Wednesday, December 10, 2025

DẠ BÁN LẠC (夜半樂) - LIỄU VĨNH (柳永)


Dạ bán lạc

Đống vân ảm đạm thiên khí,
Biển chu nhất diệp,
Thừa hứng ly giang chử.
Độ vạn hác thiên nham,
Việt khê thâm xứ.
Nộ đào tiệm tức,
Tiều phong xạ khởi,
Cánh văn thương lữ tương hô.
Phiến phàm cao cử.
Phiếm hoạ nghịch,
Phiên phiên quá nam phố.

Vọng trung tửu bái thiểm thiểm,
Nhất thốc yên thôn,
Sổ hàng sương thụ.
Tàn nhật hạ,
Ngư nhân minh lang quy khứ.
Bại hà linh lạc,
Suy dương yểm ánh.
Ngạn biên lưỡng lưỡng tam tam,
Hoán sa du nữ.
Tỵ hành khách,
Hàm tu tiếu tương ngữ.

Đáo thử nhân niệm,
Tú các khinh phao,
Lãng bình nan trú.
Thán hậu ước đinh ninh cánh hà cứ.
Thảm ly hoài,
Không hận tuế vãn quy kỳ trở.
Ngưng lệ nhãn,
Diểu diểu thần kinh lộ.
Đoạn hồng thanh viễn trường thiên mộ.


夜半樂 - 柳永

凍雲黯淡天氣,
扁舟一葉,
乘興離江渚。
渡萬壑千岩,
越溪深處。
怒濤漸息,
樵風乍起,
更聞商旅相呼。
片帆高舉。
泛畫鷁、
翩翩過南浦。

望中酒旆閃閃,
一簇煙村,
數行霜樹。
殘日下,
漁人鳴榔歸去。
敗荷零落,
衰楊掩映。
岸邊兩兩三三,
浣沙遊女。
避行客、
含羞笑相語。

到此因念,
繡閣輕拋,
浪萍難駐。
歎後約丁寧竟何據。
慘離懷,
空恨歲晚歸期阻。
凝淚眼、
杳杳神京路。
斷鴻聲遠長天暮。


Vui lúc nửa đêm
(Dịch thơ:Nguyễn Xuân Tảo)

Mây lạnh bầu trời tê tái,
Một chiếc thuyền con,
Cao hứng rời bến bãi.
Vượt muôn thác ngàn ghềnh,
Việt Khê lần tới.
Sóng dữ lặng dần,
Gió rừng vụt thổi,
Lại nghe các lái gọi nhau.
Ngọn buồm cao vợi,
Thuyền băng băng,
Qua bến nam buông lái.

Cờ quán rượu tung bay phất phới,
Hàng cây mờ sương,
Chòm thôn toả khói.
Dưới chiều tà,
Ngư phủ trở về gác mái.
Sen rạc tả tơi,
Liễu già dầu dãi.
Bên bờ lũ lượt năm ba,
Đập sợi mấy cô.
Tránh khách lạ,
Thẹn thò cười nói.

Đến đây nghĩ lại,
Buồm gấm nhẹ rơi,
Sóng bèo chìm nổi.
Ôi, hẹn ước mai sau chắc gì chấp nối.
Buồn chia ly,
Luống giận năm cùng về trở ngại.
Tròng mắt lệ,
Đường đô thành mòn mỏi.
Tiếng nhạn dứt kêu, trời ngả tối.


Sơ lưươc tiểu sử tác giả:

Liễu Vĩnh 柳永 (khoảng 987 - khoảng 1053) tự Kỳ Khanh 耆卿, người huyện Kỳ An, tỉnh Phúc Kiến. Năng cải trai man lục nói: “Từ tự Nam Đường trở xuống, chỉ có tiểu lệnh. Mạn từ tới thời vua Tống Nhân Tông (1023-1062) trung nguyên thanh bình, Biện kinh phồn thịnh, ca đài vũ tạ, đua thưởng tân thanh. Kỳ Khanh lưu liên phường khúc, thu hết lời nói quê mùa, biên vào trong từ, cho người truyền lưu ca xướng, rồi sau có Thiếu Du và Sơn Cốc kế tiếp, nên man từ trở thành đại thịnh”. Hiện Liễu Vĩnh còn Nhạc chương tập 樂章集 3 quyển.

Nguồn: Thi Viện



NGƯU TẦM NGƯU, MÃ TẦM MÃ - AI RỒI CŨNG QUAY VỀ ĐÚNG TẦN SỐ CỦA MÌNH

Trong đời, có lẽ ai cũng từng một lần thắc mắc: “Tại sao tôi đối xử thật lòng mà người ta vẫn lạnh nhạt?” Hay: “Vì sao tôi không làm gì sai mà vẫn không được chấp nhận?”


