Thursday, December 4, 2025

GIA TỘC THỊNH VƯỢNG SUỐT 130 NĂM, 4 THẾ HỆ KHUYNH ĐẢO KINH TẾ TRUNG QUỐC

Suốt hơn một thế kỷ, dòng họ Vinh vẫn giữ vị thế hiếm có trong giới tài phiệt Trung Quốc. Đây là một gia tộc đã đồng hành cùng biến động lịch sử đất nước, từ triều Minh đến thời kỳ cải cách mở cửa, và vẫn chưa từng đánh mất sự thịnh vượng.

Vinh Tông Kính (trái) và Vinh Đức Sinh (phải), hai anh em được coi là người sáng lập nên cơ đồ gia tộc họ Vinh trong lịch sử cận đại Trung Quốc. Ảnh: Rongfamily

Từ làng quê Giang Tô đến nghiệp tài chính ở Thượng Hải

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1435 – năm đầu tiên dưới triều Minh Anh Tông. Khi ấy, một nhóm nông dân rời Kim Lăng (nay là Nam Kinh) đến lập nghiệp tại làng Vinh Hạng ở vùng ngoại ô Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Họ trở thành tổ tiên của một trong những dòng họ thương nghiệp thành công và có ảnh hưởng nhất Trung Quốc - gia tộc họ Vinh.

Được biết nhà họ Vinh từng có người giữ chức vụ cao trong triều đình nhưng đến cuối triều Thanh, biến động lịch sử quét qua vùng Giang Tô khi cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc lan tới. Cả gia tộc gần như bị diệt sạch, chỉ còn cậu bé 11 tuổi Vinh Hi Thái (1849 – 1896) sống sót nhờ đang học nghề cơ khí ở Thượng Hải. Chính cậu bé ấy sau này đã đặt nền móng cho đế chế kinh doanh họ Vinh.

Từ người học việc, Hi Thái vừa làm vừa tích góp. Đến năm 35 tuổi, ông được tiến cử làm kế toán tại cục thuế Tam Thủy (Phật Sơn, Quảng Đông).

Vinh Hy Thái (phải) cùng 2 người con là Vinh Tông Kính (trên) và Vinh Đức Sinh (dưới). Ảnh: The Paper

Nhờ thông minh và tính trung thực, ông nhanh chóng được giao trọng trách quản lý nhiều mảng công việc quan trọng của cục. Tiếp xúc với thương nhân phương Tây giúp ông nhận ra vai trò sống còn của dòng vốn trong phát triển kinh tế.

Vinh Hi Thái cho 2 con trai là Vinh Tông Kính (1873 – 1938) và Vinh Đức Sinh (1875 – 1952) theo học trường tư thục từ nhỏ, rồi gửi họ đến Thượng Hải học nghề ngân hàng khi mới 15 tuổi. Hai anh em sớm thành thạo nghiệp vụ kế toán, quản lý tiền gửi, và nắm rõ hoạt động tín dụng – những kỹ năng sẽ giúp họ tạo dựng đế chế tài chính sau này.

Năm 1891, Tông Kính vào làm chân chạy việc tại ngân hàng tư nhân Sâm Thái Dung, học hỏi cách phân bổ vốn, vận hành tài chính và theo dõi biến động hàng hóa. Còn Đức Sinh, hai năm sau đó, theo cha về cục thuế Tam Thủy làm kế toán.

Khi Hi Thái lâm bệnh nặng năm 1895, ông quyết định nghỉ việc, cùng gia đình trở lại Thượng Hải và mở ngân hàng Quảng Sinh gần bến Hồng Thăng. Không lâu sau, ông qua đời ở tuổi 48, để lại sự nghiệp non trẻ cho các con tiếp quản.

Từ bột mì đến sợi bông: Đế chế hình thành

Bước ngoặt đến vào mùa hè năm 1900. Khi về Thượng Hải nghỉ phép, Vinh Đức Sinh chờ thuyền ở bến Hồng Kông và bắt gặp cảnh hàng trăm công nhân bốc dỡ bột mì, bột rơi vãi trắng cả bến cảng. Ông nhận thấy Trung Quốc – đất nước nông nghiệp – lại phụ thuộc hoàn toàn vào bột mì nhập khẩu.

Câu hỏi ấy đã thôi thúc ông và anh trai hùn vốn cùng một người bạn của bố để mở nhà máy bột mì Bảo Hưng tại Vô Tích năm 1902, sau đổi tên thành Mậu Tân. Đức Sinh điều hành sản xuất, còn Tông Kính phụ trách ngân hàng và phân phối tại Thượng Hải.

Nhà máy dệt của gia tộc họ Vinh vào những năm đầu thế kỷ 20. Ảnh: The Paper

Khi chiến tranh Nga – Nhật nổ ra năm 1904, nhu cầu bột mì tăng vọt tại vùng Đông Bắc Trung Quốc. Hai anh em nắm bắt thời cơ, đầu tư máy xay thép nhập từ Anh và mở rộng sản xuất. Từ 300 bao mỗi ngày, sản lượng nhanh chóng tăng gần gấp ba.

Khi giá bao đựng bột leo thang, họ lập tức thành lập thêm nhà máy sợi Chấn Tân năm 1905 để tự chủ nguồn cung, khởi đầu cho chuỗi sản xuất khép kín “từ sợi tới bột”.

Chiến lược táo bạo “không chia cổ tức trong 3 năm” giúp họ tích lũy vốn nhanh chóng, tái đầu tư và mở rộng liên tục. Nhờ đó, từ 40.000 NDT ban đầu, vốn của họ đã tăng lên 3 triệu NDT vào năm 1923. Cách vận hành này giúp nhà Vinh vững vàng qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế thập niên 1930.

