Monday, November 24, 2025

ECUADOR: THIÊN ĐƯỜNG LOÀI CHIM

Chúng tôi đứng rình rập chim bay đến ăn, để chụp hình, (thiệt là chỉ có đam mê mới làm được điều này), lại phải đứng trong bóng tối, muỗi đốt lia lịa, chỉa ống kính ra chỗ chủ nông trại để bắp ngô dụ chim...

Yellow Toucan (TTT)

Không biết tự bao giờ, các quốc gia Nam Mỹ đã là nơi tụ tập của biết bao nhiêu loài chim đến nỗi người ta gọi vùng ấy là "Lục địa của loài chim." South America là nhà của 3,445 chủng loại chim và dân số chim ở đây chiếm 1 phần 3 tổng số chim trên thế giới. Tôi may mắn được viếng thăm các nước ở vùng Nam Mỹ mà Ecuador là một trong những nước Nam Mỹ có nhiều loại chim đẹp, lạ và hiếm có nhất. Những ngày đi săn ảnh và chụp chim ở Ecuador là những giờ phút mê mẩn, kỳ thú, đi liên tục, không ngừng nghỉ. Đây là một trải nghiệm mới và khác hẳn với những gì mà tôi từng trải qua trước kia.

Bạn muốn thăm thú, xem chim chóc hay chụp chim ở đây, điều đầu tiên nên làm là tìm một công ty du lịch Tour dẫn đường có uy tín. Tùy theo nhu cầu của bạn mà họ dẫn bạn đến nơi bạn muốn xem. Thành phố Quito là cái trục chính và từ đó bạn sẽ rẽ đi các vùng Bắc hay Nam để đến nơi bạn muốn đến. Đất nước vùng cao nằm bên dãy núi Andes này tạo nên hai vùng khí hậu Nam và Bắc khác biệt lại thêm khí hậu nhiệt đới của Amazon khiến nơi đây biến thành một cứ điểm hấp dẫn cho các loài chim đua nhau tụ về sinh sống. Mưa nhiều, rừng rậm núi cao, đã dấu kín những cái đẹp ẩn tàng kỳ diệu mà chỉ những ai thích phiêu lưu, ưa tìm tòi mạo hiểm mới khám phá được.

Blue Toucan (TTT)

Khởi đi từ Quito, mỗi ngày nhóm chúng tôi được đưa đến các nơi như các nông trại hay các địa điểm bảo tồn chim chóc để chụp ảnh. Mỗi buổi sáng sớm thường từ 5 giờ sáng, một chiếc xe 4 wheel drive với người tài xế và người dẫn tour đến đón chúng tôi đi chụp ảnh. Người tài xế là một thanh niên trẻ người địa phương rất thông thạo đường xá ở đây, nhất là đường vào các nông trại hay các khu bảo tồn. Anh giỏi lái xe đường núi vì nơi đây toàn là đồi núi mà lại có mưa lầy, cùng sương mù ở những nơi là lũng thấp. Những chiều mưa hay buổi sáng sương mù dày đặc, di chuyển trên những sườn núi bên những vực cao vô vùng nguy hiểm mà anh vẫn lái như không, khiến tôi phải bội phục. Anh nói tiếng Anh chút đỉnh và bập bẹ. Riêng cô dẫn đường thì tiếng Anh lưu loát và có học. Cô rành rẽ từng loài chim, thói quen của chúng và biết cách giả tiếng chim để gọi chúng ra nữa.

Booted racket tail Hummingbird (TTT)

Mỗi ngày chúng tôi đi một, hai hoặc ba địa điểm tùy theo tiện đường hay người dẫn đường nhận được cú điện thoại báo cáo có giống chim nào xuất hiện của chủ nông trại. Phần lớn chim chóc ở đây sống trong rừng núi. Tuy nhiên các chủ nông trại có trồng trọt nhiều chuối và những loại cây ăn trái nên chim thường về nông trại của họ để ăn. Họ thấy chim về nên họ bắt đầu dụ chim bằng những thứ trái cây hay sâu bọ mà chúng ưa thích, thế là chúng lần về, lâu ngày chúng quanh quẩn ở gần đấy đợi họ cho ăn. Họ đặt tên cho từng con theo tiếng Tây Ban Nha và học thuộc tiếng hót hay kêu của loài chim đó. Mỗi ngày theo một giờ giấc nào đó họ nhại tiếng chim hay để loa có tiếng chim để gọi chim về cho chim ăn, khi chim về các tay chụp chim tha hồ mà chụp.

Toucan Babet (TTT)

Chim ở Ecuador có nhiều loại lạ và hiếm gần như tuyệt chủng, do đó nông trại nào có được vài ba con là đã có thể làm giàu. Chim hay thú vật thường ăn từ sáng sớm, nên chúng tôi cũng phải lò mò đi từ sớm, đến trang trại giữa lúc núi đồi còn sương phủ tối thui. Chúng tôi đứng rình rập chim bay đến ăn, để chụp hình, (thiệt là chỉ có đam mê mới làm được điều này), lại phải đứng trong bóng tối, muỗi đốt lia lịa, chỉa ống kính ra chỗ chủ nông trại để bắp ngô dụ chim, không dám cựa mạnh sợ gây tiếng động, chim sợ bay mất. Dưới ánh đèn lờ mờ, con chim hiện ra mổ hạt ngô liên tục, thế là các phó nhòm thi nhau bấm máy.

Đã vậy chủ nông trại còn ngụy trang che kín chỗ chụp ảnh, màn rủ xuống che, chỉ để vài lỗ trống, đủ để thò cái ống kính ra thôi, vì họ sợ chim thấy người không bay xuống ăn mồi. Thực vậy có những giống chim rất nhát nhưng lại là những loại chim hiếm ở trong danh sách tuyệt chủng.

