỉ là một loại cây cảnh xinh đẹp mà còn là một loại cây dược phẩm quan trọng, mang ý nghĩa quan trọng đối với cuộc sống và văn hóa của người dân địa phương.

Lan Chi biên dịch
Nguồn: Aboluowang (Vương Hoà)

ẨM TỬU KỲ 5 - ĐÀO TIỀM


Ẩm tửu kỳ 5 - Đào Tiềm

Kết lư tại nhân cảnh,
Nhi vô xa mã huyên.
Vấn quân hà năng nhĩ,
Tâm viễn địa tự thiên.
Thái cúc đông ly hạ,
Du nhiên kiến Nam sơn.
Sơn khí nhật tịch giai,
Phi điểu tương dữ hoàn.
Thử hoàn hữu chân ý,
Dục biện dĩ vong ngôn.


飲酒其五 - 陶潛

結廬在人境
而無車馬喧
問君何能爾
心遠地自偏
採菊東籬下
悠然見南山
山氣日夕佳
飛鳥相與還
此還有真意
欲辨已忘言


Uống rượu kỳ 5
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Nhà tranh tạm lánh thế trần.
Ngựa xe huyên náo, muôn phần cách xa.
Ngoài tai mọi chuyện bỏ qua.
Trời cao đất rộng, lòng già thênh thang.
Bên hiên hái dậu cúc vàng.
Núi Nam xa tít, nhẹ nhàng ngắm ra.
Đẹp thay dáng núi chiều tà.
Chim bay mỏi cánh, ghé qua chốn này.
Cảnh bày chân ý đẹp thay.
Ngừng lời ta chẳng dãi bày được chi !


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.

Nguồn: Thi Viện



GIẢI MÃ KÊNH ĐÀO PANAMA - KỲ 2: NGƯỜI MỸ THAY PHÁP ĐÀO KÊNH PANAMA

Năm 1894, tử tước người Pháp Viscount Ferdinand Marie de Lesseps (1805-1894) qua đời sau phiên tòa kết tội ông cùng con trai và các cộng sự vì thất bại ở Panama.

Việc kênh đào Panama được thông sẽ có địa thế chiến lược ở Trung Mỹ vả ảnh hưởng cả thế giới - Ảnh: Daily Mail

Nỗ lực hơn 10 năm họ thực hiện dự án kênh đào nhân tạo vĩ đại này đành phải bỏ dở. Cùng năm ông Lesseps mất, công ty Pháp thứ hai là Compagnie Nouvelle du Canal de Panama được thành lập để tiếp tục dự án lại nhanh chóng thất bại.

Đây cũng là thời điểm bình minh thế kỷ 20 và người Mỹ đã tiếp tục công việc khơi tạo một thủy lộ vĩ đại nối liền Đại Tây Dương và Thái Bình Dương.

Người Mỹ vào cuộc

Thật ra từ thế kỷ 19, Mỹ cũng như các cường quốc hải quân Anh, Pháp, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha... đã rất quan tâm các hải lộ để phát triển giao thương cũng như tác động đến các vùng đất mới.

Đặc biệt, ngay nước Mỹ, nếu có một con kênh đào như Panama sẽ rút ngắn được hơn nửa hải trình khi so với đường biển tự nhiên đi từ bờ đông giáp Đại Tây Dương sang bờ tây giáp Thái Bình Dương phải vòng qua mũi Cape Horn ở Chile, Nam Mỹ.

Nhiều năm trước khi thay Pháp làm kênh đào Panama, Mỹ cũng đã nhắm đến thủy lộ khác băng qua Nicaragua để nối Thái Bình Dương và Đại Tây Dương nhằm phục vụ cả hai mục đích hải quân và kinh tế cho một thế lực quốc tế mới nổi như Mỹ.

Tuy nhiên dự án "anh em song sinh với kênh đào Panama" này đã không thể thực hiện được vì có nhiều ý kiến "bàn lùi".

Trong đó có cả ý kiến Nicaragua là quốc gia núi lửa sẽ gây nguy hiểm cho việc thi công đào kênh cũng như việc vận hành, tu bổ kênh về sau.