Trong thời kỳ đỉnh cao, tập đoàn Vinh thị sở hữu tới 21 doanh nghiệp – trong đó có 4 nhà máy Mậu Tân, 8 nhà máy Phúc Tân và 9 nhà máy dệt Thân Tân tại Thượng Hải, Vô Tích, Hán Khẩu, Tế Nam.

Năm 1922, họ chiếm hơn 30% sản lượng bột mì quốc doanh cả nước; đến năm 1931, nhà họ Vinh tiếp tục thống lĩnh ngành dệt may, nắm 20% tổng sản lượng cọc sợi bông Trung Quốc và 28% lượng vải cotton khi đó.

“Một nửa người Trung Quốc mặc vải do chúng tôi dệt, ăn bột do chúng tôi xay”, Vinh Tông Kính tự hào nói trong lễ mừng thọ năm 1933. Cái tên “Tam Tân” – viết tắt của ba thương hiệu Mậu Tân, Phúc Tân, Thân Tân – trở thành biểu tượng cho thời kỳ vàng son của doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc.

Sau năm 1937, chiến tranh Trung – Nhật buộc gia tộc phải phân tán. Vinh Tông Kính di cư sang Hồng Kông rồi qua đời tại đây, còn Vinh Đức Sinh ở lại Trung Quốc tiếp tục gây dựng sự nghiệp và thành lập nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực mới.

Bên cạnh đó, ông còn giữ nhiều chức vụ trong chính quyền mới sau năm 1949, tham gia Ủy ban Chính hiệp Toàn quốc khóa I và là phó chủ nhiệm cơ quan hành chính Giang Tô. Vinh Đức Sinh cũng là người xây dựng Mai Viên – khu danh thắng nổi tiếng ở Vô Tích – cùng nhiều trường học, thư viện, viện nghiên cứu và hơn 100 cây cầu, thể hiện tinh thần hướng về cộng đồng của gia tộc.

Lần lượt từ trái sang phải: Vinh Tông Kính, Vinh Đức Sinh, Vinh Nghị Nhân, Vinh Trí Kiện. Ảnh: The Paper

Truyền nhân tiếp nối

Đức Sinh có 4 người con, trong đó cậu con trai thứ 4 Vinh Nghị Nhân (1916 – 2005) là người kế nghiệp trực tiếp. Năm 1957, ông được Chủ tịch Mao Trạch Đông đề cử vai trò phó thị trưởng Thượng Hải, rồi Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Dệt may năm 1959.

Sau thời kỳ cải cách mở cửa, ông đảm nhận vị trí phó Chủ tịch nước và góp phần sáng lập Tập đoàn Đầu tư Trung Tín Trung Quốc (CITIC) năm 1979 – tập đoàn đầu tư quốc doanh lớn nhất của Trung Quốc, hoạt động mạnh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và công nghiệp nặng.

Đến thế hệ thứ 3, Vinh Trí Kiện (sinh năm 1942), con trai Vinh Nghị Nhân, tiếp nối truyền thống kinh doanh. Là Chủ tịch CITIC chi nhánh Hồng Kông, ông gây tiếng vang khi mạnh tay mua lại 20% cổ phần của Hồng Kông Telecom Limited vào năm 1989 giữa lúc thị trường chứng khoán sụp đổ. Thương vụ này được tạp chí World Finance của Anh gọi là “giao dịch xuất sắc nhất thế giới năm 1990”.

Ông từng đứng đầu danh sách người giàu nhất Trung Quốc năm 2002 với tài sản 7 tỷ NDT, theo bảng xếp hạng Hồ Nhuận.

Vinh Nghị Nhân (hàng đầu, bên phải) cùng gia đình. Ảnh: The Paper

Trong khi đó, Vinh Trí Hâm – con út của Vinh Vĩ Nhân (con cả của Vinh Đức Sinh) – lại chọn con đường riêng. Sau khi tốt nghiệp MIT ngành kỹ sư điện, ông sáng lập công ty phân phối thuốc lá Midland, rồi chuyển hướng sang công nghệ, thành lập công ty Vinh Văn.

Sau đó, vào năm 1985, ông thành lập hãng điện tử Elcap cùng em trai Vinh Trí Kiệm và người anh em họ Vinh Trí Kiện. Bốn năm sau, Elcap được một tập đoàn Mỹ mua lại, mang về cho họ khoản lợi nhuận khổng lồ.

Tiếp tục mở rộng di sản

Sang đến thế hệ thứ 4, dòng họ Vinh vẫn giữ vị thế trong giới kinh tế Trung Quốc. Vinh Minh Kiệt (sinh năm 1969), con trai của Vinh Trí Kiện, gia nhập CITIC Pacific Hồng Kông năm 1993 rồi trở thành CEO vào năm 2000. Ông từ chức ở CITIC năm 2014 và kín tiếng từ đó tới nay.

Vinh Trí Kiện

Còn em trai ông – Vinh Minh Đệ (sinh năm 1983) – hiện điều hành Tập đoàn Long Nguyên Hồng Kông, kiêm Chủ tịch hiệp hội thương mại Vô Tích tại Hồng Kông.

Trong khi đó, con gái duy nhất của Vinh Trí Kiện là Vinh Minh Phương, tốt nghiệp Harvard và giữ nhiều vị trí quản lý trong tập đoàn CITIC.

Vinh Minh Phương

Ở Hồng Kông, Vinh Văn Úy – con gái Vinh Trí Hâm – trở thành gương mặt quen thuộc trong giới doanh nhân và thời trang, điều hành thương hiệu riêng và hoạt động tích cực trong các sự kiện xã hội.

