Monday, November 10, 2025

LINH VŨ ĐẠI VƯƠNG CÓ NHỤC THÂN 160 NĂM BẤT HOẠI

Sĩ Vương ( Sĩ Nhiếp) hay Linh Vũ Đại Vương là người có công giữ yên đất Việt Nam trong thời loạn lạc Tam Quốc (Trung Quốc). Giáo hóa dân chúng Việt xưa. Bên ngoài có Ngụy – Thục – Ngô phương Bắc đều mến tài. Bên trong có muôn dân trọng đức. Người đời sau còn ghi lại về việc nhục thân bất hoại dù trải qua hơn 160 năm cùng những sự kiện thần thánh liên quan đến Ông.


Sĩ Nhiếp hoặc Sĩ Tiếp (chữ Hán: 士燮; 137 – 226) là Thái thú Giao Chỉ vào cuối đời nhà Hán. Qua giai đoạn Tam Quốc, ông cát cứ và cai trị Giao Châu như một quốc gia độc lập suốt 40 năm (từ 187 đến 226). Do ông đã thực thi nhiều chính sách tiến bộ nên được hậu thế tôn làm Nam Giao học tổ (南郊學祖), đến Nhà Trần lại sắc phong mỹ tự Thiện cảm Gia ứng Linh vũ Đại vương (善感嘉應靈武大王), một số các sử quan gọi trang trọng là Sĩ Vương (士王).

Linh Vũ Đại Vương Giữ yên Giao Châu trong thời loạn Tam Quốc

Giao Châu (chữ Hán: 交州) là tên một châu hoặc phủ thời xưa, bao trùm vùng đất miền Bắc Việt Nam ngày nay. Ban đầu Giao Châu còn bao gồm một phần đất Quảng Tây và Quảng Đông thuộc Trung Quốc ngày nay.

Trong suốt giai đoạn nội chiến Tam Quốc phức tạp tại Trung Quốc, kéo dài hơn nửa thế kỷ, Sĩ Nhiếp được đánh giá cao bởi có công trong việc duy trì tình trạng hòa bình yên ổn ở Giao Châu. Chính điều này giúp Sĩ Nhiếp thành như một vị vua tự trị của Giao Châu – Linh Vũ Đại Vương ( Sĩ Vương), thoát hẳn ra khỏi ảnh hưởng và mệnh lệnh của Nhà Hán,

Trong lá thư của Viên Huy một viên quan Nhà Hán bấy giờ đang ở Giao Châu, gửi cho Thượng thư lệnh Nhà Hán là Tuân Úc năm 207 có viết:

“Giao Châu Sĩ phủ quân đã học vấn sâu rộng lại thông hiểu chính trị, trong thời buổi đại loạn, giữ vẹn được một quận hơn hai mươi năm, bờ cõi không xảy ra việc gì, dân không mất nghiệp, những bọn khách xa đến trú chân đều được nhờ ơn, dẫu Đậu Dung giữ đất Hà Tây cũng không hơn được. Khi việc quan có chút nhàn rỗi thì chăm xem các sách thư, truyện.

Phàm những chỗ biên chép không rõ ràng trong sách Xuân Thu Tả Thị truyện, (tôi) đem hỏi, đều được ông giảng giải cho những chỗ nghi ngờ, đều có kiến giải của bậc thầy, ý tứ rõ ràng, chặt chẽ. Lại như sách Thượng thư, cả cổ văn và kim văn, những ý nghĩa to lớn, ông đều hiểu biết tường tận, đầy đủ.

Anh em ông làm quan coi quận, hùng trưởng một châu, ở lánh ngoài muôn dặm, uy tín không ai hơn. Khi ra vào thì đánh chuông khánh, uy nghi đủ hết; kèn sáo thổi vang, xe ngựa đầy đường, người Hồ đi sát bánh xe để đốt hương thường có đến mấy mươi người; vợ cả, vợ lẽ đi xe che kín, bọn con em cưỡi ngựa dẫn quân theo hầu, người đương thời ai cũng quý trọng, các man di đều sợ phục, dẫu Úy Đà ( Triệu Đà) cũng không hơn được”.

Tượng thờ Linh Vũ Đại Vương – Sĩ Nhiếp

Linh Vũ Đại Vương được người phương Bắc trọng nể

Ngô Sĩ Liên viết trong Đại Việt sử ký toàn thư như sau: “Vương (Linh Vũ Đại Vương) độ lượng khoan hậu, khiêm tốn, kính trọng kẻ sĩ, người trong nước yêu mến, đều gọi là Vương. Danh sĩ Nhà Hán tránh nạn sang nương tựa có hàng trăm người”.

Thời Tam Quốc tranh hùng, dù là Ngụy, Thục, hay Ngô đều tôn trọng Linh Vũ Đại Vương. Các thế lực thời đó đều ngưỡng mộ uy vũ và tài năng của Linh Vũ Đại Vương. Nhưng Vương không vì vậy mà kiêu căng ngạo mạn. Thay vào đó ông khôn khéo hòa hoãn giữ bình yên cho bá tánh, con dân.

Nhà Đông Hán mất ngôi, Trung Quốc phân ra làm ba nước: Tào Ngụy, Thục Hán, Đông Ngô. Đất Giao Châu bấy giờ thuộc về Đông Ngô. Sĩ Nhiếp ở Giao Châu được 40 năm, nắm uy quyền thực sự, nhưng vẫn theo lệ triều cống Nhà Hán, và đến khi Nhà Hán mất thì lại triều cống nhà Ngô.

