Wednesday, December 10, 2025

VÌ SAO NGƯỜI XƯA LUÔN DÙNG RĂNG ĐỂ THỬ VÀNG? LÝ DO QUÁ THÔNG MINH

Người xưa có khoảng 4 cách để xác định vàng, trong đó phổ biến nhất là dùng răng cắn trực tiếp vào vàng, nguyên nhân là do nghề thủ công cổ xưa chưa phát triển.


Dùng răng thử vàng có chính xác không?

Để tạo ra những món đồ trang sức bằng vàng mới lạ hơn, người xưa tạo ra nhiều hơn một quá trình “tôi luyện” để làm giảm độ cứng của vàng và tăng độ dẻo dai của vàng, có thể kéo dài và dát mỏng, do đó, bạn có thể nhìn thấy dấu răng ngay khi bạn cắn vào nó. Nếu không có vết răng nghĩa là có lẫn tạp chất, lượng vàng không đủ, như đồng thau, thì không thể cắn được. Phương pháp kiểm tra thô này đã có từ lâu vì tính tiện lợi cao.

Có phương pháp nào khác để kiểm tra?

Phương pháp thứ hai là hỏa thiêu, khi người xưa không thể phân biệt được vàng thật, giả bằng mắt thường, sẽ dùng phương thức hỏa thiêu, khi đốt vàng sẽ quan sát thấy vàng đổi màu, toát ra thể khí là màu xanh lá, lại không sợ lửa thiêu, bởi vàng không phản ứng với oxi ở nhiệt độ cao.

Phương pháp thứ ba là cân trọng lượng, như chúng ta đã biết vàng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nguyên liệu, người có kinh nghiệm chỉ cần lấy vàng đặt ở trên tay ước lượng một chút sức nặng, sẽ biết vàng trong tay là thật hay giả.

Phương pháp cuối cùng là nhìn vào màu sắc, như người ta thường nói, vàng là “thất thanh, bát hoàng, cửu tử, thập xích” (bảy xanh, tám vàng, chín tím và mười đỏ), có nghĩa là độ tinh khiết của vàng xanh-vàng là khoảng 70%, độ tinh khiết của màu vàng. vàng là khoảng 80%, và độ tinh khiết của vàng tím là 90%, còn độ tinh khiết của vàng đỏ là gần như 100%.


Ngày nay có những cách kiểm tra nào?

Nhận biết bằng kem nền trang điểm

Bạn hãy thoa một lớp kem nền dạng lỏng lên mu bàn tay và chờ kem khô lại, sau đó chà tay lên bề mặt vàng.

Nếu thấy để lại một vệt trên chỗ kem vừa thoa thì đó là vàng thật, nếu không thấy gì thì là vàng giả.

Nhận biết bằng giấm

Lưu ý: Cách này chỉ có thể áp dụng với các loại trang sức bằng vàng 99.99%. Các thiết kế đính đá, vàng tây hoặc ngọc trai sẽ không nhận biết được.

Bạn hãy chuẩn bị một cốc giấm, sau đó cho trang sức vào ngâm khoảng 15 - 30 phút và quan sát màu nước trong cốc.

Nếu giấm chuyển sang màu đen, xanh lục hoặc nâu khói thì là vàng giả, còn không thấy có hiện tượng đổi màu thì là vàng thật.

Nhận biết bằng nam châm

Sử dụng một thỏi nam châm đưa đến gần vàng để kiểm tra. Nếu xảy ra lực hút thì đó là vàng giả, còn vàng thật sẽ không phản ứng gì với nam châm.


Nhận biết bằng gốm không tráng men

Lưu ý: Cách này sẽ không thể phân biệt được các loại vàng giả nhưng có lớp mạ bên ngoài là vàng thật, hoặc các loại vàng giả về độ tuổi, trọng lượng.

Bạn hãy lấy vàng chà xát mạnh lên bề mặt gốm tráng men (lúc này có màu trắng), nếu xuất hiện vệt màu vàng thì là vàng thật, còn vệt màu đen là vàng giả.

Nhận biết bằng cách kiểm tra trọng lượng vàng

Đầu tiên, bạn cần cân trọng lượng của chỗ vàng cần kiểm tra. Tiếp đến, chuẩn bị một lọ nước có chia vạch theo mililit (ml), đổ đầy nước vào nửa lọ và cho vàng vào ngâm.