Từ xưởng xay bột nhỏ ở Vô Tích cách đây hơn 130 năm đến khi trở thành biểu tượng của tầng lớp doanh nhân hiện đại, gia tộc họ Vinh đã nối dài cơ nghiệp qua 4 thế hệ, phá vỡ “lời nguyền không ai giàu ba đời”.

Thiên Kim / Theo: Thị Trường Tài Chính

"MỘT CHIẾC LÁ RỤNG BIẾT THU VỀ", LÁ RỤNG LÀ LÁ GÌ?

Để báo hiệu mùa thu đã đến, có một câu nói gọi là ‘nhất diệp tri thu’ nghĩa là chỉ cần một chiếc lá rụng cũng có thể cảm nhận được mùa thu đã đến. Câu này được dùng để so sánh với xu hướng phát triển của sự việc, cho thấy rằng chỉ qua những dấu hiệu nhỏ cũng có thể khiến người ta nhận ra. Vậy ‘diệp’ trong ‘nhất diệp tri thu’ thực sự là lá của cây gì?

Để báo hiệu mùa thu đã đến, có một câu nói gọi là ‘nhất diệp tri thu’ nghĩa là chỉ cần một chiếc lá rụng cũng có thể cảm nhận được mùa thu đã đến. (Ảnh minh họa: Shutterstock)

‘Diệp’ trong câu ‘nhất diệp tri thu’ chỉ đến lá của cây nào? Bởi vì những thành ngữ như vậy thường mang tính tổng quát, không chỉ định một sự vật cụ thể nào. Vậy lá trong ‘Một chiếc lá rụng biết thu về’ có thể là lá của cây dương, cây liễu, thậm chí là cây hạt dẻ, vì vậy, bất kỳ cây rụng lá nào cũng có thể mang lại cảm giác ‘biết thu về’.

‘Một chiếc lá rụng biết thu về’ là lá ngô đồng

Nguồn gốc của điển tích ‘nhất diệp tri thu’ được ghi chép trong cuốn Mộng Lương Lục thời Tống, trong đó có đoạn: “Vào ngày Lập Thu, quan Thái sử được giao nhiệm vụ trồng cây Ngô đồng dưới điện, để chờ đến khi đến giờ Lập Thu, quan Thái sử sẽ đứng dưới cây ngô đồng hô lên ‘Mùa thu đã đến’, và đúng lúc đó, lá ngô đồng sẽ rơi xuống một hai chiếc, để báo hiệu mùa thu”. Đoạn ghi chép này nói về việc các quan viên phụ trách thiên văn và khí tượng trong triều đình nhà Tống, vào thời điểm Lập Thu, sẽ đứng dưới cây Ngô đồng trong cung điện để thông báo với hoàng đế, và lá cây ngô đồng rơi đúng lúc như một nghi lễ chính thức báo hiệu mùa thu.


Vậy tại sao trong việc báo hiệu mùa thu lại không dùng cây liễu hay cây dương, mà lại chọn cây ngô đồng? Điều này là vì người xưa có một sự tôn kính đặc biệt đối với cây ngô đồng, từ lâu đã có câu nói ‘phượng hoàng phi ngô đồng bất tê’ có nghĩa là không phải cây ngô đồng chim Phượng hoàng sẽ không đậu. Cây ngô đồng trong mắt người xưa được coi là cây Thần, vì vậy việc lá ngô đồng báo thu sang được xem là điềm lành. Mang ngô đồng sánh với phượng hoàng, có thể thấy người xưa coi trọng nó thế nào! Trong tích Bá Nha-Tử Kỳ có nói, Bá Nha hỏi Tử Kỳ về xuất xứ của cây dao cầm, Tử Kỳ đáp: “Vua Phục Hy thấy 5 ngôi sao rơi xuống cây ngô đồng, rồi có chim phượng hoàng tới đậu, biết là cây quý, nên lấy gỗ làm thành loại nhạc cụ, bắt chước nhạc khí cung Dao Trì, gọi là dao cầm. Thân cây được chặt làm 3 đoạn, đoạn ngọn tiếng trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa là dùng được, đem ngâm giữa dòng nước chảy 72 ngày rồi phơi trong bóng mát đến khô mới có thể làm được…”

Ngay cả Tư Mã Quang cũng đã viết trong thơ rằng: ‘sơ văn nhất diệp lạc, tri thị cửu thu lai’ có nghĩa là vừa nghe một chiếc lá rụng, biết là thu đã đến rồi. Hay có câu ‘ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu’ có nghĩa là một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu về.

Thực ra, từ thời Chiến Quốc, người xưa đã dùng cây Ngô đồng để đại diện cho mùa thu. Ví dụ, tổ phụ của nỗi buồn thu, Tống Ngọc, trong tác phẩm nổi tiếng của ông Cửu Biện đã viết: “Hoàng thiên phân chia bốn mùa, ta chỉ riêng buồn cho mùa thu tàn, sương trắng đã rơi trên cỏ mùa thu, lá Ngô đồng bắt đầu rụng xuống”.

Sau Tống Ngọc, các thi sĩ qua các thời kỳ cũng đã dùng cây Ngô đồng để biểu thị màu sắc mùa thu. Chẳng hạn, Lý Bạch có câu: “Nhân yên hàn quất tụ, Thu sắc lão ngô đồng” (Khói nhà ai làm lạnh quất và bưởi, Màu thu làm già cây ngô đồng). Vì vậy, cây ngô đồng không chỉ mang ý nghĩa tốt đẹp, mà còn như là biểu tượng cho vẻ đẹp mùa thu trong văn học. Hơn nữa, với việc được sử dụng trong nghi thức báo thu của triều đình, như vậy ‘diệp’ được nhắc đến trong ‘nhất diệp tri thu’ chỉ có thể là lá của cây ngô đồng.