Ngô Vương muốn đáp lại lòng chân thành mới phong cho ba người em của Sĩ Nhiếp lần lượt làm Thái thú Hiệp Phố (nay là huyện Từ Liêm); Thái thú quận Cửu Chân (nay là Thanh Hóa); Thái thú Nam Hải (nay là Quảng Châu)

Sự mềm dẻo trong chính sách đối ngoại để giữ yên bờ cõi của Sĩ Nhiếp được đánh giá rất cao. Sử gia lớn thời Trần là Lê Văn Hưu nhận xét:

“Sĩ Vương biết lấy khoan hậu khiêm tốn để kính trọng kẻ sĩ, được người thân yêu mà đạt đến quý thịnh một thời. Lại hiểu nghĩa, thức thời, tuy tài và dũng không bằng Triệu Vũ Đế, nhưng chịu nhún mình thờ nước lớn, để giữ vẹn bờ cõi, có thể gọi là người trí.”

Linh Vũ Đại Vương – Nhục thân 160 năm bất hoại

Trong Việt Điện U Linh tập có đoạn:

“…Vương mất, thọ chín mươi tuổi, ở châu 48 năm. Xét truyện Báo Cực chép rằng Vương khéo sự nhiếp dưỡng, …đã chôn dưới đất rồi, đến cuối đời Tấn là hơn một trăm sáu mươi năm, nước Lâm Ấp (Chiêm Thành) vào đánh cướp, đào mộ Vương lên thì thấy thân thể y nguyên, diện mạo như khi sống, chúng cả sợ liền chôn lấp lại. Thổ nhân truyền lấy làm thần, lập miếu phụng tự, hiệu là Sĩ Vương Tiên.

Ngoài việc nhục thân bất hoại, còn có một câu chuyện khác kể rằng, giữa niên hiệu Hàm Thông nhà Đường, Cao Biền phá Nam Chiếu, đi đến cõi ấy thì gặp một dị nhân diện mạo hòa nhã, bận nghê thường vũ y, đón đường cùng đi đến. Cao Biền mời vào trong màn nói chuyện thì nói toàn chuyện thời sự đời Tam Quốc.

Sau khi từ biệt, Cao Biền đưa ra đến cửa hốt nhiên không thấy đâu. Cao Biền lấy làm lạ, hỏi người trong thôn. Thôn nhân chỉ mộ Sĩ Vương mà thưa. Biền than tiếc không kịp biết, rồi ngâm rằng:

“ Sau thưở Hoàng Sơ Ngụy
Cách đây năm trăm niên
Đường, Hàm Thông thứ tám,
Nay gặp Sĩ Vương tiên”.

Còn có tương truyền rằng: Vương sinh tiền dạy học trò đến vài nghìn người, sau khi mất, có di chúc chôn sấp chứ đừng chôn ngửa thì tiếng giảng sách mới không có, nhưng sau học trò không nỡ làm như thế, cứ chiếu lệ thường mà khăn liệm. Mỗi khi đêm lặng trăng sáng thường nghe tiếng Vương giảng sách ở dưới mồ như lúc bình sinh dạy học.

Người Tàu thấy Vương linh dị, sợ hãi mới đào mộ Vương lên chôn sấp lại. , từ đấy không nghe tiếng giảng sách nữa. Theo Lý Tế Xuyên thì “ Thuyết ấy quá ư quái đản, không chắc đã đúng”.

Ngôi mộ của Linh Vũ Đại Vương – Sĩ Nhiếp tại Bắc Ninh. Ảnh: kienthuc.net

Tương truyền, thôn dân mỗi khi có việc gì, cầu đảo đều có linh ứng. Cho đến nay vẫn gọi là phúc thần. Hoàng Triều niên hiệu Trùng Hưng năm đầu, sắc phong Gia Ứng Đại Vương. Năm thứ tư, gia thêm hai chữ Thiện Cảm. Năm Hưng Long thứ hai mươi mốt, gia phong hai chữ Linh Vũ; nhờ công âm phù mặc tướng của thần, thôn dân hưởng được nhiều hạnh phúc vậy.

Vũ Nam / Theo: vandieuhay

ĐỐI DIỆN VỚI ĐỒNG TIỀN, THẾ GIAN CÓ 4 KIỂU NGƯỜI, BẠN THUỘC KIỂU NÀO?

Con người khi đối diện với đồng tiền có thể sống nhẹ nhàng cả đời, có thể sống đau khổ cả đời, có thể sống lao lực cả đời và cũng có thể sống vui vẻ cả đời.


Đứng trước đồng tiền, thế gian có 4 kiểu người:

Kiểu người thứ 1: Trong túi không có tiền, trong tâm cũng không có tiền, thế nhưng họ lại có thể sống nhẹ nhàng cả cuộc đời.

Kiểu người thứ 2: Trong túi không có tiền, trong tâm lại có tiền, thế nhưng họ lại sống đau khổ cả cuộc đời.

Kiểu người thứ 3:
Trong túi có tiền, trong tâm cũng có tiền, thế nhưng họ lại sống lao lực cả cuộc đời.

Kiểu người thứ 4: Trong túi có tiền, trong tâm lại không có tiền, thế nhưng họ lại có thể sổng vui vẻ hạnh phúc cả cuộc đời.

Bạn có thể tích lũy được bao nhiêu tiền không phụ thuộc vào bạn có thể kiếm được bao nhiêu mà là do bạn biết cách đầu tư tiền như thế nào.

Người nghèo nhìn người giàu: ai ai cũng vì tiền mà bất nhân. Người giàu nhìn người nghèo: đáng đời bọn họ mãi nghèo.

Người nghèo có tiền rồi thì phát hiện ra tiền không phải là vạn năng, người giàu phá sản rồi thì phát hiện ra không có tiền có khi lại càng tự do tự tại.