Ghi chú lại mực nước trước và sau khi cho vàng vào để tính thể tích nước tăng thêm.

Cuối cùng bạn hãy áp dụng công thức tính tỷ trọng dưới đây:

Tỷ trọng = trọng lượng/thể tích tăng thêm

Nếu như tỷ trọng tặng thêm là gần 19g/ml thì đó là vàng thật.

Ví dụ, vàng có trọng lượng là 38 g, thể tích tăng thêm đo được là 2 ml thì tỷ trọng sẽ là 38/2 = 19 g/ml. Vậy trang sức đó là vàng thật.

Trang Hạ / Theo: xevathethao

Tuesday, December 9, 2025

KHÁM PHÁ TIÊU DAO DU CỦA TRANG TỬ: CÁI THẤY CỦA TA KHÔNG PHẢI LÀ TOÀN BỘ SỰ THẬT

Trong Tiêu Dao Du viết: Tại biển Bắc có một con cá tên là Côn, lớn đến mức không biết mấy nghìn dặm. Cá này khi hóa thân sẽ trở thành chim Bằng, với lưng rộng không kém phần vĩ đại. Khi vỗ cánh bay lên, đôi cánh của nó xòe ra như mây che kín cả bầu trời. Biển động, Bằng bay về phía Nam – nơi gọi là Ao Trời.


Tề Hải – một sách cổ ghi chép các hiện tượng kỳ dị – chép rằng: chim Bằng lúc bay ngang biển Nam vỗ cánh làm nổi sóng ba nghìn dặm; nhờ gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm cao, mất sáu tháng mới dừng lại.

Trang Tử không chỉ kể một điển cố huyền hoặc. Qua hình ảnh đó, ông mở ra cánh cửa dẫn tới một trong những tư tưởng thâm sâu nhất của Đạo gia: sự tiêu dao đích thực – tự do tuyệt đối không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ vật thể, hình thức hay danh tướng nào.

Côn hóa Bằng – Một cú nhảy vượt thoát khỏi giới hạn

Côn là cá, sống dưới nước; Bằng là chim, bay trên trời. Hai hình thái này không chỉ biểu trưng cho sự chuyển hóa tự nhiên, mà còn tượng trưng cho hành trình của con người vượt qua chính mình. Côn quá lớn để bơi trong dòng nước cạn. Bằng quá đồ sộ để bay nếu gió không dày, trời không rộng.

Trang Tử viết: “Nước không sâu thì không chở nổi thuyền lớn. Gió không dày thì không nâng nổi cánh lớn của Bằng.”

Vậy thì muốn tiêu dao, muốn tự do, thì không thể trông vào điều kiện nông cạn, hay sức người hữu hạn. Phải cưỡi lên khí trời – thuận theo Đạo, thì mới có thể bứt ra khỏi trói buộc của thế tục mà bay thẳng về phương Nam (Nam Thiên Môn, cánh cửa Thiên Quốc) – nơi ẩn dụ cho sự viên mãn và siêu thoát.


Màu xanh của trời là thật hay là ảo?

Trang Tử không chỉ là một người kể chuyện. Ông là một người hỏi những câu hỏi vượt khỏi giới hạn tri thức đương thời: “Cái màu xanh xanh của trời kia có phải là màu thật của nó, hay chỉ là màu của vô cùng thăm thẳm?”

Một câu hỏi tưởng như đơn giản, nhưng đã chạm vào tận cốt lõi của nhận thức học, bản thể học, và cả thực tại luận hiện đại. Ngày nay, khoa học xác nhận rằng màu sắc ta thấy không phải là màu của vật, mà là ánh sáng phản chiếu vào mắt, là cảm nhận chủ quan, không phải sự thật tuyệt đối.

Trang Tử – từ hơn hai ngàn năm trước – đã nghi vấn điều mà con người hiện đại phải dùng máy móc mới dám khẳng định. Ở đó, ông muốn nhấn mạnh: cái thấy của ta không phải là toàn bộ sự thật. Chúng ta không biết trời là xanh, hay vì mắt ta giới hạn mà thấy xanh. Chúng ta không biết mình là ai – hay chỉ là những vai diễn nối tiếp nhau qua các cơn mộng của cuộc đời.

Trang Chu mộng điệp – Thức hay mộng?