Thời gian trôi qua nhanh chóng

Từ ‘nhẫm nhiễm’ trong câu ‘quang âm nhẫm nhiễm‘ (Thời gian trôi qua nhanh chóng) thực ra đại diện cho điều gì? Câu nói ‘Thời gian trôi qua nhanh chóng’ xuất phát từ một bài văn của Lý Thương Ẩn thời Đường, trong đó có câu: Thời gian trôi qua nhanh chóng, việc tiếp quản cũng thường xuyên xảy ra.

‘Nhẫm nhiễm’ dùng để miêu tả sự tươi tốt của cỏ cây, còn ‘nhẫm’ chỉ một loại cây gọi là ‘bạch tô’ (白苏), đây là một loại thuốc, tương tự như cây tía tô thường thấy, có một mùi hương đặc biệt và là loại cây sống và sinh trưởng trong 1 năm. Bạch tô (白苏) nảy mầm vào mùa xuân, ra hoa vào mùa hè, kết hạt vào mùa thu, và tàn lụi vào mùa đông. Do đó, người xưa đã dùng nó để miêu tả sự trôi qua có quy luật của thời gian, vì vậy mới có câu ‘quang âm nhẫm nhiễm’.

Lý Ngọc
Theo: trithucvn

VŨ LÂM LINH (雨霖鈴) - LIỄU VĨNH (柳永)


Vũ lâm linh

Hàn thiền thê thiết,
Đối trường đình vãn,
Sậu vũ sơ yết.
Đô môn trướng ẩm vô tự.
Lưu luyến xứ,
Lan chu thôi phát.
Chấp thủ tương khan lệ nhãn,
Cánh vô ngữ ngưng ế.
Niệm khứ khứ.
Thiên lý yên ba,
Mộ ái trầm trầm Sở thiên khoát.

Đa tình tự cổ thương ly biệt,
Cánh na kham,
Lãnh lạc thanh thu tiết!
Kim tiêu tửu tỉnh hà xứ?
Dương liễu ngạn,
Hiểu phong tàn nguyệt.
Thử khứ kinh niên,
Ưng thị lương thần,
Hảo cảnh hư thiết.
Tiện túng hữu thiên chủng phong tình,
Cánh dữ hà nhân thuyết?

Vũ lâm linh là tên nhạc khúc, còn viết là 雨淋鈴. Trương Dã Hồ 張野狐 giỏi thổi kèn, giốc, thiện đàn không hầu, làm trưởng Tham quân hý (lo việc mua vui trong quân đội). Trong loạn An Lộc Sơn, Dã Hồ theo Đường Minh Hoàng nhập Thục rồi lại cùng vua trở về kinh. Đường Minh Hoàng trên đường đi, nghe tiếng mưa trong rừng ngân như tiếng chuông bỗng nhớ Dương Quý Phi, sai Dã Hồ làm hai khúc Vũ lâm linh và Hoàn ai nhạc 還哀樂.


雨霖鈴 - 柳永

寒蟬淒切,
對長亭晚,
驟雨初歇。
都門帳飲無緒。
留戀處、
蘭舟催發。
執手相看淚眼,
竟無語凝噎。
念去去。
千里煙波,
暮靄沉沉楚天闊。

多情自古傷離別,
更那堪、
冷落清秋節!
今宵酒醒何處?
楊柳岸、
曉風殘月。
此去經年,
應是良辰。
好景虛設。
便縱有千種風情,
更與何人說?


Vũ Lâm Linh
(Dịch thơ: mailang)

Buồn sao lạnh tiếng ve than,
Trường Đình lấp loáng chiều tàn dần trôi.
Cơn mưa chợt dứt hạt rồi,
Đô thành rượu tiễn, không vơi giọt sầu.
Luyến lưu chẳng nỡ rời nhau,
Mà thuyền lan đã giục mau xa bờ.
Nghẹn nào biết nói chi giờ,
Dùng dằng tay nắm, đẫm mờ khoé mi.
Dặm ngàn khói sóng xa đi,
Mênh mông trời Sở, chiều khi đượm buồn.
Đa tình khóc biệt đã thường,
Còn thêm não cảnh thu sương lạnh tràn.
Tỉnh say nơi chốn mơ màng,
Bên bờ dương liễu, trăng tàn gió mai.
Lần đi cách biệt năm dài,
Ngày lành cảnh đẹp, bỏ hoài từ đây.
Phong lưu dẫu lắm vẻ hay,
Cũng không tỏ được lòng này cùng ai!


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Liễu Vĩnh 柳永 (khoảng 987 - khoảng 1053) tự Kỳ Khanh 耆卿, người huyện Kỳ An, tỉnh Phúc Kiến. Năng cải trai man lục nói: “Từ tự Nam Đường trở xuống, chỉ có tiểu lệnh. Mạn từ tới thời vua Tống Nhân Tông (1023-1062) trung nguyên thanh bình, Biện kinh phồn thịnh, ca đài vũ tạ, đua thưởng tân thanh. Kỳ Khanh lưu liên phường khúc, thu hết lời nói quê mùa, biên vào trong từ, cho người truyền lưu ca xướng, rồi sau có Thiếu Du và Sơn Cốc kế tiếp, nên man từ trở thành đại thịnh”. Hiện Liễu Vĩnh còn Nhạc chương tập 樂章集 3 quyển.