Andean Rock of the Cock (TTT)

Tệ nhất là lần chúng tôi đi chụp chim Adean Cock of the Rock. Đây là một loài chim đặc biệt có cái mào đầu đỏ, lại giống cái mũ của binh sĩ Anh Quốc thời xưa. Nơi chụp là một vách đồi được người chủ khu bảo tồn dựng lên với các màn che chắn kín mít chung quanh. Khoảng đất chỉđủ cho khoảng 5, 6 người đứng nhưng người đến chụp khoảng 10 người, chen chúc nhau mà chụp. Màn phủ chỉ để ló ống kính ra thôi mà chung quanh chỗ chụp thì tối đen toàn muỗi. Chúng tôi đứng chịu đựng muỗi đốt để chụp lũ chim này.

Chúng, những con Adean trống màu đỏ, đen tuyệt đẹp, bay lượn, kêu réo véo von để dụ chim mái trong những bụi cây của rừng rậm phía trước, tạo nên một cảnh nhộn nhịp. Chúng biểu diễn tranh tài để khuyến dụ các nàng mái trong mùa giao phối trông thật vui mắt. Có sống và chứng kiến những sinh hoạt và đời sống của muôn thú trong thiên nhiên bạn mới quý đời sống của chúng ta biết dường nào. Bởi vì vạn vật và chúng ta cũng như nhau.

White Booted hummingbird (TTT)

Tôi thích nhất là giờ phút một buổi mai lúc đứng đợi chim đến để chụp nơi một cánh rừng. Chúng tôi bỗng nghe được một điệu chim hót rất du dương, có vần có điệu, không biết loại chim gì hót mà hay lắm các bạn ạ. Mọi người lặng đi khi nghe tiếng loài chim đó hót, hay ơi là hay, tôi nhanh tay lấy phone ra ghi lại nhưng chỉ được một đoạn ngắn. Có đi chụp chim, có vào rừng buổi sáng, bạn mới được nghe tiếng chim hót diệu kỳ trong rừng. Đó là lúc bốn bề chìm trong khí lạnh sương lãng đãng bay, lòng bạn sẽan tịnh hơn cả để sẵn sàng nghe được những tiếng chim hót khác nhau. Mỗi giọng chim là mỗi điệu, một kiểu, bạn mới hay rằng giọng hát con người thua xa giọng hát líu lo của một loài có cánh được gọi là chim!!!

Những nơi chúng tôi được dẫn đi tùy theo thời gian và địa điểm mà tới như Zuro Loma Reserve, Paz de las Aves, Pacha Quindi Hummingbirds, Alambi Hummingbirds, Santa Rosa Feeder, San Tadeo Feeder, Balcon Tumpiki, Punto Ornitológico, Amagusa Reserve, Antisana Ecological Reserve,Andean Condor, Ecuadorian Hillstar. Phải nói Nam Mỹ đã lôi cuốn được người của các nơi trên thế giới mê nhiếp ảnh đến chụp chim. Tôi gặp nhiều người đến từ Âu Châu, Á Châu, Canada, Úc và các nơi khác.

Chestnut Crowned Antpita Baby (TTT)

Lần đầu trong đời tôi thấy được biết bao nhiêu là loài chim từ bé, lớn đến khổng lồ, loài nào cũng có cái hay đẹp riêng của nó. Từ những con chim xanh, đỏ, vàng thuộc giống Tanager, trông nhỏ nhắn xinh xắn thật đẹp, đến những chú chim Dacnis đủ màu nhìn thật đáng yêu. Cỡ trung như Giant Antpitta, Moustached Antpitta, Yellow-breasted Antpitta, Chestnut-crowned Antpitta, Ochre-breasted Antpitta, Corcovado Dorsiosuro (dark-Backed Wood Quail) cho đến những con Condor Nam Mỹ khổng lồ giang cánh trên trời rộng. Tuy nhiên muốn đến gần nó để chụp bạn phải leo núi ở cao độ 16 ngàn ft tức 5 ngàn mét mới chụp được.

Tanager (TTT)

Tôi tự hào vì đã từng leo được đến Cusco của Peru ở độ cao 11 ngàn ft, thế mà lúc leo lên quá 13 ngàn ft núi Ecuador để chụp Condor mới thấy bủn rủn cả chân tay. Không khí loãng khiến tôi đi không nổi, tim bị mệt và phải từ bỏ ý định chụp Condor nên trở xuống mà trời thì mưa lạnh rét, đường núi lại khó đi. Anh tài xế cũng say độ cao đi không vững, chỉ đứng ở dưới lũng thấp đợi mọi người. Chỉ cô tour guide và một anh còn trẻ đi nổi khúc đường cao độ còn lại.

Long tail Sylph Hummingbird (TTT)

Loại chim tôi yêu thích nhất suốt cuộc hành trình là Chim Ruồi Hummingbird. Tôi mê mẩn nhất là con chim đài các lông dài Long-tail Sylph hummingbird. Tôi cứ đi theo nó mà chụp trong khi nó là con nhát nhất trong loài chim ruồi. Vì sở hữu một cái đuôi dài đẹp rực rỡ nó khó bay lượn, xoay trở, dễ bị săn bắt ăn thịt nên nó rất nhát. Nhưng khi nó bay thì rất đẹp, cái đuôi lê thê của nó lượn là như một vũ công với những tà áo mỏng dài thướt tha tuyệt đẹp. Bạn có biết, chỉ có con trống mới có cái đuôi dài và đủ màu đẹp như thế mà con cái thì xấu òm, đuôi lại ngắn hơn, trái ngược hẳn với con người.

Bải & Ảnh: Trịnh Thanh Thủy

Sunday, November 23, 2025

BÊN TRONG NHỮNG "NHÀ GA MA" Ở TOKYO, NƠI THỜI GIAN DỪNG LẠI DƯỚI LÒNG ĐẤT

Ẩn mình dưới những con phố sôi động của Tokyo là những “ga ma”, các nhà ga bị bỏ hoang - nơi tiếng tàu xưa đã im bặt nhưng câu chuyện lịch sử vẫn còn vang vọng.