Ngày và đêm đều có kẻ khóc người cười, có tiền hay không có tiền đều có người vui vẻ người khổ đau.

Bạn chỉ có thể thấy được sự hoành tráng ở đằng trước nhưng không nghe được tiếng thở dài ở đằng sau. Bạn ghen tỵ khi thấy họ đeo vòng vàng nhẫn bạc, còn họ ngưỡng mộ bạn có thể ngủ thẳng giấc đến tận hôm sau.


Con người là vậy, cùng có một đôi mắt nhưng cách nhìn lại khác nhau, quan điểm khác nhau; cùng có một đôi tai nhưng cách lắng nghe khác nhau; cùng có một cái mồm nhưng cách nói khác nhau; cùng có một trái tim nhưng cảm nhận khác nhau; cùng có một bộ não nhưng tư tưởng cách nghĩ khác nhau; cùng có tiền nhưng cách tiêu khác nhau; cùng có sách nhưng cách đọc khác nhau… và cùng là con người nhưng cách sống khác nhau.

Nhìn xa trông rộng, nghĩ sâu nghĩ rộng khiến cuộc đời của chúng ta mỗi ngày sẽ có một sắc màu.

Quay đầu càng nhiều, đường càng khó đi; bỏ lại quá khứ mới hướng được đến tương lai tươi sáng hơn.

Thời gian không phải dùng để xóa mờ đi tất cả, mà là để chúng ta đi tìm ra câu trả lời cho tất cả những gì chúng ta cần.

Tất cả những gì trong cuộc sống của chúng ta không phải là tính ra được mà là cảm nhận được; không phải cầu nên được mà là tu nên được.

Bản chất sự đau khổ của con người chính là sự phẫn nộ về việc thiếu năng lực của bản thân.

Trong cuộc sống, chúng ta có nhiều cơ hội để thay đổi suy nghĩ của mình, và con người ai cũng có lúc phải chịu tủi hờn, thế nhưng chúng ta không thể để sự tủi hờn làm mất đi giá trị sống của bản thân. Hãy học cách cười, cách chịu đựng, cách tha thứ để chúng ta phát triển trong sự khoan dung.

Hằng Phương / Theo: cafebiz

VÃN TÌNH - LÝ THƯƠNG ẨN


Vãn tình

Thâm cư phủ hiệp thành,
Xuân khứ hạ do thanh.
Thiên ý liên u thảo,
Nhân gian trọng vãn tình.
Tịnh thiêm cao các quýnh,
Vi chú tiểu song minh.
Việt điểu sào can hậu,
Quy phi thể cánh khinh.


晚晴 - 李商隱

深居俯劦城
春去夏猶清
天意憐幽草
人間重晚情
并添高閣迥
微注小窗明
越鳥巢干后
歸飛体更輕


Buổi chiều trong trẻo
(Dịch thơ: Hoàng Giáp Tôn)

Ở nơi sâu kín yên bình
Xuân qua hạ đến quanh mình sáng tươi
Cỏ nơi kín hợp lòng trời
Chiều thanh trong được người đời trọng yêu
Gác cao càng thấy xa nhiều
Cửa song rót ánh nắng chiều sáng tinh
Chim Việt trở lại tổ mình
Thấy như nhẹ nhõm yên bình nhiều hơn!


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc khê sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay là Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở 令狐楚, trong đó có Lệnh Hồ Đào 令狐綯. Bấy giờ trong triều có hai phe đối nghịch nhau, tranh quyền đoạt lợi, một phe là Ngưu Tăng Nhụ 牛僧孺, phe kia là Lý Đức Dụ 李德裕, hầu hết quan lại đều bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp ấy. Sở theo phe Ngưu. Năm Lý Thương Ẩn mười bảy tuổi (829), Sở tiến cử làm tuần quan mạc phủ. Năm hai mươi lăm tuổi (837), ông lại được Lệnh Hồ Đào khen ngợi, nâng đỡ nên đỗ tiến sĩ năm Khai Thành thứ 2. Năm sau ông được Vương Mậu Nguyên 王茂元, tiết độ sứ Hà Dương mến tài, dùng làm thư ký và gả con gái cho. Chẳng may, Vương thuộc phe Lý Đức Dụ khiến ông trở thành kẻ vong ân bội nghĩa, xảo quyệt vô hạnh trong mắt Lệnh Hồ Đào. Vương Mậu Nguyên chết, rồi Lý Đức Dụ thất thế, ông đến kinh sư nhưng không được làm gì cả. Sau nhờ Trịnh Á vận động, ông được làm chức quan sát phán quan. Trịnh Á bị biếm ra Lĩnh Biểu, ông cũng đi theo. Ba năm sau ông lại trở về, làm huyện tào tại Kinh Triệu. Ông nhiều lần đưa thư, dâng thơ cho Lệnh Hồ Đào để phân trần và xin tiến dẫn, nhưng vẫn bị lạnh nhạt. Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu Trọng Hĩnh dùng ông làm tiết độ phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông mắc kẹt giữa hai phái, chưa hề được đắc chí trên hoạn lộ, cứ bôn tẩu khắp nơi: Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Từ Châu nương nhờ hết người này đến người khác, long đong khốn khổ. Cuối cùng ông về đất Oanh Dương thuộc Trịnh Châu rồi bệnh chết năm 46 tuổi.

Nguồn: Thi Viện



HIỆU ỨNG "CHỐI ÁC"

Tiến sĩ tâm lý học giải thích hiệu ứng "chối ác": Những người trông có vẻ tự tin, không bao giờ thừa nhận mình sai, não bộ họ sẽ tự bóp méo thực tại để bảo vệ cái tôi yếu đuối của mình

Một số người có cái tôi mong manh, lòng tự trọng dễ vỡ và "cấu tạo tâm lý" yếu ớt đến mức việc thừa nhận mình đã sai về cơ bản là quá sức chịu đựng với sự yếu đuối của họ.