Nguồn: Thi Viện



PAELLA - CƠM THẬP CẨM NGON NỨC TIẾNG CỦA TÂY BAN NHA

Tối nay xem lại trên Youtube chương trình "Ai là Triệu phú" phát sóng ngày 02/12/2025, có câu hỏi thứ 8 mà người chơi cần 2 quyền trợ giúp mới giải được. Câu hỏi như thế này: "Paella là món cơm truyền thống của quốc gia nào?" và câu trả lời đúng là của Tây Ban Nha,


Nói đến cơm ai cũng nghĩ đó là thức ăn hàng ngày của hầu hết các nước thuộc châu Á. Người châu Âu thường dùng bột mì, khoai tây là thực phẩm chính nhưng không dè các nước này lại có những món cơm nổi tiếng cho nên một nhà thông thái của chương trình đã đề nghị người chơi nếu thắng một số tiền thì nên tìm ăn thử món ăn này đã có bán nhiều ở Hà Nội.

Tôi lên mạng tìm được một bài viết về món ăn này nè. (LKH)

PAELLA - CƠM THẬP CẨM NGON NỨC TIẾNG CỦA TÂY BAN NHA

Món cơm chiên đầy sắc màu của xứ sở bò tót là thứ không du khách nào muốn bỏ lỡ, bên cạnh đùi lợn muối và cocktail Sangria.


Paella trong tiếng của vùng Catalan nghĩa là "cái chảo". Trên thực tế, đây là món cơm chiên thập cẩm với các loại rau quả, thịt hoặc hải sản. Phần lớn du khách quốc tế nhắc đến ẩm thực Tây Ban Nha đều nghĩ ngay đến món cơm Paella. Còn đối với người dân địa phương, nhắc đến món ăn này, họ sẽ nghĩ ngay tới Valencia. Vùng đất nằm bên bờ biển phía đông của đất nước được coi là "cội nguồn" của món ăn nức tiếng thế giới này. Ảnh: Tienda


Hệ thống thủy lợi do người La Mã phát triển liên tục được cải thiện trong nhiều thế kỷ ở xứ sở bò tót, dẫn đến việc gạo trở thành lương thực chính trong chế độ ăn uống của người dân vùng này vào thế kỷ 15. Những bữa ăn khi đó được nấu ngoài trời, quanh hồ Albufera (ảnh) ở Valencia. Ảnh: Tourist Journey


Ban đầu, những người nông dân nấu món cơm của mình cùng mọi thứ họ có trong tay, như rau, thịt... Khi sở thích ăn uống của người dân phát triển hơn, người Valencia bắt đầu thêm các loại thịt khác nhau vào món cơm như thỏ, gà hoặc vịt cùng đậu bơ, ớt bột và nghệ tây. Công thức chủ yếu làm từ thịt này được coi là món paella chính gốc của người Valencia. Ảnh: La bible de la paella


Tuy nhiên sau đó không lâu, một biến thể khác của nó bất ngờ nổi lên như một ngôi sao sáng và nhanh chóng được phổ biến rộng rãi - đó là món paella ăn cùng hải sản. Theo truyền thống, món cơm thập cẩm này sẽ được chiên cùng các món hải sản vẫn còn nguyên vỏ cứng của nó. Ảnh: Pinterest


Một phiên bản sang trọng hơn là paella del senyoret, gồm các món hải sản đã được bóc vỏ. Ngày nay, paella là món cơm chiên thập cẩm với hàng trăm phiên bản khác nhau. Ảnh: Spain on a fork


Một trong những thành phần quan trọng nhất trong quá trình tạo ra món ăn này là "paella", hay cái chảo. Những chiếc chảo này thường rất lớn, có hình tròn và mỏng. Chúng được nấu chín trực tiếp trên lửa. Ngày nay, các món cơm thập cẩm này được nấu trong đủ loại chảo có hình dáng khác nhau. Ảnh: Stock Food


Một trong những công đoạn đầu tiên của quá trình chế biến là nấu nước sốt sofregit. Đây là loại nước sốt chủ yếu gồm cà chua, hành tây, dầu ô liu. Và người dân luôn quan điểm rằng nước sốt có ngon thì món cơm mới ổn. Vì vậy, tại mỗi gia đình, hàng quán đều có những công thức làm nước sốt của riêng mình. Ảnh: Spain Recipes


Công thức nấu món paella này cũng rất nhiều và đa dạng. Mỗi vùng, thị trấn hay hộ gia đình đều có công thức riêng và bất kỳ ai cũng tin rằng công thức của mình ngon hơn những nơi còn lại. Ngoài việc lựa chọn nguyên liệu tươi ngon, loại gạo để nấu cũng rất quan trọng. Người dân thường chọn loại gạo hạt ngắn, hơi tròn để có thể hút được nước sốt nhưng cũng giữ được độ cứng nhất định khi nấu. Không có gì tệ hơn là một món paella nhão. Ảnh: Amigo Foods


Sau nhiều giờ chuẩn bị nấu nướng là công đoạn thưởng thức thành quả. Người Valencia tin rằng lớp cơm sát với đáy chảo là chỗ ngon nhất, vì nó là nơi ngấm nhiều nước sốt, gia vị nhất. Nó cũng là phần được nhiều người thèm muốn nhất khi dùng món ăn và phần này có tên gọi là socarrat. Phần cơm socarrat hơi giòn, giống cơm cháy. Nhiều người trong lần đầu ăn đã không biết và bỏ qua phần cơm này. Ảnh: lapetitecamera /flickr


Và điều cuối cùng mà bạn cần biết về món ăn này chính là nó được ra đời để gắn kết mọi người lại với nhau. Khoảnh khắc mọi người cùng chuẩn bị nguyên liệu, cùng nhau nấu nướng và cùng nhau thưởng thức được đánh giá là những giây phút vui vẻ, hạnh phúc với những nụ cười bất tận. Ảnh: Tour Barcelona

Anh Minh / Theo: Culture Trip



CUA SỐNG NGÂM TƯƠNG CỦA NGƯỜI HÀN QUỐC

Cua ngâm tương gejang là món ăn truyền thống và rất tốn cơm của người Hàn Quốc từ thế kỷ 17.