Ga Hakubutsukan-Dobutsuen

Bóng dáng quá khứ trong lòng đất

Nằm sâu dưới góc phía nam công viên Ueno (Tokyo), ga Hakubutsukan-Dobutsuen (tạm dịch là “ga Bảo tàng - Sở thú”), từng là một điểm dừng trên tuyến Keisei - tuyến đường sắt quan trọng nối trung tâm Tokyo với sân bay Narita.

Khai trương năm 1933, nhà ga từng đón hàng nghìn du khách mỗi ngày đến tham quan vườn thú Ueno và bảo tàng Hoàng gia Tokyo. Sau khi đóng cửa năm 1997 và chính thức ngừng hoạt động vào 2004, nơi đây chìm trong im lặng, chỉ còn lại sân ga phủ bụi, tường bong tróc và quầy vé gỗ cũ kỹ, những dấu vết lặng lẽ của thời hoàng kim đã qua.

Theo ông Mamoru Iwai - trưởng ga Keisei Ueno, toàn bộ công trình được giữ nguyên trạng từ khi dừng hoạt động.

“Dù đầy bụi sắt và dầu mỡ, chúng tôi không được phép thay đổi gì. Chính sự cũ kỹ ấy mới tạo nên nét 'quyến rũ' đặc biệt của nơi này”, ông nói.

Từ cánh cửa thép xanh ngọc khổng lồ đến cầu thang bê tông dẫn xuống sân ga âm u, mọi chi tiết đều mang vẻ bí ẩn pha chút hoang phế, gợi nhớ thời Tokyo với đường sắt hiện đại.

Ông Mamoru Iwai, trưởng ga Keisei Ueno, cho biết ngoài việc gia cố chống động đất, ga Hakubutsukan-Dobutsuen cũ vẫn được giữ nguyên như ban đầu. Ảnh: Johan Brooks/Japan Times

Điều đặc biệt là việc xây dựng nhà ga từng cần đến sự chấp thuận trực tiếp của Thiên hoàng Nhật Bản. Dự án chỉ có một cơ hội duy nhất được trình bày trước Thiên hoàng. Và sau nhiều tháng xem xét, đến tháng 3 năm 1932, công trình mới được chấp thuận. Điều kiện đi kèm là nhà ga phải mang vẻ trang nghiêm, “xứng tầm hoàng gia”.

Bộ Đường sắt Nhật Bản khi đó đã thiết kế một công trình mang phong cách phương Tây với mái vòm, cột bê tông và cửa sắt lớn, phản ánh tinh thần hiện đại hóa đầu thế kỷ 20.

Ga Hakubutsukan-Dobutsuen nhanh chóng trở thành biểu tượng văn hóa của Tokyo thời tiền chiến, đồng thời là cổng vào khu di tích - bảo tàng nổi tiếng nhất thủ đô.

Năm 2018, công trình được công nhận là di tích lịch sử đầu tiên trong hệ thống đường sắt Tokyo, nhờ giá trị kiến trúc và văn hóa độc đáo. Ngày nay, ga Hakubutsukan–Dobutsuen được mở lại định kỳ cho các sự kiện đặc biệt. 

Lối vào của ga Hakubutsukan-Dobutsuen nổi bật với cánh cửa thép trượt màu xanh ngọc, mái hình kim tự tháp và trần vòm trang trí tinh xảo. Ảnh: Johan Brooks/Japan Times

“Ga ma” giữa lòng Shimbashi

Không xa đó, dưới ga Shimbashi nhộn nhịp, ẩn sau cánh cửa kim loại nhỏ cạnh lối ra số 8 là “ga ma Shimbashi” - sân ga bí ẩn của tuyến Ginza, tuyến tàu điện ngầm đầu tiên ở châu Á.

Được xây dựng năm 1939, nơi đây dài khoảng 50m, với các cột vòm uốn cong và tường ốp gạch khảm ghi dòng chữ “Shimbashi” theo chiều từ phải sang trái, dấu vết của thời trước chiến tranh.

“Sân ga ma” của ga Shimbashi, từng được sử dụng trong vỏn vẹn 8 tháng vào năm 1939, đến nay - sau 86 năm - vẫn gần như nguyên vẹn. Hình ảnh hiếm hoi cho thấy ga trong thời kỳ hoạt động sôi động, với tên ga bằng chữ Hán được viết từ phải sang trái. Ảnh: Tokyo Metro

Theo đại diện Tokyo Metro, ga này chỉ hoạt động trong 8 tháng do bất đồng giữa hai công ty đường sắt cùng khai thác tuyến. Sau đó, nó bị bỏ hoang và được gọi là “ga ma Shimbashi”.

Tuy nhiên, nhà nghiên cứu đường sắt Tatsuya Edakubo phát hiện rằng, sân ga từng được sử dụng lại trong giai đoạn Tokyo bị oanh tạc năm 1945. Khi tuyến Ginza bị đánh sập một đoạn, tàu phải quay đầu tại chính sân ga bị lãng quên này. “Nó là nhân chứng sống cho một phần lịch sử Tokyo mà ít người biết đến”, ông Edakubo nói.

Từ đống đổ nát đến không gian văn hóa

Rời lòng đất, bên bờ sông Kanda, phần còn lại của ga Manseibashi, nơi từng là biểu tượng của thời kỳ hiện đại hóa Nhật Bản đầu thế kỷ 20, vẫn đứng sừng sững giữa khu phố điện tử Akihabara.

Khai trương năm 1912, Manseibashi được kiến trúc sư Tatsuno Kingo (người thiết kế ga Tokyo) xây bằng gạch đỏ theo phong cách Anh, với nhà hàng, phòng chờ hạng sang và quán bar. Đây từng là ga nhộn nhịp thứ tư của Tokyo, chỉ sau Ueno, Shimbashi và Shinjuku.