Một nhân vật đặc biệt là kỹ sư Philippe Jean Bunau Varilla, người Pháp từng tham gia kỹ thuật trong nỗ lực đào kênh Panama trước đó của tử tước Viscount Ferdinand Marie de Lesseps.

Tử tước người Pháp Viscount Ferdinand Marie de Lesseps thất bại ở kênh đào Panama để sau đó người Mỹ tiếp tục việc ông dở dang - Ảnh: Wikipedia

Những năm cuối thế kỷ 19, tham vọng của Pháp thất bại nhưng kỹ sư Bunau Varilla vẫn không từ bỏ khao khát khai mở đường thủy này.

Ông trực tiếp lẫn gián tiếp thông qua các nhà ngoại giao và thương nhân để tác động giới lập pháp Mỹ về viễn cảnh lợi ích to lớn và lâu dài khi có kênh đào Panama.

Chính ông là người "bàn lùi" rằng Nicaragua có núi lửa nguy hiểm, không nên đào kênh qua đây và Panama là lựa chọn khả thi hơn nhiều.

Rào cản Colombia

Cuối cùng, người Mỹ đã chuyển hướng đến Panama nhưng lại gặp trục trặc với Colombia thời điểm đó vẫn đang "bảo hộ" Panama.

Năm 1902, Thượng viện Mỹ chuẩn thuận thương vụ mua lại dự án kênh đào dở dang của Pháp, nhưng Colombia lại không đồng ý cho phép Mỹ xây dựng kênh đào vì họ sợ mất "chủ quyền" và lợi ích của mình ở đây.

Thế là thế lực chính trị và quân sự hùng mạnh Mỹ dưới thời Tổng thống thứ 26 Theodore Roosevelt đã ngả sang hỗ trợ người dân bản địa Panama kháng chiến chống sự kiểm soát của chính quyền Colombia.

Sự nổi dậy này được gọi là phong trào Separatist Junta do các đại điền chủ Panama thống nhất đấu tranh dưới quyền của nhà lãnh đạo Manuel Amador Guerrero nhằm "giải phóng" Panama khỏi Colombia.

Đặc biệt trong đó có cả vai trò rất lớn của kỹ sư Pháp Philippe Jean Bunau Varilla, người vẫn quyết tâm thực hiện kênh đào dù đã trải qua hai lần thất bại.

Ban đầu chính quyền Colombia quyết định trấn áp, đưa quân đội mà chủ yếu là theo tuyến đường sắt mới mở đến giải tán phong trào nổi dậy.

Tuy nhiên chính người Mỹ lại xây dựng và quản lý tuyến đường sắt này nên quân đội Colombia đã bị chặn đường hành quân. Trong khi đó các chiến hạm áp đảo của Mỹ cũng áp sát bờ biển, sẵn sàng khai hỏa ủng hộ người Panama nổi dậy...

Người Mỹ đã từ bỏ toan tính đào kênh qua Nicaragua, để chọn lựa ở Panama

Quân đội Colombia đành phải "xuống thang". Ngày 3-11-1903, Panama tuyên bố độc lập thì chỉ ba ngày sau đó, ngoại trưởng Mỹ đương nhiệm John Hay và kỹ sư Bunau Varilla làm đại diện cho chính phủ lâm thời Panama đã thỏa thuận Hiệp ước Hay-Bunau Varilla liên quan đến kênh đào.

Mỹ nhanh chóng công nhận nền độc lập non trẻ của Cộng hòa Panama. Hiệp ước Hay-Bunau Varilla cũng vội vã được Mỹ và Panama ký cho phép Mỹ sở hữu độc quyền đối với khu vực kênh đào Panama rộng hơn 1.300km².

Mỹ có trách nhiệm chi trả cho Panama 10 triệu USD, sau đó có thỏa thuận trả thêm cho hiệp ước này. Đồng thời Mỹ cũng chi trả 40 triệu USD để mua lại dự án dở dang của Pháp.

Các sử gia cho rằng việc người Mỹ thay Pháp tiếp tục thực hiện dự án kênh đào Panama có nỗ lực của nhiều người từ các chính khách, nhà thầu, quân đội... nhưng hai nhân vật có vai trò rất quan trọng là kỹ sư Philippe Jean Bunau Varilla và Tổng thống Theodore Roosevelt.