Cua ngâm tương trong tiếng Hàn được gọi là gejang hoặc gejeot, tùy từng vùng miền. Đây là một trong các loại geotgal (món ướp muối hoặc ngâm tẩm tương ăn kèm với cơm hoặc dùng như gia vị để tăng hương vị khi nấu món khác). Từ gejang gồm hai chữ, ge nghĩa là cua và jang nghĩa là tương hoặc gia vị.

Gejang truyền thống được làm bằng cách đem những con cua còn sống ngâm với tương. Ngày nay, phiên bản gejang cay ngâm thêm tương và bột ớt được thực khách ưa chuộng hơn, từ đó hình thành cách gọi ganjang gejang để chỉ loại truyền thống, trong khi yangnyeom gejang để gọi cua ngâm đã nêm thêm gia vị kiểu mới.

Để gejang ngon phải chọn những con cua gạch rửa sạch và xếp chồng lên nhau thành từng lớp, phần mai cua úp xuống trong hũ sành. Nước tương đã được trộn sẵn, nấu sôi để nguội rồi rưới lên cua đến khi ngập hũ. Sau vài ngày, chắt tương ra tiếp tục nấu sôi để nguội và đổ vào hũ. Lặp lại bước này 3-4 lần trong khoảng hai tuần là có thể thưởng thức cua.

Ngâm xong cua được bóc mai, cắt miếng phần thân để dễ ăn hơn. Ảnh: Guide.Michelin

Trước đây, người Hàn Quốc chỉ dùng chamge (loại cua đồng Trung Quốc) thường thấy ở các dòng sông, suối, ven cửa sông và đồng lúa. Trong đó, cua bắt ở hạ lưu sông Imjin vào mùa thu là ngon nhất vì nhiều trứng và gạch. Tuy không nhiều thịt như cua nước mặn, chamge vẫn được đánh giá cao vì hương vị đặc biệt. Gejang từ cua đồng Trung Quốc thường mặn hơn so với gejang cua nước mặn. Vì vỏ dày hơn mà quá trình ngâm ướp tương có thể kéo dài vài tháng, và tương pha cũng cần hàm lượng natri cao để bảo quản được lâu hơn.

Khi lượng cua đồng Trung Quốc ngày càng giảm theo thời gian vì nhiều sông suối bị ô nhiễm, người Hàn Quốc bắt đầu tiêu thụ các loại cua nước mặn như cua biển và ghẹ để làm gejang. Hai loại này có kích thước lớn hơn cua đồng nhưng chỉ cần ngâm tương khoảng một tuần là ăn được.

Nhiều cuốn sách từ thời Joseon (1392-1910) đề cập tới gejang đã là món ăn của người Hàn Quốc từ thế kỷ 17. Theo cuốn Sallim Gyeongje, khoảng cuối thế kỷ 17, gejang làm bằng cua đồng ngâm muối, rượu gạo trong và bã rượu. Phương pháp này sẽ giữ cua để được lâu hơn. Ngoài ra, các ghi chép cũng nhắc tới nước muối, dấm và tương thường dùng làm nguyên liệu để bảo quản cua sống. Theo cuốn Gyuhap Chongseo, một bước quan trọng khi chuẩn bị làm gejang là đặt những con cua sống vào hũ sành có thêm một vài miếng nhỏ thịt bò sống, để hương vị ngọt đậm hơn. Cũng theo các tư liệu cổ, gejang được xem là đặc sản và làm món ăn kèm trong các bữa cơm của hoàng đế Hàn Quốc nhiều thế kỷ qua.

Với dân Hàn Quốc, cua ngâm tương là món rất tốn cơm vì vị mặn đặc trưng, những người thích gejang thường ăn với cơm ngon tới mức họ không nhận ra đã ăn nhiều cơm cỡ nào. Thực khách có thể ăn gejang theo nhiều cách khác nhau, một số hút thịt mềm trực tiếp từ vỏ cua, số khác lại mê kiểu trộn thịt và trứng cua với cơm ngay trong chiếc mai.


Ở Hàn Quốc, ghẹ có hai mùa trong năm là tháng 4 đến 6 khi những con cái đầy trứng và thịt chắc ngọt, và tháng 9-10 khi con đực béo hơn. Ghẹ cái thường có hương vị ngon hơn đực vì có thêm gạch và trứng mềm như bơ sau khi ngâm tương xong. Trong khi đó, cua đồng Trung Quốc được đánh bắt vào tháng 8-11 và chỉ ở khu vực sông Imjin ở tỉnh Gyeonggido gần Paju, các cánh đồng và suối nhỏ của tỉnh Gyeongsangdo.

Khánh Trần / Theo: Guide.Michelin



Wednesday, December 3, 2025

DANH LỢI - MÊ TRƯỚNG CỦA KẺ CHƯA TỎ TÂM MÌNH


Có kẻ vì một câu khen mà hớn hở cả ngày. Lại có kẻ vì một lời chê mà mất ngủ cả đêm.

Chút danh mà hư, chút lợi mà mỏng. Vậy mà đủ khiến con người dấn thân, tranh đoạt, khổ lụy suốt đời.