Đối diện khu phố điện tử Akihabara, cầu cạn bằng gạch đỏ dọc sông Kanda là tàn tích duy nhất còn lại của ga Manseibashi - từng là một trong những công trình biểu tượng tráng lệ nhất Tokyo. Ảnh: Johan Brooks/Japan Times

Nhưng trận động đất Kanto năm 1923 đã phá hủy hầu hết công trình. Sau nhiều lần tái thiết, ga bị đóng cửa năm 1943 và chuyển thành bảo tàng Giao thông. Đến năm 2013, phần còn lại được phục dựng thành tổ hợp thương mại mAAch ecute Kanda Manseibashi, nơi các quán cà phê và cửa hàng thiết kế hòa cùng di tích lịch sử.

Hai cầu thang đá từ năm 1912 và 1935 được giữ nguyên, dẫn du khách đi ngược dòng thời gian. Những bức tường gạch với kỹ thuật trát truyền thống “fukurin meji” tạo cảm giác mềm mại, giống với lối kiến trúc của ga Tokyo hiện nay.

Ga Manseibashi cũ nay đã được chuyển đổi thành không gian thương mại hiện đại, với các quán cà phê và cửa hàng thiết kế nằm trong kiến trúc gạch đỏ được bảo tồn. Ảnh: Johan Brooks/Japan Times

Bên trong, mô hình thu nhỏ tái hiện khu vực Manseibashi thời Taisho, từng là nơi quy tụ giới văn nghệ sĩ như Ryunosuke Akutagawa và Junichiro Tanizaki, nay trở thành điểm tham quan thu hút người yêu lịch sử đường sắt.

Những “ga ma” của Tokyo không chỉ kể lại câu chuyện kỹ thuật hay giao thông, mà còn là những lát cắt tinh tế của lịch sử đô thị Nhật Bản về khát vọng phát triển, sự đổ nát của chiến tranh và nỗ lực tái sinh. Dù những tiếng còi tàu cũ đã im bặt, trong tiếng rì rầm của thành phố hôm nay, dường như âm vang của quá khứ vẫn còn vọng lại từ sâu dưới lòng đất Tokyo.

Hoàng Vũ / Theo: vietnamnet



XUÂN MỘNG - SẦM THAM


Xuân mộng - Sầm Tham

Động phòng tạc dạ xuân phong khởi,
Dao ức mỹ nhân Tương giang thuỷ.
Chẩm thượng phiến thì xuân mộng trung,
Hành tận Giang Nam sổ thiên lý.


春夢 - 岑參

洞房昨夜春風起
遙憶美人湘江水
枕上片時春夢中
行盡江南數千里


Giấc mộng xuân
(Dịch thơ: Trần Trọng Kim)

Gió xuân đêm trước vào phòng,
Mỹ nhân xa nhớ bên dòng Tương giang.
Mộng xuân một giấc mơ màng,
Giang Nam muôn dặm một đường ruổi mau.


Sơ lược tiểu sử tác gỏa:

Sầm Tham 岑參 (715-770) tổ tiên ở Nam Dương sau di cư tới Giang Lăng, dòng dõi của tể tướng Sầm Văn Bản 岑文本 (595-645), thi nhân đời Đường đại biểu cho thơ biên tái cùng với Cao Thích 高適. Tác phẩm có Sầm Gia Châu thi tập 岑嘉州詩集.

Nguồn: Thi Viện



NẾU NHƯ ĐỀU PHẢI CHẾT THÌ SAO NGƯỜI TA CÒN PHẢI SỐNG ĐỂ LÀM GÌ?

Trưa hè, trời vừa dứt cơn mưa. Những tia nắng trong veo chiếu qua kẽ lá còn đẫm nước. Nhất Thiền ngồi bên hiên nhà tĩnh mịch cùng sư phụ đọc sách…


Hôm nay hai thầy trò cùng đọc kinh sách. Chú tiểu Nhất Thiền ôm một cuốn sách to tướng, che lấp hết cả mặt và ê a ngồi đọc bên cạnh sư phụ. Được một lúc, chừng như mệt mỏi, chú cứ gật gà gật gù, tay dần dần buông thõng, mấy lần suýt đánh rơi cả sách. Sư phụ phải đập vào lưng, vào đùi chú mấy lần, Nhất Thiền mấy choàng tỉnh khỏi cơn buồn ngủ. Nhưng trông bộ chú ta hãy còn ngao ngán lắm.

Chú ngáp dài một tiếng rồi nói: “Sư phụ ơi, chúng ta nghỉ một lát đi. Con mệt quá!”. Sư phụ đặt quyển kinh lên bàn, nói: “Là người tu hành thì phải chịu khổ, tinh tấn thường hằng, tiểu tử ngốc à!”. Nhất Thiền chu chu cái mỏ, làm bộ đáng yêu: “Nhưng mà con buồn ngủ lắm sư phụ ơi! Tại sao lúc nào đọc sách cũng buồn ngủ hết vậy?”. Sư phụ vuốt râu, cười khà đáp: “Là do trong đầu con vốn không có nhập tâm đọc sách, lẫn nhiều tạp niệm, học cũng bằng không thôi! Vậy chúng ta hãy nghỉ một lát!”.

Đoạn sư phụ đứng dậy khỏi tấm bồ đoàn, đi vào nhà trong mang một khay trà ra. Trong khay có đủ cả chén tống, cây gạt trà, lọ trà, ấm tử sa và 2 chiếc chén con. Sư phụ ngồi xuống trước mặt Nhất Thiền, đổ trà vào ấm, chiêu thêm nước sôi. Đợi một lúc, cả ấm trà đã nóng ran lên và hương trà đã bắt đầu thoảng bay trong gió, sư phụ nhẹ nhàng rót một chén cho mình. Nhất Thiền nhìn theo nhịp tay uyển chuyển của sư phụ, không kìm được: “Sư phụ rót cho con một chén đi!”.