Trong khi kỹ sư người Pháp nỗ lực vận động các công ty Mỹ tiếp tục làm dự án người Pháp bỏ dở, thì Tổng thống Theodore Roosevelt vừa công khai vừa ngầm ủng hộ như hỗ trợ phong trào nổi dậy của người dân Panama để công ty Mỹ có thể vào đây.

Công nhân đào kênh Panama bằng sức người năm 1885 thời công ty Pháp còn làm dự án - Ảnh: Daily Mail

Tầm nhìn Tổng thống Theodore Roosevelt

Tổng thống Theodore Roosevelt (1858-1919) có tám năm lãnh đạo nước Mỹ từ 1901-1909 trong thập niên bình minh thế kỷ 20, một thế kỷ bước ngoặt nhân loại của cả các cuộc đại chiến và phát triển nhảy vọt trên nhiều lĩnh vực.

Ông từng làm phó tổng thống rồi lên làm tổng thống ở tuổi 42 trẻ nhất của Mỹ sau khi Tổng thống đương nhiệm William McKinley bị ám sát.

Từng học Đại học Havard, đam mê khám phá, khoa học, viết sách và trải qua nhiều công việc, vị trí khác nhau, đặc biệt là chỉ huy quân đội nên Tổng thống Theodore Roosevelt có tính cách mạnh mẽ và tầm nhìn rộng về địa chính trị thế giới.

Ông chính là người phát triển tầm ảnh hưởng của Mỹ ở vùng Trung Mỹ với điểm nhấn ủng hộ dự án xây dựng kênh đào Panama.

Với kinh nghiệm lãnh đạo hải quân Hoa Kỳ, Tổng thống Theodore Roosevelt có tầm nhìn đúng đắn về sự cần thiết khai mở một thủy lộ cho tàu bè rút ngắn hải trình từ Đại Tây Dương sang Thái Bình Dương, tất nhiên chủ yếu phục vụ các tàu buôn và chiến hạm Mỹ đang phát triển mạnh mẽ ở thời kỳ các cường quốc hải quân lùi dần vào suy thoái.

Nếu các cuộc đại chiến xảy ra, kênh đào Panama sẽ có vị thế chiến lược với Mỹ và thực tế đã hoàn toàn đúng như vậy ngay từ Thế chiến thứ nhất và Thế chiến thứ hai.

Sau khi hoàn tất các thủ tục cấp phép theo Hiệp ước Hay-Bunau Varilla, năm 1904 các nhà thầu Mỹ bắt đầu thực hiện dự án kênh đào Panama. Họ đã đưa đến nhiều máy móc mới hơn thời tử tước người Pháp Viscount Ferdinand Marie de Lesseps làm.

Đặc biệt là các kỹ sư của họ cũng bỏ phương án đào kênh sâu tự nhiên theo mực nước biển vốn rất khó khăn mà ban đầu ông Lesseps đã chọn, để thay bằng phương pháp âu thuyền nâng ở hai đầu.

Tuy nhiên, tiềm lực hùng mạnh và phương pháp đào kênh hiện đại của Mỹ cũng không thể giúp họ hoàn toàn tránh khỏi những khó khăn, thiệt hại nặng nề như người Pháp đã từng sa lầy ở công trình vĩ đại này.

Hàng chục ngàn công nhân được hải thuyền Mỹ chở đến từ các quốc gia khác nhau và họ lại tiếp tục bỏ mạng ở công trình kênh đào Panama.

Kỳ tới: Hiểm họa rắn rết, muỗi độc và sạt lở

Thùy Chi / Theo: TTO

HƯƠNG SẮC BỐN MÙA NHẬT BẢN TRONG TỪNG CHIẾC BÁNH WAGASHI

Wagashi là loại bánh xinh xắn người Nhật luôn yêu thích dùng trong các buổi trà đạo, tiệc cưới và làm quà tặng cho bạn bè, người thân.