Danh đến thì mừng, danh mất thì sầu. Lợi tới thì giữ, lợi đi thì tiếc.

Được một bước thì kiêu, thua một phần thì oán.

Cả đời sống trong được-mất, vui buồn như con thuyền nhỏ giữa sóng đời.

Người như thế, há chẳng khổ sao?

Người mê danh lợi, phần nhiều là người chưa hiểu chính mình.

Không rõ căn tánh, không tỏ mệnh trời. Nên mới lấy ánh mắt người đời làm thước đo. Lấy lời khen chê làm gió mát hay sấm giật.

Họ sống vì bên ngoài. Nên lòng không vững, tâm không yên.

Một lời tung hô khiến tim đập nhanh. Một lời phê phán khiến máu sôi trào.

Thật ra, không phải đời quá phũ. Mà vì tâm họ quá yếu mềm trước danh lợi.


Người biết mình là ai, không cần ai nhắc mới nhớ. Người rõ đường mình đi, không vì ai quên mà lạc.

Có câu:

“Tâm bớt động trước danh, thân mới an giữa thế.”

Danh là bóng, lợi là mây. Chạm vào tưởng chắc, nhưng lại trống rỗng.

Vui trong khoái cảm chốc lát. Nhưng sau đó là lo, là sợ, là chấp niệm khôn nguôi.

Một đời như vậy, dẫu có vinh, cũng là vinh giả. Dẫu có lợi, cũng là lợi cạn.

Vì chưa sống một ngày cho thanh thản. Chưa từng ăn một bữa cơm nào cho thật an tâm.

Danh đến – cứ đến. Lợi đến – cứ đến. Cũng như trăng soi mặt nước. Lặng lẽ, thong dong, không để lại vết.

Được – không kiêu. Mất – không sầu. Đó là người đã qua bên kia bờ danh lợi.

Người như vậy, không cần nói cao xa, không cần áo gấm, tiếng vàng. Chỉ cần ánh mắt tĩnh, dáng ngồi yên, cũng đủ khiến người khác cúi đầu mà tôn trọng.

Vì khí chất không từ bên ngoài mà ra, mà từ cái tâm thanh khiết dưỡng nên.


Danh là giả danh. Lợi là vọng lợi. Nếu không tỉnh, thì cả đời cứ chạy.

Chạy tới lúc xuống huyệt còn chưa biết vì sao mỏi chân.

Chi bằng, sớm tĩnh tâm mà xét: Ta là ai? Ta sống vì điều gì?

Nếu không vì danh, không vì lợi. Thì còn lại là “Chân”.

Mà Chân, mới là thứ không đổi theo thời gian. Không phai theo tuổi tác. Không mất khi người đời quay lưng.

Danh lợi, nhìn thì rực rỡ, nhưng cầm vào lại bỏng tay mình.

Chỉ có người tỏ tâm, rõ mệnh. Mới biết dừng đúng chỗ, đi đúng đường.

Không tranh, mà thành.
Không cầu, mà đủ.
Không khoe, mà sáng.
Ấy mới là khí độ bậc quân tử.

Nguyên Tác An Hậu
Theo: vandieuhay

"DƯA MUỐI" - TINH HOA ẨM THỰC TRUYỀN THỐNG BỊ HIỂU NHẦM

Từ thời xa xưa, khi con người chưa có tủ lạnh, chưa có hóa chất bảo quản, thì dưa muối chính là một trong những tinh hoa ẩm thực của con người. Không chỉ là món ăn dân dã, dưa muối, cải muối, còn là biểu tượng của sự tiết chế, sự giao hoà giữa trời đất, giữa âm và dương, giữa con người với quy luật của tự nhiên.


Ở Việt Nam, dưa cải muối là món ăn không thể thiếu trong mâm cơm ngày Tết, ngày giỗ, hay cả trong những bữa cơm thường nhật của người Việt.

Ở Hàn Quốc, kimchi là quốc hồn quốc túy. Ở Nhật, tsukemono là nghệ thuật. Ở Ấn Độ, achar là sự hòa trộn của gia vị và văn hóa.

Dưa muối có lợi gì? Không chỉ cho cái bụng, mà cả cái tâm

1. Tốt cho tiêu hóa. Ông bà ta đã đi trước khoa học

Nhiều người quê vẫn nói: “Ăn dưa cho dễ tiêu.” Họ không cần biết đến probiotic, men lactic, hay microbiome, nhưng họ biết dưa muối để lâu ăn vào khỏe bụng.

Còn ngày nay y học hiện đại đã phát hiện một số lợi ích dinh dưỡng chính gồm:

Cân bằng hệ vi sinh đường ruột: Vi khuẩn có lợi trong dưa muối giúp hỗ trợ tiêu hóa, hấp thu dưỡng chất và tăng cường hệ miễn dịch.

Giảm độc tố: Quá trình lên men giúp phân giải nitrat, oxalate và một số độc tố tự nhiên có trong rau củ.

Bổ sung vitamin: Đặc biệt là vitamin C, K và một số nhóm B, vốn dễ mất khi nấu nướng.

Giảm nguy cơ ung thư đại tràng: Theo một số nghiên cứu gần đây, men vi sinh từ dưa muối có thể ức chế sự phát triển của tế bào ung thư ruột già.

Người quê đâu biết nghiên cứu nào, nhưng trăm năm họ đã sống khoẻ với dưa muối.


2. Dưa muối và sự tiết chế dục vọng

Trong các truyền thống tâm linh phương Đông, đặc biệt là Phật giáo, sự giản dị trong ăn uống là một phần của tu hành. Dưa muối, món ăn không dầu, không thịt, chỉ có rau, muối và thời gian là biểu tượng cho:

Sự tiết dục trong ẩm thực: Không nồng đậm, không béo ngậy, dưa muối giúp thanh lọc vị giác và làm dịu tham vọng vật chất.