Có một sự thật, tất cả chúng ta đều mắc lỗi, không lớn thì nhỏ, không với người này thì với người khác. Nhưng có một sự khác biệt rất lớn giữa cách mà mỗi người đối diện với lỗi lầm của mình.

Đa số sẽ thừa nhận điều đó, xin lỗi và sửa đổi. Một số người chỉ thừa nhận một phần lỗi lầm, nhưng họ cũng vẫn sẽ sửa đổi hành vi của mình. Chỉ có một số ít người không bao giờ chấp nhận việc họ đã làm sai dù chỉ một phần, bất chấp mọi bằng chứng rõ ràng, họ sẽ chối ác.

Guy Winch, một tiến sĩ tâm lý học người Anh, tác giả cuốn sách "Sơ cứu cảm xúc", cho biết điều này xảy ra vì những người đó có cái tôi tâm lý rất yếu đuối, trái ngược với vẻ ngoài thường bị nhầm lẫn là cứng rắn, mạnh mẽ và kiên định của mình.

Tiến sĩ tâm lý học người Anh Guy Winch, tác giả cuốn sách "Sơ cứu cảm xúc".

"Một số người có cái tôi mong manh, lòng tự trọng dễ vỡ và "cấu tạo tâm lý" yếu ớt đến mức việc thừa nhận mình đã sai về cơ bản là quá sức chịu đựng với cái tôi yếu đuối của họ", tiến sĩ Winch cho biết.

"Việc chấp nhận mình đã sai, hấp thụ thực tế đó, sẽ gây tổn thương về mặt tâm lý đến mức cơ chế phòng vệ của họ sẽ làm một điều đáng chú ý để tránh cho tâm lý họ khỏi bị tổn thương—họ thực sự bóp méo nhận thức của mình về thực tại để khiến nó (thực tại đó) bớt đe dọa hơn.

Cơ chế phòng vệ của họ bảo vệ cái tôi mong manh bằng cách thay đổi chính những sự thật trong tâm trí, để họ có thể nghĩ rằng mình không còn sai, hoặc không còn đáng trách nữa".

Khi não bộ bóp méo thực tại, người chối ác sẽ nhất quyết không nhận mình sai. Và để không phải nhận mình sai, não bộ lại bóp méo thực tại

Để làm rõ hơn hiện tượng tâm lý kỳ lạ này, tiến sĩ Winch đã đưa ra 3 ví dụ minh họa. Ví dụ thứ nhất nói về một người nhận lỗi hoàn toàn. Khi một người chồng khăng khăng nói với vợ rằng họ không cần dừng xe ở tiệm tạp hóa để mua thêm sữa, để rồi khi về đến nhà, anh ấy nhận ra ở nhà đã hết sữa thật.

Người nhận lỗi hoàn toàn sẽ nói: "Ồ, em đã đúng. Lẽ ra chúng mình nên mua thêm sữa".

Ví dụ thứ hai, nói về việc nhận lỗi một phần. Người vợ giục người chồng ra sân bay sớm để kịp chuyến bay, nhưng anh ấy chủ quan cho rằng họ còn nhiều thời gian. Cuối cùng, một vụ tắc đường đã khiến họ trễ chuyến bay vì đến sân bay muộn.

Người nhận lỗi một phần sẽ nói: "Nếu không tắc đường thì chúng ta hẳn đã đến sân bay đúng giờ. Nhưng được thôi, lần sau chúng ta sẽ rút kinh nghiệm và đi sớm hơn".


Ví dụ cuối cùng, nói về người chối ác. Đó là một nhân chứng khai với cảnh sát rằng anh ấy đã nhìn thấy một người đàn ông nọ đột nhập vào ngôi nhà bên kia đường. Người đàn ông sau đó bị bắt vào tù 5 năm.

Nhưng 5 năm sau đó, có một người đã tự thú với cảnh sát chính anh ta mới là người đột nhập vào căn nhà đó. Bằng chứng DNA cũng xác nhận điều này và người đàn ông bị bắt đi tù oan được trả tự do.

Người chối ác sẽ nói: "Họ đã thả hắn ta vì bằng chứng DNA và lời thú tội của một gã khác. Thật nực cười! Chính gã đó mới là tội phạm. Tôi đã nhìn thấy hắn".

"Hai ví dụ đầu tiên có lẽ quen thuộc với hầu hết chúng ta vì đó là những phản ứng điển hình khi chúng ta mắc lỗi. Chúng ta nhận trách nhiệm hoàn toàn hoặc một phần (đôi khi chỉ một phần rất, rất nhỏ), nhưng chúng ta không phản bác lại các sự kiện thực tế. Chúng ta không khẳng định ở nhà có đủ sữa khi thực tế không phải vậy, hoặc chúng ta không phủ nhận thực tế rằng mình đã đến sân bay muộn", tiến sĩ Winch cho biết.

Nhưng ở ví dụ thứ ba thì khác, người chối ác sẽ phủ nhận mọi sự thật đã diễn ra. Đối với người khác, sự thật đó đã được chứng minh bằng bằng chứng rõ ràng. Nhưng người chối ác sẽ không bao giờ chấp nhận sự thật đó. Thậm chí, họ còn phủ nhận hết sự thật này đến sự thật khác, chối bay chối biến trong bất kỳ hoàn cảnh nào.


Nhưng tại sao lại vậy?