Thật ra, đó không hẳn là vì bạn chưa đủ tốt, mà là bạn đang đứng sai tần số.

Mỗi con người mang theo một khí chất, một đạo lý sống, một tần sóng riêng biệt. Không phải ai càng cố gắng bao nhiêu thì càng hòa hợp được bấy nhiêu.

Có những người, không cần nói nhiều, ta đã thấy lòng nhẹ tênh. Có những người, dù đã nhún nhường, đã thành khẩn, mà họ vẫn thấy ta chướng tai gai mắt.

Người xưa nói: “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã”, trâu tìm trâu, ngựa tìm ngựa, không chỉ để nói về sự kết giao theo chủng loại, mà còn là cách vũ trụ vận hành trong mọi tầng lớp con người.

Người hay nói chuyện tiền tài sẽ tự thu hút người cùng mối quan tâm ấy. Người hướng về tinh thần sẽ dễ cảm mến những người sâu sắc, điềm đạm. Người thích ăn chơi sẽ khó thấy vui bên người thanh bạch. Người trọng danh vọng sẽ không hiểu được người chọn sống ẩn mình.

Mỗi người rồi cũng sẽ quy tụ về nơi phù hợp với chính mình. Không phải do ai loại bỏ ai, mà là do sự tương thích nội tâm đã phân rõ.


Chọn đúng người để đồng hành, quan trọng hơn cố gắng hòa hợp với tất cả

Xã hội hiện đại thường dạy ta kỹ năng kết nối, giao tiếp, mở rộng quan hệ. Nhưng sự trưởng thành lại dạy ta rằng: không phải ai cũng nên giữ lại.

Có những người, chỉ cần bước đi, ta mới thấy nhẹ lòng. Có người, chỉ cần rời xa, ta mới hiểu thế nào là tự do tâm hồn.

Bạn có thể là người tử tế, nhưng không phải ai cũng biết trân trọng điều đó. Bạn có thể sống chân thành, nhưng không phải nơi nào cũng phù hợp để chân tình tồn tại. Đó không phải là lỗi, chỉ là không hợp tầng khí chất.

Khi bạn còn quá để tâm đến việc được lòng người khác, bạn sẽ dễ đánh mất bản sắc của chính mình. Càng cố gắng làm vừa lòng số đông, bạn càng xa rời cái “trung tâm nội tại” mà bạn đáng lẽ phải giữ gìn. Người sống có nguyên tắc, có chiều sâu và có cá tính… sẽ ít bạn hơn, nhưng mối giao kết đó lại bền hơn, sâu hơn và thực hơn.

Ở đời, không thể có chuyện trăm người như một

Có người đến, có người đi. Có người khiến bạn mở lòng, có người khiến bạn khép lại. Đó là quy luật.

Một khu rừng không chỉ có một loại cây, một bản nhạc không chỉ có một nốt trầm. Con người cũng vậy, không thể ai ai cũng nghĩ giống nhau, sống giống nhau, thích giống nhau.

Sự khác biệt là điều tự nhiên. Điều quan trọng không phải là khiến ai cũng thuận theo ý mình, mà là học cách chọn người phù hợp để gần gũi, và buông nhẹ những người không cùng lối.

Khi bạn hiểu điều này, bạn sẽ thôi kỳ vọng vô lý vào người khác. Bạn sẽ thôi tổn thương vì những ánh mắt hờ hững hay những lời phán xét vội vàng.

Bạn sẽ nhận ra rằng: việc không hợp ai đó không phải là một thất bại, mà là một cơ hội để bạn bước gần hơn đến những người thật sự đồng điệu.


Thay vì cưỡng cầu, hãy sống đúng với mình, rồi người cùng tầng sẽ đến

Khi nội tâm bạn thanh sạch, bạn sẽ tự khắc hấp dẫn những người cùng hướng. Khi bạn không bon chen, không giả tạo, bạn sẽ gặp những người đến với bạn vì chính bạn, chứ không vì những gì bạn sở hữu. Đó là sự kết giao lành mạnh, lâu dài, và không cần nịnh bợ để duy trì.

“Chúng ta không cần phải cố gắng chen vào đám đông. Khi ánh sáng đủ rõ, tự nhiên bóng tối sẽ rời đi.”

Bạn không cần được tất cả yêu mến, chỉ cần được đúng người thấu hiểu.

Không cần là trung tâm của mọi nhóm, chỉ cần thuộc về một nơi, nơi bạn có thể thở nhẹ, không phòng bị, không gồng mình.
Người không hợp, đừng cố giữ. Người hợp với bạn, không cần giữ họ cũng sẽ ở lại.

Vì suy cho cùng, duyên chân thật không do cưỡng cầu, mà là sự dung hợp tự nhiên của tâm hồn.