Sư phụ mỉm cười: “Trẻ con không uống thứ này được. Con hãy ngoan ngoãn mà ngồi đó đi”. Nhất Thiền tiu nghỉu: “Nhưng con nghe các sư huynh nói uống trà có thể hết buồn ngủ”. Sư phụ gật gù: “Ừ, cũng phải. Trà là tiên thảo. Người tu hành chúng ta cũng rất quý cái vị thanh tao của nó. Đây ta rót cho con một chén. Hôm nay sư phụ sẽ dạy con cách uống trà”.

Nhất Thiền khoái chí, tròn mắt nhìn sư phụ cầm chiếc ấm tử sa chiêu nước sang chén cho mình. Nhưng sư phụ cứ rót mãi, rót mãi, rót đến lúc chén trà đầy tràn cả ra ngoài rồi mà vẫn chưa ngừng tay. Nhất Thiền thấy vậy, không nhịn được bèn nói: “Sư phụ, chén trà tràn cả ra rồi”.

Sư phụ khi ấy mới ngừng tay, ngẩng mặt nhìn Nhất Thiền, ôn tồn giảng: “Tất nhiên là ta biết. Nhưng con nghĩ mà xem, đầu óc của con cũng như một chén trà cũ, muốn rót đầy trí huệ và chính niệm thì phải cho nước trà cũ trào hết ra ngoài”. Nhất Thiền gật gù gật gù, cầm chén trà lên nhấm nháp ra chiều khoái chí lắm. Sư phụ lại hỏi: “Nhất Thiền, không thấy đắng sao?”. Nhất Thiền lắc đầu, tròn mắt: “Không đắng, không đắng! Chẳng phải sư phụ vừa giảng là người tu hành thì phải chịu được khổ còn gì!”.

Vừa thưởng tuần trà, hai thầy trò vừa đưa mắt nhìn cảnh vật ngày càng thêm mĩ diệu dưới những tia nắng trong veo. Ngoài vườn thi thoảng có chú chim sẻ chuyền cành ríu rít. Đàn bướm từ đâu lại chấp chới bay ra. Nhất Thiền thích chí, ra vườn hoa nhảy nhót tung tăng. Bỗng chú kêu lên thất thanh: “Sư phụ! Sư phụ! Bươm bướm chết mất rồi!”.


Rồi chú lật đật chạy đến bên sư phụ, xòe bàn tay đang ấp một cánh bướm mỏng manh thoi thóp ra. Con bướm chừng như đã đi hết cuộc đời ngắn ngủi của mình. Sư phụ xoa đầu Nhất Thiền nói: “Tiểu tử à, đây chính là luân hồi sinh tử. Người ta sống thật lâu trong đời rồi cũng sẽ chết đi thôi”. Nhất Thiền bối rối: “Ôi, chúng ta rồi cũng chết phải không sư phụ?”.

Sư phụ khẽ gật đầu, đưa chén trà lên miệng nhấp một ngụm: “Đúng vậy, ai rồi cũng sẽ phải lìa xa cõi hồng trần này cả thôi. Sau khi sang bên kia thế giới, họ sẽ có cơ hội trở lại cõi trần một lần nữa. Nhưng đời này là người, đời sau không chừng có thể là bươm bướm”. Nhất Thiền gãi đầu: “Nếu như đều phải chết thì sao người ta còn phải sống để làm gì ạ?”.

Sư phụ đứng dậy, nhìn ra hậu viện, đoạn trầm ngâm: “Sống ấy à, có lẽ là để cho khi suối trong chảy qua không bỏ lỡ ngọt lành, khi hoa nở rộ vẫn có người bầu bạn, khi gió táp mưa sa vẫn có người chở che. Lúc con sống cũng là để trả nợ nghiệp khi chết đó thôi. Nếu không có cái chết thì sự sống nào có nghĩa gì. Mà nếu không có sự sống thì cái chết cũng chẳng làm người ta phải sợ hãi, tiếc nuối nhiều đến thế. Người sống trên đời, buồn đau quá nửa, chỉ có tinh tấn tu luyện, trả hết tội nghiệp, mai này mới có thể mong thoát khỏi lưới luân hồi, ra khỏi vòng nghiệp quả, đắc được vĩnh viễn hạnh phúc vô biên cõi cực lạc mà thôi”.


***

Đúng vậy, sống chết phải đâu là chuyện lớn? Luân hồi sinh tử nghìn vạn năm qua vẫn thế, người ta mấy ai tỉnh mộng từ kiếp sống luân hồi. Chuyện cũ sẽ quên, cuộc đời rồi lại như trang giấy mới. Ấy chính là:

Người cũ trăm năm chẳng thấy đâu
Nước trôi đã quá mấy nhịp cầu
Tin nhạn không về mong thăm thẳm
Lá thắm duyên chưa bén gót sầu

Kìa cái oanh vàng kêu liễu biếc
Thương ôi ngày tháng tựa bóng câu
Nhân sinh sâu mộng nào mong tỉnh
Chút chuyện trần ai luống bạc đầu

Theo: ĐKN

CÁC LỤC ĐỊA CHÌM ĐƯỢC TÌM THẤY CHO BIẾT LỤC ĐỊA HUYỀN THOẠI LEMURIA LÀ CÓ THẬT

Các nhà khoa học đã phát hiện ra ít nhất HAI lục địa chìm trên Trái Đất. Việc phát hiện ra những lục địa này đã thay đổi cách chúng ta nhìn nhận về lịch sử Trái Đất, cung cấp bằng chứng mới mà nhiều tác giả đã giải thích là tài liệu chỉ ra thực tế rằng các lục địa huyền thoại như Lemuria, Mu và Atlantis là có thật.