"Câu trả lời liên quan đến cái tôi của họ, chính ý thức về bản thân của họ", tiến sĩ Winch cho biết. "Những người liên tục thể hiện loại hành vi này, theo định nghĩa, là những người yếu đuối về mặt tâm lý".

Điều này có vẻ khá là phản trực giác khi những người chối ác cũng thường là người thể hiện ra với thế giới bên ngoài rằng họ là người rất mạnh mẽ, tự tin và luôn kiên định với quan điểm của mình.

"Nhưng sự cứng nhắc về mặt tâm lý không phải là biểu hiện của sức mạnh, mà là dấu hiệu của sự yếu đuối. Những người này không chọn cách đứng vững; họ buộc phải làm như vậy để bảo vệ cái tôi mong manh của mình", tiến sĩ Winch cho biết.

"Việc thừa nhận mình sai là một điều khó, nó gây tổn thương cho cái tôi của bất kỳ ai. Vì vậy, chúng ta cần có một lượng sức mạnh cảm xúc và lòng can đảm nhất định để đối mặt với thực tế rằng chúng ta đã sai và thừa nhận những lỗi sai của mình.

Đối với hầu hết mọi người, thừa nhận mình sai sẽ hơi khó chịu một chút. Nhưng chúng ta rồi cũng sẽ vượt qua được. Còn với những người không có khả năng thừa nhận mình sai, họ không thể chấp nhận quan niệm rằng họ có khả năng mắc lỗi.

Đó là vì họ có cái tôi quá mong manh đến mức không thể chấp nhận sự khó chịu vì phải nhận sai và vì vậy không thể vượt qua được - họ cần phải bóp méo chính nhận thức của mình về thực tại và thách thức những sự thật hiển nhiên để bảo vệ cho việc họ không sai ngay từ đầu".


Trong ví dụ thứ nhất, về người chồng không mua thêm sữa vì nghĩ rằng ở nhà vẫn còn sữa. Nếu anh ấy chối ác, anh ấy sẽ không bao giờ nhận lỗi và sẽ nói với vợ rằng: "Anh đã kiểm tra vào buổi sáng và thấy tủ lạnh vẫn còn sữa. Hẳn là có ai đó đã uống hết rồi".

Ngay cả khi ở nhà không có ai và bằng chứng từ camera cho thấy không có ai mở tủ lạnh, người chối ác vẫn sẽ nói: "Chắc chắn là có ai đó đã uống sữa, vì anh đã kiểm tra và thấy buổi sáng tủ lạnh vẫn còn".

"Cứ như thể có một bóng ma nào đó đã đột nhập vào nhà, uống hết sữa rồi bỏ đi không một dấu vết", tiến sĩ Winch cho biết.

"Trong ví dụ thứ ba của tôi, họ [những người chối ác] sẽ khăng khăng rằng việc nhận dạng tên cướp sai lầm của họ là đúng mặc dù có bằng chứng DNA và lời thú tội từ một người khác.

Khi buộc phải đối chất, họ sẽ tiếp tục khăng khăng hoặc chuyển sang tấn công bất kỳ ai cố gắng lập luận ngược lại và hạ thấp nguồn thông tin trái ngược (ví dụ: "Những phòng xét nghiệm này luôn mắc lỗi. Bên cạnh đó, bạn không thể tin lời thú tội từ một tên tội phạm khác! Tại sao bạn luôn đứng về phía họ?")".


Nói tóm lại, chối ác là một hành vi tâm lý kỳ lạ ẩn chứa trong đó một nghịch lý. Bởi đằng sau vẻ ngoài tự tin, cứng rắn và quan điểm kiên định của những người "chối ác" là một sự thật tréo ngoe: Họ không mạnh mẽ như chúng ta tưởng, mà quá yếu đuối đến mức không thể đối diện với lỗi lầm của chính mình.

"Sai lầm duy nhất mà chúng ta không nên mắc phải là coi sự chối ác và cứng rắn của họ, khi họ không thừa nhận rằng họ sai là dấu hiệu của sức mạnh hoặc niềm tin, vì đó là điều hoàn toàn ngược lại — là sự yếu đuối và mong manh về mặt tâm lý", tiến sĩ Winch cho biết.

Hiểu được điều này, chúng ta có thể chọn cách đồng cảm với những người hay chối ác, nhưng cũng cần giữ khoảng cách để bảo vệ bản thân khỏi những hệ quả từ hành vi ấy gây ra.

Quan trọng hơn, nó nhắc nhở mọi người rằng thừa nhận sai lầm không phải là thất bại, mà là một dấu hiệu của sức mạnh thật sự – sức mạnh để trưởng thành và sống chân thật với chính mình.

Thanh Long / Theo: thannienviet
Link tham khảo:



TÂY AN - CỐ ĐÔ ẨN CHỨA NHIỀU BÍ MẬT CỦA LỊCH SỬ TRUNG QUỐC

Thành phố Tây An có lịch sử hơn 3.100 năm là cái nôi của nền văn minh lưu vực sông Hoàng Hà gắn liền với những nhân vật làm nên lịch sử Trung Quốc, nổi tiếng nhất là Hoàng đế Tần Thủy Hoàng, vị vua thứ 36 của nước Tần và là người đầu tiên chấm dứt thời kỳ Chiến quốc, thống nhất Trung Quốc


TÂY AN (Thiểm Tây - Trung Quốc)

Là một trong những thành phố văn hóa lịch sử đầu tiên của Trung Quốc, từng là kinh đô của 13 triều đại trong lịch sử phong kiến của đất nước tỉ dân và có tầm ảnh hưởng lớn nhất thế giới. Vì lẽ đó, hầu như du khách yêu thích văn hóa lịch sử Trung Quốc chắc chắn sẽ mong muốn du lịch Tây An một lần trong đời.