Có thể ai đó đã từng nghe câu chuyện: Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, bay lượn tự do. Khi tỉnh dậy, không biết là Chu mộng thấy hóa bướm, hay bướm mộng thấy hóa Chu.

Tưởng như huyền hoặc, kỳ lạ. Nhưng thực ra, đó là lời cảnh tỉnh sâu sắc: Chúng ta đang sống trong mộng, hay đang tỉnh trong một giấc mộng khác?

Con người sinh ra, lớn lên, đóng vai học sinh, rồi trở thành cha mẹ, thầy giáo, nhân viên, người của xã hội – và cứ thế trôi qua trong hàng loạt nhập vai. Trong những lần hóa thân ấy, họ dần đánh mất chân ngã, rồi đồng hóa mình với vai diễn, chấp vào cái tôi giả tạo, quên mất bản thể vốn là một phần của trời đất, vốn tự do.


Vì sao Côn phải hóa thành Bằng? Vì sao Trang Tử luôn dùng “mộng” và “hóa”?

Bởi vì ông muốn thức tỉnh ta khỏi cơn mộng vai trò, danh phận và hình tướng. Con người nếu không biết buông vai trò, sẽ mãi bị dẫn dắt bởi hoàn cảnh. Khi Côn không chấp là Côn, khi Bằng không chấp là Bằng, khi Chu không còn chấp là Chu, và bướm không còn là bướm, thì mới đạt tới trạng thái “vật hóa” – trạng thái mà con người không còn phân biệt mình và vạn vật, ngã và vô ngã.

Tiêu dao thật sự là gì?

Người đời sau thường gọi Trang Tử là “nhà văn học lãng mạn duy tâm”, là một nhà văn triết lý. Nhưng gọi vậy là hạn hẹp. Trang Tử không phải người viết văn chơi chữ, mà là một người tu hành, là người thật sự có trải nghiệm vượt ngoài nhục nhãn (mắt thịt của người thường), nhìn được thế giới trong hồ lô, thấy được chân tướng của vạn pháp.

Ông nói: “Triêu khuẩn bất tri hối sác, huệ cốc bất tri xuân thu” (Nấm sớm không biết đến hoàng hôn, ve sầu không hiểu được xuân thu)

Là muốn chỉ rằng: Con người nếu chỉ biết chạy theo cái thấy, cái nghe, cái lợi trước mắt, mà không tự tu dưỡng, không phản chiếu nội tâm, thì mãi mãi như ve sầu – sống theo mùa, không biết có một đại chu kỳ vũ trụ mà mình đang lặp lại và bị cuốn trôi.

Không phải chỉ là bay lên, không phải chỉ là hóa thành chim Bằng, hay biến thành cánh bướm. Mà là không chấp vào việc mình đang bay hay đang hóa, không còn phân biệt giữa mộng và tỉnh.


Tiêu dao thật sự là khi tâm không bị ràng buộc, ngã không bị chấp thủ (sự bám víu, níu kéo, hoặc dính mắc vào một cái gì đó, không muốn buông bỏ), và vạn vật đều đồng (cùng) thể. Khi đó, biển Bắc – biển Nam – bầu trời xanh – hạt bụi – ta và người – đều là Đạo.

Trang Tử không dạy chúng ta bay đi, mà dạy chúng ta vượt ra khỏi cái đang trói tư tưởng – nhận thức trong chính mỗi con người.

Mỹ Mỹ biên tập
Theo: vandieuhay

TẠP THI KỲ 1 - ĐÀO TIỀM


Tạp thi kỳ 1

Nhân sinh vô căn đế
Phiêu như mạch thượng trần
Phân tán trục phong chuyển
Thử dĩ phi thường thân
Lạc địa vi huynh đệ
Hà tất cốt nhục thân?
Đắc hoan đương tác nhạc
Đấu tửu tụ tỉ lân
Thịnh niên bất trùng lai
Nhất nhật nan tái thần
Cập thời đương miễn lệ
Tuế nguyệt bất đãi nhân


雜詩其一

人生無根蒂
飄如陌上塵
分散逐風轉
此已非常身
落地為兄弟
何必骨肉親
得歡當作樂
斗酒聚比鄰
盛年不重來
一日難再晨
及時當勉勵
歲月不待人


Thơ tạp kỳ 1
(Dịch thơ: Trần Trọng Dương)

Bụi người chẳng biết từ đâu
Phiêu linh ấy cũng một màu thế nhân
Tơi bời theo gió xoay vần
Cái thân bụi bặm là thân vô thường.
Kết anh em há đường cốt nhục?
Ai cũng là mảy tục trần gian
Khi vui khúc nhạc cung đàn
Xóm giềng tụ tập uống tràn canh thâu.
Mùa này được mùa sau lại mất
Một ngày khó hai lúc bình minh,
Vụ mùa mình gắng sức mình
Thoi đưa ngày tháng chùng chình chi đâu


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.