Wagashi có tên phiên âm tiếng Việt là Hoa quả tử, nghĩa của cái tên này là “vẻ đẹp tự nhiên”. Wagashi là tên gọi chung của bánh kẹo Nhật Bản cổ truyền, dùng để phân biệt với bánh kẹo phương Tây Yogashi. Từ những nguyên liệu tươi ngon tự nhiên, vận dụng các kỹ thuật làm bánh truyền thống, người thợ làm Wagashi luôn tha thiết truyền tải cảm xúc, phô diễn sức sáng tạo và tô điểm cho Wagashi, biến chúng thành những đoá hoa muôn hương ngàn sắc trong địa đàng ẩm thực Nhật Bản.

Muốn cảm thụ Wagashi, phải thưởng thức bằng cả 5 giác quan: nghe tên gọi bằng tai, nhìn bằng mắt, chạm bằng tay, ngửi bằng mũi, và nếm bằng miệng. Dường như cả tinh thần của Xứ sở Phù Tang đều ẩn chứa trong loại bánh này.

“Mùa nào thức ấy”, Wagashi không chỉ được chế biến từ những nguyên liệu đặc trưng theo mùa, mà còn là những tác phẩm nghệ thuật cầu kì

Nguyên liệu để chế biến bánh Wagashi chính là bột nếp, hoa quả và nhân đậu đỏ. Sự xuất hiện của bánh đã giúp cho những bữa tiệc trà đạo của người dân Nhật trở nên đậm đà và có ý nghĩa hơn. Theo một số tài liệu, nguồn gốc của loại bánh này bắt nguồn từ thời Jomon (14.000 TCN - 300 TCN), khi người dân Nhật Bản sử dụng gạo, đậu và trái cây để làm bánh cúng tế thần linh. Trải qua nhiều thế kỷ, Wagashi đã phát triển và thay đổi theo thời gian, mang đậm dấu ấn văn hóa và lịch sử của mỗi triều đại.

Wagashi không ngừng thay hình đổi sắc, lúc hóa thành một cánh hoa anh đào chớm nở

Mùa xuân nổi bật với Sakura Mochi, bánh gạo nếp hình hoa anh đào có nhân đậu đỏ tượng trưng cho sự khởi đầu mới và vẻ đẹp mong manh. Mùa hè là Mizugashi từ thạch mát lạnh làm vị trái cây giúp giải nhiệt cơ thể trong thời tiết nóng bức. Mùa thu thì Kaki no Yokan, loại bánh thạch đậu đỏ hình quả hồng mang ý nghĩa sung túc và thu hoạch bội thu của mùa thu.

Ở Wagashi, nét sống động như gói trọn cả trời đất rộng lớn vô cùng vào chiếc bánh nhỏ bé vô cùng

Cuối cùng, mùa đông bánh gạo nếp Uiro dẻo dai được yêu thích, nó có nhiều hương vị khác nhau như trà xanh, hoa anh đào… mang đến cảm giác ấm áp và ngọt ngào trong những ngày lạnh giá.

Wagashi không còn là một món ăn, mà đã trở thành một nét văn hóa hấp dẫn của Nhật Bản

Vì Wagashi làm từ các lọai đậu, ngũ cốc, rong biển và các loại thảo quả sấy khô, các nguyên liệu truyền thống nên người thưởng thức có thể cảm nhận được mùi vị thiên nhiên thanh khiết với vị ngọt nhẹ nhàng, mát lạnh như tan ra trên đầu lưỡi. Chưa hết, khi cầm trong tay chiếc bánh bạn sẽ cảm nhận sự mềm mại, độ ẩm, độ giòn khi cắt, cảm nhận độ tan của bánh trong miệng, tất cả mang lại cho bạn cảm giác tươi ngon và sự độc đáo của một tác phẩm ẩm thực.

Theo thời gian, đôi lúc bánh Wagashi bị ảnh hưởng bởi văn hóa nước ngoài nhưng nhìn chung, chúng vẫn giữ được những nét văn hóa riêng của Nhật Bản

Mỗi loại Wagashi đều mang hương vị lẫn hình dáng riêng biệt. Dần dà, càng có nhiều món bánh hấp dẫn được sáng tạo, thậm chí là theo từng tháng trong năm. Loại bánh này thường được chia thành các nhóm nhỏ, có thể gọi tên như Namagashi. Nhóm này bao gồm các loại bánh tươi có độ ẩm trên 30%. Namagashi có những dạng thức chế biến đặc thù như dạng bánh Mochi (Mochimono), bánh hấp và bánh chiên. Trong đó, bánh dạng Mochi là những loại bánh có nguyên liệu chính là gạo nếp hoặc gạo tẻ được chế biến theo phương pháp làm bánh Mochi.