Các lục địa bí ẩn và bị con người lãng quên

Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với những truyền thuyết về Atlantis, Lemuria và Mu. Theo nhiều truyền thuyết và văn bản, Trái Đất là nơi có nhiều lục địa đã bị ‘thất lạc’ trong quá khứ xa xôi. Một trong số đó là lục địa Lemuria, một vùng đất rộng lớn được cho là trải dài từ Ấn Độ đến Úc—trước khi có lịch sử được viết ra.

Giống như Atlantis, vùng đất cổ đại này đã biến mất trong những hoàn cảnh bí ẩn và bị con người lãng quên từ hàng chục ngàn năm trước.

Vào thế kỷ 19, một nhà địa chất người Anh tên là Philip Sclater đã đề cập đến sự tồn tại của một khối đất liền chìm có tên là Lemuria.

Trong một bài viết có tên là ‘Động vật có vú ở Madagascar’ – được viết vào năm 1864, Sclater đã đề cập rằng hóa thạch vượn cáo cực kỳ phong phú ở Madagascar và Ấn Độ, nhưng kỳ lạ thay, những hóa thạch này lại không có ở Châu Phi và Trung Đông. Quan sát này khiến Sclater đề xuất rằng tại một thời điểm trong quá khứ xa xôi, Ấn Độ và Madagascar từng là một phần của một lục địa rộng lớn hơn được gọi là Lemuria.

Có rất nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng, bất chấp ý tưởng về trôi dạt lục địa, các lục địa chìm vẫn tồn tại trên Trái Đất.

Gần đây, các nhà khoa học đã có một khám phá đáng kinh ngạc ở phía đông Úc: Một lục địa có diện tích khoảng 5 TRIỆU km vuông và đã ẩn mình trong tầm nhìn trong NHIỀU THỜI GIAN. Chỉ một phần nhỏ của lục địa—khoảng 5 phần trăm—là có thể nhìn thấy ngày nay.

Các chuyên gia cho rằng ngày nay, chỉ có 5 phần trăm lục địa hùng vĩ một thời này là có thể nhìn thấy được, đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu đã bỏ lỡ nó trong quá khứ xa xôi. Khu vực này chủ yếu là vùng đất chìm ở Thái Bình Dương và bao gồm cả New Zealand và vùng lãnh thổ hải ngoại New Caledonia của Pháp.

“Lemuria” trong văn học thần bí dân tộc Tamil, nối liền Madagascar, Nam Ấn Độ và Úc (bao phủ hầu hết Ấn Độ Dương)

“Đây không phải là một khám phá đột ngột mà là một nhận thức dần dần; chỉ mới 10 năm trước, chúng tôi sẽ không có đủ dữ liệu tích lũy hoặc sự tự tin trong việc giải thích để viết bài báo này ”, các nhà nghiên cứu đã viết như vậy trên GSA Today, một tạp chí của Hiệp hội Địa chất Hoa Kỳ.

Nhưng có nhiều bằng chứng hơn cho thấy có sự tồn tại của các lục địa chìm trên Trái Đất. Nếu chúng ta quan sát khu vực giữa đất liền Ấn Độ và Sri Lanka, chúng ta sẽ thấy một cấu trúc địa chất kỳ lạ. Nằm ở eo biển Palk, Ấn Độ Dương, có một khu vực địa lý cụ thể, một dải đất mỏng nối liền miền Nam Ấn Độ với Sri Lanka. Nó được gọi là “Cầu Adam”.

Cầu Adam được cho là tàn tích của một cây cầu cổ đại trước thời kỳ lũ lụt. Có thể đây là cây cầu đầu tiên được xây dựng trên Trái Đất. Hơn nữa, người ta tin rằng hình ảnh vệ tinh do NASA cung cấp cho thấy những gì chúng ta thấy thực chất có thể là một cây cầu bị sập, hiện đã chìm một phần dưới đại dương.

Tiến sĩ Badrinarayanan, cựu giám đốc của Cục Khảo sát Địa chất Ấn Độ đã tiến hành khảo sát công trình này và kết luận rằng nó là do con người tạo ra. Tiến sĩ Badrinarayanan và nhóm của ông đã khoan 10 lỗ khoan dọc theo đường thẳng của Cầu Adam.

Những gì ông phát hiện ra thật đáng kinh ngạc. Khoảng 6 mét dưới bề mặt, ông tìm thấy một lớp đá sa thạch vôi, san hô và các vật liệu giống như tảng đá. Nhóm của ông đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra một lớp cát rời, sâu hơn khoảng 4-5 mét và sau đó là các khối đá cứng bên dưới.

Một nhóm thợ lặn đã xuống để kiểm tra thực tế cây cầu. Những tảng đá mà họ quan sát được không phải là thành phần của một đội hình biển điển hình. Chúng được xác định là đến từ cả hai bên của con đê. Tiến sĩ Badrinarayanan cũng chỉ ra rằng có bằng chứng về hoạt động khai thác đá cổ xưa ở những khu vực này. Nhóm của ông kết luận rằng vật liệu từ cả hai bờ đã được đặt trên đáy cát của nước để tạo thành con đê. 

Theo truyền thống Ấn Độ giáo, “dải đất” này là một cây cầu do thần Rama của Ấn Độ giáo xây dựng, như được kể trong sử thi Ramayana của Ấn Độ giáo. Trên thực tế, từ thời xa xưa, nó được gọi là “Cầu Rama” hoặc “Rama Setu”.

Cầu Adam nhìn từ không gian, ảnh: NASA

Sử thi Ramayana của Ấn Độ kể về câu chuyện về cây cầu đất liền và cách nó được xây dựng để phục vụ thần Rama của Ấn Độ giáo, nhằm giúp ngài vượt qua mặt nước để đến hòn đảo lớn và giải cứu người mình yêu khỏi nanh vuốt của quỷ vương Ravana.

Đây là câu chuyện về tình yêu, những hành động dũng cảm và những công trình đáng kinh ngạc như vẻ bề ngoài của nó. Rama là một trong những biểu hiện nổi tiếng nhất của Chúa tối cao và được công nhận là hình ảnh, tinh thần và ý thức của Ấn Độ giáo, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới.