Sách Tấn thư chép Đào Tiềm là người đất Sài Tang đời Tấn (nay thuộc Cửu Giang, Giang Châu), tính tình cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thơ văn. ông có soạn truyện Ngũ liễu tiên sinh để tự ví mình. Nhà nghèo có cha mẹ già, ông phải ra làm chức Tế tửu - chức quan nhỏ trong huyện, nhưng không chịu gò bó nên từ quan về nhà. Về sau, ông lại ra làm huyện lệnh Bàng Trạch, được hơn 80 ngày, nhân cuối năm phái viên đốc hưu (chức quan giúp quan quận thú coi việc kiểm tra đôn đốc các huyện trong quận) đến huyện, nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề để đốc hưu. Ông ngậm ngùi than rằng: “Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa” (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Rồi ngay hôm ấy ông trả ấn bỏ quan mà về. Sau khi từ quan về, ông hay ẩn nằm ngũ dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy Hoàng. Ông vui cảnh an bần lạc đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui. Tính ông chuộng cúc, cứ đến ngày trùng cửu (mùng 9/9), ông lại cùng bạn bè bày tiệc rượu bên khóm trúc để thưởng hoa.

Nguồn: Thi Viện



THẠCH LÀM TỪ LOÀI CÂY QUÝ Ở ĐÀI LOAN

Thạch Aiyu (愛玉凍) được làm từ hạt của loài cây quý thuộc họ dâu tằm Ficus, sinh trưởng trên những vùng núi cao 1.000 m.


Một trong những món tráng miệng thanh mát và độc đáo của Đài Loan phải kể đến thạch Aiyu, tên tiếng Việt là thạch bông cỏ. Aiyu nguyên chất không chứa đường, ít calo và giải nhiệt hiệu quả nên còn được mệnh danh là "thánh phẩm" mùa hè, có thể kết hợp uống cùng trà sữa, nước trái cây... hoặc ăn trực tiếp với hỗn hợp mật ong, nước cốt chanh và đá bào.

Cái tên Aiyu (Ái Ngọc) bắt nguồn từ chính loại hạt làm nên món thạch này. Hạt Ái Ngọc còn có tên Ngọc chỉ, là một biến chủng của sắn dây, thuộc họ dâu tằm Ficus. Aiyu sinh trưởng ở những ngọn núi cao trên 1.000 m so với mặt nước biển, là sản vật của xứ Đài và là cây dây leo quý của thế giới, thường sống bám trên vách đá hoặc trên cây gỗ của rừng thứ sinh. Mà hiện tại nhiều nơi có độ cao thấp hơn cũng đã canh tác nhân tạo được.

Quả Aiyu cái cho hạt Ái Ngọc, là nguyên liệu chính làm nên món thạch cùng tên. Ảnh: Shutterstock

Bề ngoài quả Aiyu trông tựa quả xoài xanh, chia làm quả đực và quả cái. Trong quả cái có chứa khoảng 20.000 bông hoa nhỏ quấn chặt lại với nhau. Đặc biệt, người ta đã khám phá ra bên trong quả Aiyu đực chính là nơi cư trú của rất nhiều con ong nhỏ. Chúng khoan vô số lỗ nhỏ dưới đáy quả, bò ra bò vào, rồi bò sang quả cái để thụ phấn cho những bông hoa nhỏ bên trong, sau đó kết thành một quả nhỏ, gọi là "quả gầy" hay "ngọc ái tử" (hạt Ái Ngọc) cũng chính là nguyên liệu dùng làm thạch. Quả đực vì vậy còn gọi là quả "Trùng anh", và không được dùng để làm thạch Aiyu.