Người dân Nhật Bản vốn có quan niệm mỹ học rất sâu sắc, do đó cái đẹp trở thành chuẩn mực hàng đầu trong mọi lĩnh vực của đời sống Nhật Bản

Ngoài ra còn có Hannamagashi, là các loại bánh có độ ẩm khoảng 10 - 30%. Hannamagashi có hai dạng thức chế biến đặc thù là Anmono và Okamono, trong đó Anmono là những loại bánh có lớp vỏ ngoài khá mỏng, điểm hấp dẫn nằm ở phần nhân đậu nghiền nhão (An), còn Okamono là loại bánh có sự kết hợp giữa các thành phần được chế biến độc lập nhau.

Vậy nên nếu có dịp ghé thăm quốc gia này vào bất kỳ thời điểm nào, đừng bỏ lỡ món “bánh hoa” vừa thơm ngon vừa bắt mắt. Thưởng thức Wagashi không chỉ là thỏa mãn cơn thèm ngọt mà còn để cảm nhận sự tinh tế của thiên nhiên và văn hóa Nhật Bản.

Khánh Linh / Theo: travellive



Thursday, January 16, 2025

VÌ SAO DƠI TREO NGƯỢC CƠ THỂ KHI NGỦ?

Khi nghỉ ngơi hoặc ngủ, dơi luôn treo ngược mình lên, đầu chúc xuống phía dưới, dùng vuốt của hai chi sau móc vào khe hở của vách đá, tường, xà nhà...


Vì sao dơi treo ngược cơ thể khi ngủ?

Khi đi vào một hang núi lớn hiếm có vết chân người, ta thường phát hiện trên đỉnh vách hang treo hàng trăm con dơi. Hang núi lớn chính là nơi dơi thích cư trú nhất.

Rất nhiều con dơi còn thích sống ở trong nhà bỏ hoang hoặc dưới mái hiên nhà, khi chúng nghỉ ngơi hoặc ngủ, luôn treo ngược mình lên, đầu chúc xuống phía dưới, dùng vuốt của hai chi sau móc vào khe.

Nếu khi chúng ta bắt một con dơi đặt xuống đất, thì có thể thấy nó sẽ dùng vuốt của ngón thứ nhất chi trước và năm ngón của chi sau bò lê lết, cho đến khi trèo lên được một cây gỗ thẳng đứng hoặc trên vách tường rồi từ đó mới bắt đầu giăng cánh bay tiếp. Tại sao dơi không nằm phủ phục xuống hoặc nằm nghỉ ngơi mà lại treo ngược mình lên như vậy?

Hang núi lớn chính là nơi dơi thích cư trú nhất.

Khi ngủ, dơi quay đầu xuống dưới và chân bám chắc vào một vật nào đó nhằm cấp đủ máu cho não, giúp chuyển hóa máu chậm lại. Tư thế ngủ này cũng giúp dơi thoát nhanh khi cần thiết.

Khác với chim hay côn trùng, đôi cánh da của dơi không đủ lực để có thể dễ dàng nâng chúng từ mặt đất lên không trung. Do đó, lúc nghỉ ngơi, dơi luôn chọn một ví trí ở trên cao để khi cần bay lượn, chúng chỉ việc thả mình xuống, lợi dụng lực cản không khí hỗ trợ cho việc cất cánh.

Để thích nghi với trạng thái nghỉ và cơ chế bay độc đáo, loài dơi tiến hóa để có kích thước nhỏ gọn, tim có thể dễ dàng lưu thông máu ngay cả khi lộn ngược.