Trường An đã trải qua 13 thời kỳ triều đại như Chu, Tây Hán, Tần, Tùy, Minh, Đường đều lấy Tây An làm kinh đô. Đây cũng là nơi các thương gia Trung Hoa tập kết hàng hóa, tơ lụa để bắt đầu chuyến đi dài đằng đẵng đến Đôn Hoàng, Kashgar và xuyên qua nhiều quốc gia tới tận La Mã. Việc giao thương trên con đường tơ lụa đã biến Tây An trở thành một trong những đô thị phồn hoa nhất thế giới thời kỳ bấy giờ.


Tây An thành phố du lịch văn hóa mũi nhọn đầu tiên của Trung Quốc, với vô vàn di tích lịch sử được bảo tồn tốt và có giá trị khảo cổ cao. Có 72 lăng mộ hoàng gia quanh Tây An, bao gồm lăng mộ Tần Thủy Hoàng, "hoàng đế duy nhất qua các thời đại"; tàn tích của thủ đô qua bốn triều đại Chu, Tần, Hán và Đường; 11 lăng mộ của các hoàng đế Tây Hán và 18 ngôi mộ của các hoàng đế nhà Đường; chùa Tháp Đại Nhạn và Tiểu Nhạn; Tháp Chuông và tháp Trống; 700 tòa nhà cổ,…

Với sự lâu đời hơn 3100 năm lịch sử, nơi đây vẫn giữ nguyên vẹn giá trị tiềm tàng, Tây An xứng đáng là một trong những điểm nhất định phải đến.

LĂNG MỘ TẦN THUỶ HOÀNG

Lăng Tần Thủy Hoàng được xây dựng vào năm đầu tiên của Tần Vương Chính (247 TCN) và hoàn thành vào năm thứ hai của nhà Tần (208 TCN), kéo dài 39 năm và là lăng mộ hoàng gia đầu tiên có quy mô lớn được thiết kế vô cùng tinh xảo và tráng lệ. Lăng mộ Tần Thủy Hoàng nằm ở phía Nam nội thành, có dạng thùng, cao 51m, chu vi đáy hơn 1.700m.


Đây là một trong những lăng mộ hoàng gia lớn nhất thế giới, có cấu trúc đặc biệt và ý nghĩa phong phú, thể hiện đầy đủ tài năng nghệ thuật của nhân dân lao động dân tộc Hán ở Trung Quốc cổ đại hơn 2.000 năm trước, là niềm tự hào và của cải quý giá của dân tộc Trung Hoa. Vào năm 1974, ngôi mộ được khai quật, có đến 8000 tượng đất sét, gồm quan văn võ, binh lính và ngựa. Ngôi mộ tiếp tục được được khai quật , hiện ra một trận thế kị binh cùng các binh thủ bắn cung với các tư thế khác nhau, tạo nên những tạo hình phong phú với tính nghệ thuật lịch sử vô cùng cao. Chính công trình này đã thu hút rất nhiều khách du lich Trung Quoc – Tay An đến tìm hiểu và khám phá yếu tố văn hóa vô cùng đặc sắc này.

BINH MÃ DŨNG


Đội quân đất nung được tìm thấy lần đầu tiên vào năm 1974. Vào năm 2007, các nhà khảo cổ đã khai quật được hơn 8.000 tượng đất nung và tượng ngựa có kích thước như người thật để canh gác lăng mộ của vị hoàng đế đầu tiên của Trung Hoa - Tần Thủy Hoàng.

Đội quân đất nung được chôn theo Tần Thủy Hoàng trong thời gian từ năm 210-209 trước Công nguyên. Các tượng đất cao gần 2m, được nặn từ đất sét, sau đó được nung trong lò ở nhiệt độ thấp, khi nung xong được phết một lớp sơn lên bên ngoài để tăng độ bền.

Tượng được tạc với rất nhiều tư thế, quân lính trong tư thế đứng thẳng hoặc cúi mình cầm cung, kích, giáo, mác từ đang chuẩn bị lâm trận đến võ tướng đang ngồi trên mã xa. Điều thú vị là tượng y như người thật, khuôn mặt không tượng nào giống tượng nào, thậm chí đến bím tóc, râu, đôi mắt cũng được thể hiện công phu, tinh tế

THÀNH CỔ TÂY AN


được Chu Nguyên Chương - vị vua đầu tiên của nhà Minh xây dựng năm 1370 trên nền móng tòa thành đời Đường, đến nay đã có lịch sử hơn 600 năm. Cứ 120m lại có một tháp canh, tổng cộng 98 tháp. Tường thành có bốn cổng: Trường Lạc, An Định, Vĩnh Ninh và An Viễn, lần lượt nằm tại bốn hướng Đông, Tây, Nam, Bắc.

Phía bên ngoài tường thành có gần 6.000 lỗ châu mai để binh lính quan sát và bắn tên. Vật liệu xây dựng tường thành cũng rất đặc biệt. Ban đầu, các bức tường được xây bằng đất nện, vôi và nước gạo nếp trộn với nhau. Sau đó, nó được dựng hoàn toàn bằng gạch.
 
CUNG ĐẠI MINH

Cung điện Đại Minh (Daming Palace Site) là cung điện phức tạp, vĩ đại và quan trọng nhất ở Tây An (sau Trường An) trong triều đại nhà Đường (618-907), nơi hoàng đế nhà Đường sống, giải quyết việc của nhà nước và gặp gỡ các đại thần trong triều. Cung điện hùng vĩ này không chỉ phản ánh sự thịnh vượng của triều Thanh mà còn thể hiện được mức cao nhất của kiến trúc thời điểm đó. Người ta nói rằng Tử Cấm Thành ở Bắc Kinh được xây dựng dựa trên cách bố trí của cung điện Đại Minh, Tây An.