Chính vụ thu hoạch quả Aiyu kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12. Sau khi hái quả cái về, người ta gọt bỏ vỏ ngoài, bổ đôi và lộn ngược lại để phần hạt lộ ra ngoài, đem hạt ấy phơi khô là có được thành phẩm. Trong hạt Aiyu có chất keo, khi chà xát trong nước lạnh sẽ giải phóng pectin làm nước cô dính và đông lại thành thạch. Thạch Aiyu tự nhiên có tính thấm nước và rất mềm, khi ăn vào miệng sẽ lập tức tan chảy. Màu thạch vàng nhạt, bề mặt hạt còn các sợi tơ nhỏ sót lại nên nhìn có vẻ hơi đục. Ngoài ra thạch Aiyu thật sự sau khi đun nóng sẽ không bị tan chảy, giúp phân biệt với loại thạch tổng hợp làm từ bột Aiyu, gặp nóng liền tan.

Quả Aiyu cái đã được lộn ngược để lộ ra phần hạt bên trong. Ảnh: Shutterstock

Cũng như những món ngon khác, thạch Aiyu cũng có nguồn gốc của nó gắn liền với những câu chuyện, những giai thoại thú vị. "Sự tích" Aiyu được cho là xảy ra vào khoảng thế kỷ 19, kể về một thương nhân buôn trà trong lúc dừng chân nghỉ ngơi ở núi Đào Viên thì tình cờ phát hiện những miếng thạch trong veo, đang nổi lững lờ trên dòng suối gần đó, nếm thử thì thấy chúng có vị thanh mát lạ lùng. Thương nhân đảo mắt nhìn quanh và phát hiện những cây leo có trái màu tím nổi bật, bèn hái nó rồi vò thử trong dòng nước suối đang nhẹ chảy. Dòng nước chảy qua tay nhưng cảm giác rin rít hơi dính cứ còn ở lại. Ông cho rằng nó hẳn là nguyên liệu đã tạo nên những miếng thạch nhỏ trôi nổi trên dòng nước kia, bèn mang về, chế biến thử và đã thành thạch. Để tăng thêm hương vị, ông còn thêm mật ong và chanh khiến nó trở thành một món giải khát độc đáo mà ai cũng thích. Thương nhân đã đặt tên cho loại cỏ mình mang về là Aiyu (Ái Ngọc), theo tên cô con gái cưng của ông.

Thạch Aiyu dẻo, mềm và mát lạnh, kết hợp cùng mật ong và nước cốt chanh tạo nên hương vị chua ngọt hấp dẫn. Ảnh: Shutterstock

Nhờ sự tinh khiết, thanh mát và công dụng giải nhiệt tuyệt vời mà món thạch Aiyu đã trở thành thức quà mùa hè được ưa chuộng trên toàn Đài Loan, cũng như nhiều nơi khác ngoài hòn đảo xinh đẹp này. Giá của hạt bông cỏ cũng vì thế mà tăng mạnh hơn, một hecta có thể thu hoạch được 400-500 kg bông. Mỗi kg có giá khoảng từ 700 TWD, xấp xỉ 577.000 đồng ở thời điểm hiện tại.

Yến Nhi tổng hợp
Theo: VNExpress



MÓN THỊT HEO XAY, ĂN SỐNG CỦA NGƯỜI ĐỨC

Người Đức thích ăn "Mett" - loại bánh mì phết thịt heo sống - và nhận xét hương vị béo ngậy, tinh tế như pate cao cấp.


Mettbrotchen hay Mett là món ăn nhẹ truyền thống ở miền Bắc và miền Đông nước Đức. Món này đơn giản là nửa ổ bánh mì tròn (Brotchen) được phết lớp thịt heo xay sống, nêm muối, tiêu đen và hành tây băm nhỏ phía trên. Ở một số vùng phía Bắc, người ta còn gọi nó là Hackepeter nhưng hiện nay từ "Mett" thành cách gọi phổ biến nhất cả nước.

Từ "Mett" xuất phát từ tiếng Đức cổ, nghĩa chung là "thức ăn", cũng là nguồn gốc của từ "meat" trong tiếng Anh ngày nay. Ban đầu, từ này chỉ các loại thịt xay nhưng từ thế kỷ 19 trở đi, nó dần được dùng riêng cho thịt heo xay sống, được nêm gia vị sẵn.