Những câu chuyện nhiều lần được diễn giải là sự thật về cuộc đời của Rama được kể lại trong Ramayana, một sử thi tiếng Phạn cổ, được dịch theo nghĩa đen là “Hành trình của Rama”, kể về thời kỳ các vị thần trên tàu (Vimana) và những người khổng lồ đi trên trái đất. Bằng chứng về Vimana và những người khổng lồ đã được tìm thấy trên khắp thế giới, ở nhiều quốc gia khác nhau.

Bằng chứng về các lục địa đã mất và nền văn minh cổ đại?

Theo các nhà nghiên cứu, lục địa Lemuria tách khỏi đất liền vào thời điểm nào đó trong kỷ Mesozoi do mực nước dâng cao. Thật kỳ lạ, theo Viện Hải dương học Quốc gia Ấn Độ, mực nước biển thấp hơn khoảng 100 mét vào khoảng 15.000 năm trước.

Điều này dẫn đến một trận lụt lớn cuối cùng đã dẫn đến sự biến mất không chỉ của toàn bộ một lục địa mà còn của toàn bộ nền văn minh từng tồn tại trên Trái Đất trong quá khứ xa xôi. Theo Tamilnet, lục địa Lemuria được gọi là “Kumari Kandam” trong văn học Tamil cổ đại.

Tiếng Tamil là một trong những ngôn ngữ cổ điển trên thế giới. Tiếng Tamil có lịch sử liên tục trong hơn 2000 năm và tiếng Tamil được công nhận là ngôn ngữ cổ điển ở Ấn Độ (bên cạnh tiếng Phạn).

Tiếng Tamil không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.

Giáo sư Shanmugathas cho biết: “Người ta có thể tưởng tượng được sức mạnh và quy mô của cơn sóng thần cần thiết để nhấn chìm một vùng núi từng tồn tại ở vành đai ven biển cổ đại của thế giới Tamil” .

Lục địa cổ Kumari Kandam được cho là đã tồn tại ở phía nam Ấn Độ ngày nay, hiện nằm bên dưới Ấn Độ Dương. Người Tamil được cho là đã lan rộng khắp thế giới, tạo ra các nền văn minh khác sau khi Kumari Kandam biến mất. Có một số tên gọi mà các lục địa này có, tùy thuộc vào cách viết, có thể thay đổi từ Kumari Kandam, Kumarikkantam và Kumari Nadu. Từ ‘Kumari Kandam’ lần đầu tiên được đề cập trong phiên bản Skanda Purana vào thế kỷ 15 – Mahāpurāṇa lớn nhất, một thể loại gồm mười tám văn bản tôn giáo Hindu – và được viết bởi Kachiappa Sivacharyara (1350-1420).

Điều thú vị là nhiều tác giả chỉ ra rằng người Tamil thuộc về nền văn minh lâu đời nhất trên bề mặt hành tinh và khi lục địa Kumari Kandam bị chìm vào biển, người dân ở đây đã di cư đến các nơi khác trên hành tinh và thành lập nên nhiều nền văn minh khác nhau.

4 lục địa biến mất khỏi trái đất. Ảnh giaoducthoidai

Các lục địa đã mất: trước đây là huyền thoại giờ đã trở thành hiện thực

Một lục địa cổ đại từng nằm giữa Ấn Độ và Madagascar gần đây đã được tìm thấy nằm rải rác dưới đáy Ấn Độ Dương. Theo các chuyên gia, ba tỷ năm trước, một lục địa đã bao phủ đại dương nơi đảo Mauritius của Đông Phi hiện nằm.

Các chuyên gia đã đi đến kết luận này sau khi phân tích những mảnh khoáng chất nhỏ có niên đại 3.000 TRIỆU năm. Trong một số tảng đá của đảo Mauritius, quê hương của nước cộng hòa cùng tên, bạn có thể tìm thấy những mảnh khoáng chất nhỏ có niên đại khoảng 3.000 triệu năm. Điều này hẳn không quan trọng nếu không phải vì hòn đảo trẻ, có nguồn gốc từ núi lửa, chỉ mới khoảng bảy đến mười triệu năm tuổi? Vậy những mảnh đá đó đến từ đâu và làm sao chúng có thể già đến vậy?

Theo các chuyên gia, nguồn gốc của chúng nằm ở một “lục địa đã mất” nằm dưới hòn đảo, như các nhà nghiên cứu từ Đại học Witwatersrand (Nam Phi) giải thích trong một tuyên bố.

Bạn nghĩ sao? Có thể là hàng chục ngàn năm trước—thậm chí có thể là xa hơn nữa trong lịch sử, các nền văn minh cổ đại đã tồn tại trên các lục địa như Atlantis, Mu và Lemuria không?

Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng trong quá khứ xa xôi, khối đất liền của Trái Đất rất khác so với ngày nay, đây là một trong những lý do chính khiến nhiều tác giả và nhà nghiên cứu cho rằng không có gì vô lý khi nghĩ rằng các nền văn minh cổ đại như Atlantis từng tồn tại ở đâu đó trên Trái Đất.

Mỹ Mỹ / Theo: ancient-code
Link tham khảo:




Saturday, November 22, 2025

TRANH CỦA ĐƯỜNG BÁ HỔ ĐƯỢC BÁN VỚI GIÁ CAO NGẤT; CHUYÊN GIA: PHÓNG TO LÊN THÌ KHÔNG PHẢI LÀ TRANH

Những bức tranh gốc của Đường Bá Hổ được bán đấu giá với giá cao ngất ngưởng. Khi phóng đại bức tranh lên rồi quan sát các chuyên gia phải thốt lên rằng: đây cơ bản không phải là tranh vẽ…

Nguồn ảnh: soundofhope

‘Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương’ là một bộ phim nổi tiếng, hẳn rất nhiều người đã từng xem qua. Bộ phim này thể hiện tinh tế một Đường Bá Hổ với hình tượng tài tử phong lưu, đa số người xem đều chú ý đến tính cách phong lưu mà không chú trọng đến tài hoa của ông. Kỳ thực Đường Bá Hổ là một nhà thư pháp, thi nhân, họa sĩ nổi tiếng thời nhà Minh.