Cung điện này được xây dựng lại và mở cửa cho công chúng tham quan vào ngày 01 tháng 10 năm 2010. Khuôn viên cung điện gồm: công viên, toà nhà di sản văn hoá và nơi trưng bày các triển lãm hiện vật. Trong đó, Hanyuan Palace là cung điện chính, nơi tổ chức các lễ lớn, một trung tâm giao lưu quốc tế quan trọng. Vào ngày đầu mỗi năm mới, các đại sứ từ nhiều nước khác nhau đã đến và tham gia vào lễ lớn được tổ chức ở đây. Khu sân vườn thì vào cổng miễn phí còn phần chính điện thì du khách phải mua vé. Tham quan cung điện Đại Minh sẽ giúp bạn cảm nhận phần nào sự hung thịnh của triều đại thời Đường thời đó

THÁP CHUÔNG

Với lịch sử hơn 600 năm, Tháp Chuông nằm ở trung tâm thành phố Tây An tại ngã ba đường Nam, Bắc, Đông và Tây chính là địa điểm hấp dẫn tiếp theo trong danh sách “must to visit” của du khách. Đây là tháp chuông lớn nhất về cấu trúc và hình dạng và được bảo tồn tốt nhất ở Trung Quốc. Được xây dựng vào năm 1384 vào đầu triều đại nhà Minh, Tháp chuông có chiều cao 36 mét và diện tích lên tới 1.377 mét vuông. Một số chiếc chuông ở đây được đúc bằng đồng lớn từ thời nhà Đường. Tháp chuông chính là một kiến trúc độc đáo được xây dựng bằng gạch và gỗ, được trang trí bằng gạch tráng men màu xanh đậm, những bức tranh màu xanh và màu xanh lá cây và chạm vàng.


Truyền thuyết kể rằng, vào thời nhà Minh, khu vực Quảng Đông đã trải qua các trận động đất. Nhiều công dân bị thương và họ đã tìm thấy lý do của những trận động đất thường xuyên này. Đó là con rồng trên dòng sông chảy qua trung tâm thành phố Tây An. Để chế ngự con rồng, người ta đã xây dựng lên một tháp chuông với niềm tin rằng tòa tháp này có thể đàn áp con rồng và mang lại hạnh phúc cho thành phố. Từ đó, trận động đất đã không xảy ra ở Tây An nữa. Thực tế, vào thời kì cổ đại, tháp chuông trở thành một trong những lâu đài có ý nghĩa chiến lược về mặt quân sự. Ngoài việc xây dựng các bức tường xung quanh thành phố, đào hào và đặt cầu rút, tháp chuông ở trung tâm thành phố đã phát huy hiệu quả như một trung tâm chỉ huy phòng thủ của thành phố. Còn vào thời bình, nó được sử dụng để báo cáo thời gian và do đó, cầu rút có thể mở và đóng đúng giờ.

KHU PHỐ HỒI GIÁO


Nằm ở ngay khu vực trung tâm thành phố, khu phố Hồi giáo quả là một nơi tuyệt vời để lang thang trên khắp các cửa hàng, nhà hàng và thưởng thức ẩm thực đường phố. Các quầy hàng nằm dọc các con hẻm hẹp là nơi bán hầu hết mọi thứ đến nỗi bạn khó có thể tưởng tượng. Thậm chí có một số quầy hàng ở đây còn bán cả các bộ phận của máy bay. Đi dọc khu phố, bạn dễ dàng bắt gặp những quầy hàng bán đồ ăn nhẹ đặc trưng của người Hồi giáo và các món ăn địa phương. Các món ăn đường phố ở đây khá ngon và rất rẻ, bao gồm thịt bò nướng, cá nướng, xiên cừu, bánh kếp,... Chính vì thế, nơi đây được mệnh danh là "một đường phố cho người sành ăn".

Theo: vivunow.com



Sunday, November 9, 2025

THẾ NÀO MỚI LÀ NGƯỜI CÓ "ĐỨC"

Từ xưa đến này, các bậc thánh nhân đều nói rằng, “Đức” kết nối, phối hợp trời và đất nên Trời tất sẽ bảo hộ, trợ giúp.


Một người chỉ có bồi dưỡng đầy đủ đạo đức tốt đẹp, nhân ái, thiện lương, mang trong mình lòng biết ơn thì người ấy mới tràn ngập một trường năng lượng thuần chính. Khi thân thể tràn ngập trường năng lượng thuần chính thì sẽ hấp thụ những thứ tốt đẹp, thuần chính. Hoàn cảnh và vận khí cũng theo đó mà bị ảnh hưởng.

Trong cuộc đời, mỗi người đều phải nhớ kỹ rằng, nhận ơn của người khác dù nhỏ như một giọt nước thì nhất định phải ghi nhớ và báo đáp lớn như một dòng suối. Vạn vật sinh ra và lớn lên đều tuân theo những có pháp tắc nhất định. Bốn mùa xuân, hạ, thu, đông, ngũ vị, ngũ sắc cũng là như vậy.

Vậy “Đức” được hiểu như thế nào? Dưới đây, chúng ta cùng đi phân tích chữ “Đức” này để hiểu thêm về ý nghĩa của nó.

Chữ “Đức” (“德” ) trong tiếng Hán bao gồm năm bộ phận cấu thành, đó là “彳” (Xích) “十” (Thập) “罒” (là chữ mắt “目” nằm ngang) “一” (Nhất) và “心” (Tâm).