Cách ăn phổ biến nhất là phết trực tiếp thịt sống lên bánh mì, tạo thành món Mettbrotchen nhiều người Đức yêu thích trong bữa sáng hoặc bữa nhẹ giữa ngày.

Những lát bánh mì phủ thịt sống làm món Mett. Ảnh: RP Online

Mettbrotchen từng có thời kỳ hoàng kim trong giai đoạn những năm 1950 đến 1970, trùng với giai đoạn "phép màu kinh tế" (Wirtschaftswunder) sau Thế chiến thứ hai. Khi đời sống người dân được cải thiện và thịt không còn là thực phẩm xa xỉ, thịt heo sống trở thành biểu tượng của sự sung túc.

Một số người từng thử nhận xét thịt heo sống có vị dễ ăn, béo ngậy hơn thịt bò sống rất nhiều, gần giống pate cao cấp nhưng tươi hơn. Khi kết hợp với bánh mì giòn, chút hành tây cay nồng và hạt tiêu đen mới xay, món ăn mang lại cảm giác "thuần khiết, mộc mạc", thể hiện trọn vẹn hương vị tự nhiên của thịt heo. Chính sự đơn giản đó đã giúp Mettbrotchen tồn tại qua nhiều thế hệ.

Trong chính trong thời kỳ này, món Mettigel - "con nhím thịt" nổi tiếng - ra đời và nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi bữa tiệc gia đình. Người ta nặn toàn bộ khối thịt heo sống thành hình con nhím, dùng những lát hành tây cắt khúc hoặc que bánh vòng cắm làm gai, đôi khi dùng olive đen làm mắt và mũi. Hình ảnh những chú nhím thịt màu hồng đặt giữa bàn tiệc đã trở thành một phần ký ức tuổi thơ của nhiều người Đức sinh ra trong khoảng những năm 1950-1970.


Ngày nay, dù lỗi thời so với ẩm thực hiện đại, Mettbrotchen vẫn hiện diện khắp nơi, đặc biệt ở Berlin và các thành phố miền Bắc. Du khách dễ dàng bắt gặp chúng ở hầu hết quầy thịt truyền thống, tiệm bánh mì, quán cà phê với những chiếc bánh làm sẵn từ sáng sớm.

Về mặt an toàn thực phẩm, thịt dùng để làm Mett tại Đức chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt bậc nhất châu Âu. Pháp luật quy định thịt sống chỉ được phép bán và tiêu thụ trong cùng ngày xay, phải luôn được bảo quản lạnh cho đến lúc phục vụ. Bất kỳ phần thịt thừa nào còn lại cuối ngày đều phải được nấu chín, tuyệt đối không được bán sống vào hôm sau.

Dù vậy, cây viết Smith của Tasting Table tiết lộ quy trình kiểm soát ở một số cửa hàng không gắt như nhiều người vẫn nghĩ. Anh đã mua một phần Mett để ở nhiệt độ phòng nhưng may mắn không gặp vấn đề gì về tiêu hóa, ngộ độc.


Nhờ các tiêu chuẩn này kết hợp với việc kiểm soát ký sinh trùng Trichinella trong chăn nuôi hiện đại, nguy cơ từ thịt heo sống ở Đức đã giảm xuống mức rất thấp. Tuy nhiên, giống như mọi loại thực phẩm sống khác, Mett vẫn tiềm ẩn rủi ro vi khuẩn như salmonella, yersiniosis, campylobacter dù tỷ lệ thực tế thấp.

Hoài Anh / Theo: Tasting Table, German Culture
Link tham khảo:



Monday, December 8, 2025

"KHÔNG CÓ PHÚC THÌ ĐỪNG HƯỞNG THỤ", MỘT QUY LUẬT TRỜI CHUẨN XÁC HƠN CẢ BÓI TOÁN

Người xưa thường nói: “người ta không sợ phúc không đến, chỉ sợ không có phúc để hưởng.” Câu nói này thật ra chứa đựng một đạo lý rất sâu sắc. Tại sao có người trúng số lớn lại mắc bệnh nặng? Tại sao nhiều người trẻ tuổi ngày nay ra đi sớm? Tại sao người ta vừa xây xong nhà thì gặp tai nạn xe hơi? Câu trả lời đơn giản chỉ trong bốn chữ: “Đức không xứng vị”.