Phong cách hội họa của Đường Bá Hổ rất độc đáo, ông kết hợp giữa hai trường phái hội họa phía Bắc và phía Nam, với nét vẽ tỉ mỉ, bố cục phóng khoáng, phong cách tao nhã, màu sắc tươi tắn, giỏi vẽ phong cảnh, vẽ chim bằng mực, vẽ nhân vật. Ông rất có thiên phú trong lĩnh vực hội họa và đạt được không ít thành tựu.

Tranh vẽ Đường Bá Hổ. (Ảnh: Sound Of Hope)

Tuy nhiên, nửa đời sau của Đường Bá Hổ sống rất nghèo khó, vất vả, dựa vào bán tranh vẽ để kiếm sống, hết sức gian khổ.

Khi Đường Bá Hổ còn sống, không một ai đánh giá cao những bức tranh của ông, nhưng sau khi ông mất, những bức tranh của ông đã được bán với giá cao ngất trời. Cuối những năm 1980, bức tranh ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’ của ông đã được bán đấu giá ở Hoa Kỳ với giá 660.000 USD, so với thời điểm đó thì giá này vô cùng đắt đỏ.

Có chuyên gia đã từng phóng to bức ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’, sau khi nhìn vào đã kinh ngạc thốt lên rằng: Đây căn bản không phải là tranh! Vẽ thật sự quá giống như thật. Cành lá trong tranh rất rõ ràng, đường vân của lá và thân cây vô cùng chi tiết. Nhìn bức tranh từ xa người ta cảm nhận được ý vị tuyệt vời, nhìn gần sẽ cho người ta cảm giác rung động sâu sắc.

Một phần của bức tranh ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’, (Ảnh: Sound Of Hope)

Hiện tại những bức thư pháp và tranh của Đường Bá Hổ còn quý hơn nữa. Bức ‘Tùng nhai biệt nghiệp đồ quyển’ của ông đã được bán với giá 71,3 triệu nhân dân tệ vào năm 2013. Những ai có thể sở hữu các tác phẩm gốc của Đường Bá Hổ thì đều rất trân quý.

Ai đã từng xem bộ phim ‘Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương’ thì đều biết rằng Đường Bá Hổ trong phim có rất nhiều thê thiếp, cuộc sống vô cùng giàu có khiến nhiều người ngưỡng mộ. Nhưng thực tế cuộc sống của Đường Bá Hổ hoàn toàn ngược lại.

Cha của Đường Bá Hổ là một thương nhân, thời nhà Minh, địa vị của thương nhân không cao, nhưng cuộc sống của gia đình họ cũng không nghèo khổ. Cho đến khi cha ông mất, gia đình bắt đầu sa sút, không lâu sau mẹ và chị gái của ông cũng lần lượt qua đời. Đường Bá Hổ không hề có nhiều thê thiếp, cũng chưa từng theo đuổi Thu Hương, nửa đời sau của ông vô cùng túng thiếu, khổ cực.

Một phần của bức tranh Tùng nhai biệt nghiệp đồ quyển’. (Ảnh: Sound Of Hope)

Chỉ bất quá nửa đời trước ông có cuộc sống như ý, khi cưới được vợ vừa trẻ vừa đẹp, thi đậu Trạng nguyên, sau đó ông bị người ta hãm hại làm lỡ mất con đường làm quan. Sau khi bị vợ bỏ, Đường Bá Hổ bắt đầu mất hy vọng vào cuộc sống, đắm chìm trong tửu sắc, thậm chí trước khi chết cũng không có tiền để mai táng bản thân mình.

Cuộc đời của ông không khỏi khiến người khác phải xúc động, những bức “tranh nhưng không phải tranh” của Đường Bá Hổ chính là những miêu tả chân thực trong cuộc đời của ông, là thái độ bất bình đối với sự nghiệp lận đận của mình, thổ lộ cảm xúc có tài nhưng không gặp thời, cũng là nửa đời lao tao cùng khổ nạn.

Nghệ thuật thực sự cần phải rèn luyện cả đời, muốn đạt được trình độ đó thì phải trải qua những khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Chính vì vậy ông mới có thể vẽ ra những tác phẩm sâu sắc và tạo ra sự khác biệt. Tài năng của Đường Bá Hổ thực sự đáng khâm phục, những thành tựu nghệ thuật của ông là không thể thay thế và rất khó vượt qua.

Đăng Dũng biên tập
Nguồn: tinhhoa

THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ - VƯƠNG DUY


Thù Trương thiếu phủ

Vãn niên duy hiếu tĩnh,
Vạn sự bất quan tâm.
Tự cố vô trường sách,
Không tri phản cựu lâm.
Tùng phong xuy giải đới,
Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
Quân vấn cùng thông lý,
Ngư ca nhập phố thâm.


酬張少府

晚年惟好靜
萬事不關心
自顧無長策
空知返舊林
松風吹解帶
山月照彈琴
君問窮通理
漁歌入浦深


Mời rượu huyện úy họ Trương
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Tuổi già ưa những an nhàn.
Thế gian trăm sự, chẳng màng quan tâm.
Ưa gì mưu chước uyên thâm.
Rừng xưa trở lại, tùng lâm vui cùng.
Gió bay giải mũ lạnh lùng.
Trăng soi đầu núi, vui chung tiếng đàn.
Thông cùng đạo lý nhân gian.
Tiếng ca ngư phủ mênh mang bến bờ.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng.

Nguồn: Thi Viện