Trong đó “彳” (Xích) chỉ bước đi chậm rãi, lâu dài, trường kỳ. Có thể hiểu rằng, “đức” là phải từng chút từng chút tích lũy mà thành, không phải là việc nhất thời mà là việc của cả một đời.

“十” (Thập) ngụ ý là nhiều, là đầy đủ, là thập toàn thập mỹ, mười phân vẹn mười, cũng có ngụ ý là bốn phương tám hướng. Điều đó có nghĩa rằng, con người dù ở đâu, lúc nào cũng phải dùng đức hạnh để đối đãi với người khác.

“罒” là chữ mắt “目” nằm ngang, nhấn mạnh rằng, người có đức thì có thể biết rõ thị phi, thật giả, có thể phân biệt được tốt xấu, đúng sai.

“一” mang ý nghĩa là chỉnh thể, tổng thể, là toàn bộ, ý nói người có đức lấy đại cục làm trọng, không tư lợi cho bản thân, vạn pháp quy nhất, một lòng một dạ, không tâm không tạp niệm, không vướng bận.

“心” là chỉ nội tâm, muốn tu dưỡng được đức thì cần phải dựa vào tu dưỡng nội tâm. Tâm là bên trong, là thật lòng, chân tình, trung thành. Tâm (“心”) là bộ phận dưới cùng của chữ đức (“德”), ý nói đức là trong đáy lòng không có vụ lợi, tư lợi.


“Đức” là đạo đức, phẩm hạnh, phẩm đức. Chân thành, tư tưởng và lời nói hành động là thống nhất với nhau thì được gọi là “đức”.

Đức hạnh, mỹ đức, phẩm đức, bồi dưỡng đạo đức là cảnh giới cao nhất mà một người cần theo đuổi. Làm người phải lấy đức làm gốc, quản lý một đơn vị, một xí nghiệp thì càng phải lấy đức làm gốc mới mong được thành công lâu dài.

Người xưa có câu rằng, phong thủy âm dương bảo hộ người lương thiện, còn kẻ trộm, tà dâm, phóng túng thì dù ở nơi phong thủy tốt cũng khó có phúc báo. Hay những câu như, nhà tích thiện thì tất sẽ có dư phúc… đều là để nhấn mạnh tầm quan trọng của “đức” đối với sinh mệnh mỗi người.


Lâm Tắc Từ từng nói rằng, một người nếu tâm tính bất thiện thì phong thủy là vô ích. Cho nên, tu dưỡng tâm tính, hành thiện tích đức mới là phong thủy tốt nhất, lớn nhất của đời người.

An Hòa
Theo: trithucvn.net

HẢO LIỄU CA - TÀO TUYẾT CẦN


Hảo liễu ca

Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo,
Duy hữu công danh vong bất liễu!
Cổ kim tướng tương tại hà phương:
Hoang trũng nhất đồi thảo một liễu.

Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo,
Chỉ hữu kim ngân vong bất liễu!
Chung triêu chỉ hận tụ vô đa,
Cập đáo đa thì nhãn bế liễu.

Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo,
Chỉ hữu giảo thê vong bất liễu!
Quân sinh nhật nhật thuyết ân tình,
Quân tử hựu tuỳ nhân khứ liễu.

Thế nhân đô hiểu thần tiên hảo,
Chỉ hữu nhi tôn vong bất liễu!
Si tâm phụ mẫu cổ lai đa,
Hiếu thuận tử tôn thuỳ kiến liễu?


好了歌 - 曹雪芹

世人都曉神仙好,
惟有功名忘不了!
古今將相在何方:
荒塚一堆草沒了。

世人都曉神仙好,
只有金銀忘不了!
終朝只恨聚無多,
及到多時眼閉了。

世人都曉神仙好,
只有姣妻忘不了!
君生日日說恩情,
君死又隨人去了。

世人都曉神仙好,
只有兒孫忘不了!
癡心父母古來多,
孝順子孫誰見了?


Bài hát “Hảo liễu”
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Thần tiên chẳng có trên đời.
Công danh sự nghiệp tạm thời lãng quên.
Công hầu khanh tướng ai nên.
Mồ hoang cỏ phế nằm bên lề đường.
Thần tiên chẳng có trên đời.
Kim ngân vàng bạc, ham thời chẳng nên.
Hận rằng sẵn có quan tiền.
Xuôi tay nhắm mắt, đảo điên bạc vàng.
Thần tiên chẳng có trên đời.
Phu thê giao hảo lại thời nên chăng.
Ân tình phu phụ, cầm bằng.
Hỏi khi thác xuống biết rằng có ai ?.
Thần tiên chẳng có trên đời.
Con đàn cháu đống, nghỉ ngơi tuổi già.
Thờ cha kính mẹ thực thà.
Cháu con hiếu thuận, một nhà yên vui !


Sơ lược tiểu tử tác giả:

Tào Tuyết Cần 曹雪芹 (4/4/1710 - 10/6/1765) là một tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết Hồng lâu mộng, một trong tứ đại kỳ thư của văn học cổ điển Trung Quốc.

Gia đình thế hệ trước của Tào Tuyết Cần là một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại quý tộc thời nhà Thanh Trung Quốc. Từ đời tổ đến đời cha của ông đã thay nhau giữ chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế trong triều đình. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào. Ông nội ông là Tào Dần, một nhà văn xuất sắc vùng Giang Ninh. Đến đời của ông tất cả sự giầu sang quyền quý của gia đình đã trở thành quá khứ. Gia đình ông bị mắc nạn. Ông sống trong nghèo khổ, phải đưa gia đình đi khắp nơi để mưu sinh. Mười năm cuối đời ông đã dồn toàn bộ tâm huyết và tinh thần vào để tạo nên kiệt tác Hồng lâu mộng.

Nguồn: Thi Viện