Đạo lý sai lệch sẽ lập tức tiêu tan; đức không xứng vị, tất sẽ dẫn đến tai ương.

Tất cả tài sản, trí tuệ, mọi thứ chúng ta sở hữu, người xưa dùng một chữ để đại diện: vật. Chỉ có đức dày mới đủ khả năng gánh vác vạn vật, “dày” nghĩa là sâu sắc; “đức” là sống và làm việc theo quy luật tự nhiên; “gánh vác” là khả năng chịu đựng; còn “vật” chính là phúc báo mà chúng ta nói đến.

Ngược lại, khi đức không xứng vị, “vị” là đãi ngộ, phúc báo của chúng ta. Nghĩa là đạo đức của chúng ta chưa đủ để tương xứng với phúc mà mình đang hưởng. Ví dụ, một cái bàn chỉ chịu được sức nặng 10kg, nhưng bạn cứ đặt lên 15kg, 20kg, thậm chí 50kg, kết quả thế nào? Cái bàn sẽ rung lắc, biến dạng, xuất hiện dấu hiệu sụp đổ trước khi hoàn toàn gãy.

“Không có phúc thì đừng hưởng thụ”, một quy luật trời chuẩn xác hơn cả bói toán

Tiền bạc, quyền lực, danh vọng cũng là phúc báo, cũng là “vật” đè lên bạn. Bạn có đủ sức gánh vác không? Gánh vác bằng gì? Bằng đức hạnh phù hợp với quy luật vạn vật. Nếu là cha mẹ, ông bà, bạn cần thường xuyên dạy con cháu về việc trân trọng phúc báo, điều này thực sự tốt cho chúng.

Phúc báo chính là sự hưởng thụ của chúng ta: ăn ngon, mặc đẹp, mua đồ giá một vạn thay vì một nghìn, thưởng thức món mười vạn thay vì hai vạn… Đó đều là phúc báo. Người Trung Quốc xưa có câu: “tiếc thực, tiếc y” trân trọng đồ ăn, quần áo.

Phải quý trọng những gì mình có, bởi con người cần biết tiếc phúc, tích lũy phúc báo cho chính mình.

Quy luật trời

Có người nói: “tôi chẳng tin gì cả.” Vậy thì hãy lấy chính bản thân để kiểm chứng. Người xưa có câu: “quân tử yêu tiền, lấy phải có đạo.”

Chữ “đạo” ở đây vô cùng quan trọng. Có những thương nhân dùng thủ đoạn bất hợp pháp để chiếm đoạt những thứ mà số mệnh không cho phép – đó chẳng phải tự chuốc lấy họa sao? Không ít trường hợp phải vào tù, bị kết án, tất cả đều vì đức hạnh của họ không tương xứng với đãi ngộ, phúc báo mà họ nhận.


Chúng ta dùng điện thoại rẻ tiền, đi giày vải, mặc quần áo giản dị… Vì sao? Bởi đức hạnh của chúng ta chưa đủ dày, nên phải sống giản dị để lòng an nhiên. Nếu không có đức hạnh mà lại muốn hưởng thụ quá mức: xe Mercedes, BMW, biệt thự sang trọng, bữa ăn hàng nghìn, hàng vạn… đó là đang tiêu hao phúc báo, tự giảm phúc của mình. Bạn thực sự dám ăn, dám dùng sao?

Ngày nay, con người điên cuồng chạy theo danh lợi, bất chấp mọi giá để nổi tiếng, bất chấp mọi thủ đoạn để kiếm tiền. Chúng ta thấy xe sang, biệt thự lớn, người khác làm quan to, liền nghĩ: “Mình nhất định phải kiếm được số tiền đó.” Mọi người đều nghĩ vậy, nhưng lại không hiểu đạo đức. Kết quả ra sao? Đạo lý sai lệch lập tức tiêu tan; đức không xứng vị, tất có tai ương.

Tiếc phúc, đừng làm hao phúc

Học sinh, trẻ em ngày nay cũng tương tự. Dù vị trí nào, cứ đòi hỏi những thứ tốt nhất. Bạn chưa kiếm được đồng nào mà đã muốn thứ đắt tiền nhất. Ai dạy thế? Truyền hình, xã hội, phụ huynh, thầy cô… tất cả đều khuyến khích tâm lý so bì:

Mẹ mai mua cho con cái tốt hơn để vượt mặt nó!”