Ngoài ra, để hỗ trợ lượng lớn oxy cần thiết khi bay, dơi có một trái tim đặc biệt phát triển, lớn gấp 3 lần các loài động vật có vú cùng kích thước khác và có khả năng vận chuyển máu cao hơn. Tâm nhĩ phải của nó rất lớn, khi tâm nhĩ phải giãn ra, nó có thể bơm rất nhiều máu tĩnh mạch.

Việc treo ngược thân mình giúp dơi nhanh chóng tẩu thoát khi có nguy hiểm.

Trong khi con người hay các loài vật phải nắm chặt và sử dụng năng lượng cơ bắp để nắm lấy thứ gì đó, nhưng dơi thì không. Móng vuốt của chúng độc đáo ở chỗ chúng không dùng năng lượng để bám vào vật thể.

Ngoài ra, khi mùa đông đến, dơi cũng có tư thế treo ngược mình lên để ngủ đông, như vậy có thể giảm bớt được sự tiếp xúc với đỉnh hang lạnh giá. Hoặc có một số con dơi có thể vùi đầu và thân vào trong màng cánh, cùng với bộ lông mềm mọc dày trên mình nó có thể có tác dụng ngăn cách hẳn với không khí lạnh ở bên ngoài.

Đương nhiên, treo ngược mình trên đỉnh hang so với dừng chân ở nơi khác được an toàn hơn nhiều. Thói quen sinh sống này và bản năng phòng vệ của dơi đều là kết quả của sự tiến hoá lâu dài của động vật.

Dơi là loài sống về đêm, chúng hoạt động vào ban đêm và ít hoạt động hơn vào ban ngày.

Dơi ngủ và treo mình trong tổ của chúng (hốc cây hoặc hang động) nơi cung cấp chỗ trú ẩn đồng thời bảo vệ chúng khỏi động vật ăn thịt và thời tiết trong suốt cả ngày.


Dơi có thể treo ngược trong thời gian dài, bao gồm cả trong thời gian ngủ đông và thậm chí sau khi chết. Một số loài dơi có thể ngủ đông từ năm đến sáu tháng và sống sót thông qua một lượng mỡ nhỏ mà cơ thể dự trữ. Thông thường, dơi bắt đầu hoạt động vào khoảng hoàng hôn và rời khỏi tổ để săn tìm thức ăn.

Tuy nhiên, theo thống kê, có đến 6 loài dơi không hề treo ngược mình lúc ngủ. Hầu hết trong số đó đều có giác mút ở các chi, giúp chúng có thể bám vào lá cây hay các bề mặt phẳng khác để ngủ nghỉ.

PV / Theo: Người Đưa Tin



LẠC HOA - TỐNG KỲ


Lạc hoa - Tống Kỳ

Truỵ tố phiên hồng các tự thương,
Thanh lâu yên vũ hốt tương vong.
Tương phi cánh tác hồi phong vũ,
Dĩ lạc do thành bán diện trang.
Thương hải khách quy châu bính lệ,
Chương Đài nhân khứ cốt di hương.
Khả năng vô ý truyền song điệp,
Tận uỷ phương tâm dữ mật phòng.


落花 - 宋祁

墜素翻紅各自傷
青樓煙雨忽相忘
將飛更作回風舞
已落猶成半面妝
滄海客歸珠迸淚
章臺人去骨遺香
可能無意傳雙蝶
盡委芳心與蜜房


Hoa rụng
(Dịch thơ: Lê Xuân Khải)

Rụng thắm phai hồng thảy tự thương
Mưa sương lầu biếc nỡ quên lòng
Khi rơi vẫn múa theo chiều gió
Đã rụng còn che nửa mặt nường (nàng)
Biển biếc khách về còn nhỏ lệ
Chương Đài người vắng cốt còn hương
Phải chăng vô ý truyền đôi bướm
Gửi hết lòng thơm mật kín tầng.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tống Kỳ 宋祁 (998-1065), theo Đường Tống chư hiền tuyệt diệu từ tuyển chú thích, tên tự Tử Kinh 子京, là em của Tống Tường 宋庠. Trong Tống sử quyển 284, sau phần Tống Tường truyện có chép: “(Tống Tử Kinh) cùng anh là Tống Tường đều có danh, nên người đời gọi là Đại Tống và Tiểu Tống...”.

Nguồn: Thi Viện