Tịnh hóa tâm hồn: Mùi vị lên men chua thanh phản ánh sự thay đổi từ thô đến tinh, từ sinh đến dưỡng, như hành trình tu luyện của một người đi tìm đạo.


Khoa học hiện đại nói gì và tại sao có lúc họ nói sai?

Dưa muối từng bị lên án: “Gây ung thư”. “Nhiều muối, tăng huyết áp”. “Chứa nitrit, hại gan, hại thận.”

Gây ung thư vì nitrosamine: Một số nghiên cứu ở châu Á gắn dưa muối với tỷ lệ ung thư dạ dày cao. Tuy nhiên, phần lớn là do dưa muối bị hỏng hoặc muối bằng hóa chất không đúng cách, không phải lỗi của bản thân dưa muối, mà là cách làm sai, vì lợi nhuận mà bán rẻ sức khỏe khách hàng.

Người xưa luôn dặn nhau không ăn dưa mới muối, phải chờ đủ ngày. Họ không cần biết tên chất gì, chỉ cần biết: dưa chưa chua thì chưa lành. Đừng gấp gáp, ủ muối mà phải là muối hột, không phải muối iot.

Vậy nên, kẻ gây ung thư không phải là dưa, mà là lòng người vội vã, muốn ăn ngay, muốn nhanh mà không hiểu quy luật.

Chứa nhiều muối gây cao huyết áp: Dĩ nhiên, bất cứ thực phẩm nào lạm dụng đều có hại. Nhưng ăn dưa muối với cơm trắng, canh loãng, theo cách truyền thống, thì hoàn toàn cân bằng. Chính thực phẩm siêu chế biến, nước ngọt, thức ăn nhanh mới là thủ phạm thực sự.

Ngày nay, người ta ăn dưa như món chính, lại thêm đồ chiên, đồ nêm đậm, nên mới dư muối. Khoa học trách món ăn, nhưng lẽ ra nên nhìn vào cách ăn mất cân bằng của con người hiện đại.

Thiếu chuẩn vệ sinh: Một sự ngụy biện phổ biến khác của các nền công nghiệp thực phẩm hiện đại để hợp pháp hóa việc xóa bỏ món ăn cổ truyền.

Nếu rau không rửa kỹ, hũ không sạch, nước lã, để hở… thì bất kỳ món gì cũng thành hại, không chỉ dưa. Nhưng người xưa muối dưa bằng tay sạch, nước sôi để nguội, hũ sành kín nắp, phơi nắng, hoàn toàn vô trùng tự nhiên.

Khoa học hiện đại nhiều khi chỉ nhìn cái kết quả hỏng, mà không nhìn đến quy trình truyền thống đúng đắn đã tồn tại và được kiểm chứng cả trăm năm.

Dưa muối là món ăn không thể thiếu trong bữa cơm người Việt

1. Khi ta quên mất gốc rễ đạo lý trong món ăn

Một vấn đề lớn của khoa học ngày nay là cô lập hiện tượng, tách từng thành phần nhỏ để đánh giá. Họ không nhìn tổng thể, không nhìn ngữ cảnh sống. Họ thấy nitrit và bảo dưa có hại, nhưng họ không xét đến men lactic phân giải nitrit sau quá trình lên men.

Họ xét riêng muối mà không xét đến cơm, canh, cách ăn. Họ nhìn vào hiện tượng vi phạm vệ sinh thực phẩm ngoài xã hội rồi phán cả nền ẩm thực là độc hại.

Trong khi đó, người quê không cần phòng lab, mà biết chọn rau lành, rửa sạch, để ráo, phơi nắng, đậy kín, chờ đủ ngày, nếm đúng lúc. Đó là cả một khoa học tự nhiên, không cần bằng cấp, chỉ cần có tâm và hiểu đời. Hiểu những tinh hoa ẩm thực mà ông bà ta đi trước đã để lại cho con cháu. 

2. Hũ dưa chua, một kho tàng bị xem thường

Giữa thời đại siêu thị, siêu thực phẩm, thức ăn nhanh, máy lạnh và kháng sinh, một hũ dưa chua có vẻ lạc hậu. Nhưng nó chứa:

Sự sống thật (men vi sinh tự nhiên).

Đạo lý sống (biết chờ đợi, không phí phạm, nhẫn nại).

Ký ức gia đình (mỗi hũ dưa là một phần của tuổi thơ, của bàn tay mẹ).

Bản lĩnh sinh tồn (giữ được rau xanh ngày mất mùa, thiếu thốn).


Dưa muối không chỉ giúp no bụng, mà nuôi dưỡng ký ức, tính cách, và cả một nền văn hóa sống điều độ, biết ơn và nhân hậu.

3. Không phải dưa sai, mà là lòng ta đã lệch lạc

Nếu dưa muối có hại, thì sao bao đời ông bà ta vẫn sống thọ, khỏe mạnh, trí tuệ minh mẫn?

Chỉ khi người ta làm ẩu, ăn vội, hiểu lệch, mới biến món ăn thành gánh nặng, rước bệnh vào thân.

Suy cho cùng, khoa học cần trái tim để soi sáng, chứ không chỉ cần máy móc để xét nét.

Văn hóa là gốc của con người, lưu giữ tinh hoa văn hóa là lưu giữ lại những điều tốt đẹp cho thế hệ sau này.

Nguyên Tác An Hậu
An Nhiên / Theo: vandieuhay