Điều này hoàn toàn sai lầm. Trẻ con không biết rằng hưởng thụ quá nhiều sẽ dẫn đến hậu quả. Người xưa nói: điều này sẽ làm hao phúc, giảm thọ. Có lý do cả phúc báo vốn là năng lượng, con người cũng là một thể năng lượng.

Chúng ta không biết cách yêu thương con cái đúng mực. Tình yêu dành cho con ngày nay đôi khi đi ngược lại lẽ thường: càng yêu, con càng dễ bệnh, dễ gặp tai họa, dễ chết yểu. Tại sao nhiều người trẻ ra đi sớm? Tại sao nhiều người ngoài 30 đột tử? Bởi phúc báo, năng lượng của họ bị tiêu hao quá nhanh.

Vì vậy, ăn uống đơn giản, dùng đồ giản dị là lựa chọn khôn ngoan. Hiểu được đạo lý này, bạn mới thấy được đức dày gánh vác vạn vật, và mới dám hưởng thụ đúng cách.

Chu Dịch

Trong Chu Dịch có câu: “nhà tích thiện, tất có dư phúc; nhà tích ác, tất có dư ương.”

Bạn thấy doanh nhân giàu có, liền nghĩ: “mình phải lấy được số tiền đó.” Nhưng bạn có bao giờ nghĩ họ có đức hạnh và phúc báo để ngồi vững ở vị trí đó hay không?

“Không có phúc thì đừng hưởng thụ”, một quy luật trời chuẩn xác hơn cả bói toán

Lại nói một lần nữa câu trong Chu Dịch: “nhà tích thiện, tất có dư phúc; nhà tích ác, tất có dư ương.”

Bạn thấy người ta phát tài, nổi tiếng, làm giáo sư… cảm thấy bất bình. Nhưng bạn có biết họ cần đức hạnh lớn đến mức nào để duy trì thành quả đó?

Nguyên tắc đơn giản

Thích cho đi, phúc báo sẽ ngày càng nhiều.

Thích biết ơn, thuận lợi sẽ ngày càng nhiều.

Thích giúp người, quý nhân sẽ ngày càng nhiều.

Thích than vãn, phiền não sẽ ngày càng nhiều.

Thích biết đủ, niềm vui sẽ ngày càng nhiều.

Thích trốn tránh, thất bại sẽ ngày càng nhiều.

Thích chia sẻ, bạn bè sẽ ngày càng nhiều.

Thích tức giận, bệnh tật sẽ ngày càng nhiều.

Thích chiếm lợi, nghèo khó sẽ ngày càng nhiều.

Thích bố thí, phú quý sẽ ngày càng nhiều.

Tiểu Hoa biên dịch
Theo: vandieuhay

HỶ KIẾN NGOẠI ĐỆ HỰU NGÔN BIỆT - LÝ ÍCH


Hỷ kiến ngoại đệ hựu ngôn biệt

Thập niên ly loạn hậu,
Trường đại nhất tương phùng.
Vấn tính kinh sơ kiến,
Xưng danh ức cựu dung.
Biệt lai thương hải sự,
Ngữ bãi mộ thiên chung.
Minh nhật Ba Lăng đạo,
Thu sơn hựu kỷ trùng.


喜見外弟又言別

十年離亂後
長大一相逢
問姓驚初見
稱名憶舊容
別來滄海事
語罷暮天鐘
明日巴陵道
秋山又幾重


Mừng gặp em họ ngoại,
nhưng lại phải từ biệt
(Dịch thơ: Nguyễn Minh)

Mười năm ly loạn qua rồi
Thảy đều khôn lớn ta thời gặp nhau
Ngạc nhiên nghe họ lúc đầu
Nghe tên mới nhớ mặt nhau thuở nào
Hàn huyên thân ái làm sao!
Chuyện trò vừa dứt chuông rao tối rồi
Ba Lăng sáng sớm đi thôi
Bon bon lại vượt núi đồi trời thu.


Sơ lược tiểu sử tác giả

Lý Ích 李益 (748-829) tự Quân Ngu 君虞, người Cổ Tang, Lũng Tây (nay thuộc huyện Vũ Uy, tỉnh Cam Túc), thi nhân đời Trung Đường.

Nguồn: Thi Viện