Nguyên Tác An Hậu
Theo: vandieuhay

VÌ SAO NGƯỜI XƯA LUÔN DÙNG RĂNG ĐỂ THỬ VÀNG? LÝ DO QUÁ THÔNG MINH

Người xưa có khoảng 4 cách để xác định vàng, trong đó phổ biến nhất là dùng răng cắn trực tiếp vào vàng, nguyên nhân là do nghề thủ công cổ xưa chưa phát triển.


Dùng răng thử vàng có chính xác không?

Để tạo ra những món đồ trang sức bằng vàng mới lạ hơn, người xưa tạo ra nhiều hơn một quá trình “tôi luyện” để làm giảm độ cứng của vàng và tăng độ dẻo dai của vàng, có thể kéo dài và dát mỏng, do đó, bạn có thể nhìn thấy dấu răng ngay khi bạn cắn vào nó. Nếu không có vết răng nghĩa là có lẫn tạp chất, lượng vàng không đủ, như đồng thau, thì không thể cắn được. Phương pháp kiểm tra thô này đã có từ lâu vì tính tiện lợi cao.

Có phương pháp nào khác để kiểm tra?

Phương pháp thứ hai là hỏa thiêu, khi người xưa không thể phân biệt được vàng thật, giả bằng mắt thường, sẽ dùng phương thức hỏa thiêu, khi đốt vàng sẽ quan sát thấy vàng đổi màu, toát ra thể khí là màu xanh lá, lại không sợ lửa thiêu, bởi vàng không phản ứng với oxi ở nhiệt độ cao.

Phương pháp thứ ba là cân trọng lượng, như chúng ta đã biết vàng chiếm tỷ trọng tương đối lớn trong nguyên liệu, người có kinh nghiệm chỉ cần lấy vàng đặt ở trên tay ước lượng một chút sức nặng, sẽ biết vàng trong tay là thật hay giả.

Phương pháp cuối cùng là nhìn vào màu sắc, như người ta thường nói, vàng là “thất thanh, bát hoàng, cửu tử, thập xích” (bảy xanh, tám vàng, chín tím và mười đỏ), có nghĩa là độ tinh khiết của vàng xanh-vàng là khoảng 70%, độ tinh khiết của màu vàng. vàng là khoảng 80%, và độ tinh khiết của vàng tím là 90%, còn độ tinh khiết của vàng đỏ là gần như 100%.


Ngày nay có những cách kiểm tra nào?

Nhận biết bằng kem nền trang điểm

Bạn hãy thoa một lớp kem nền dạng lỏng lên mu bàn tay và chờ kem khô lại, sau đó chà tay lên bề mặt vàng.

Nếu thấy để lại một vệt trên chỗ kem vừa thoa thì đó là vàng thật, nếu không thấy gì thì là vàng giả.

Nhận biết bằng giấm

Lưu ý: Cách này chỉ có thể áp dụng với các loại trang sức bằng vàng 99.99%. Các thiết kế đính đá, vàng tây hoặc ngọc trai sẽ không nhận biết được.

Bạn hãy chuẩn bị một cốc giấm, sau đó cho trang sức vào ngâm khoảng 15 - 30 phút và quan sát màu nước trong cốc.

Nếu giấm chuyển sang màu đen, xanh lục hoặc nâu khói thì là vàng giả, còn không thấy có hiện tượng đổi màu thì là vàng thật.

Nhận biết bằng nam châm

Sử dụng một thỏi nam châm đưa đến gần vàng để kiểm tra. Nếu xảy ra lực hút thì đó là vàng giả, còn vàng thật sẽ không phản ứng gì với nam châm.


Nhận biết bằng gốm không tráng men

Lưu ý: Cách này sẽ không thể phân biệt được các loại vàng giả nhưng có lớp mạ bên ngoài là vàng thật, hoặc các loại vàng giả về độ tuổi, trọng lượng.

Bạn hãy lấy vàng chà xát mạnh lên bề mặt gốm tráng men (lúc này có màu trắng), nếu xuất hiện vệt màu vàng thì là vàng thật, còn vệt màu đen là vàng giả.

Nhận biết bằng cách kiểm tra trọng lượng vàng

Đầu tiên, bạn cần cân trọng lượng của chỗ vàng cần kiểm tra. Tiếp đến, chuẩn bị một lọ nước có chia vạch theo mililit (ml), đổ đầy nước vào nửa lọ và cho vàng vào ngâm.

Ghi chú lại mực nước trước và sau khi cho vàng vào để tính thể tích nước tăng thêm.

Cuối cùng bạn hãy áp dụng công thức tính tỷ trọng dưới đây:

Tỷ trọng = trọng lượng/thể tích tăng thêm

Nếu như tỷ trọng tặng thêm là gần 19g/ml thì đó là vàng thật.

Ví dụ, vàng có trọng lượng là 38 g, thể tích tăng thêm đo được là 2 ml thì tỷ trọng sẽ là 38/2 = 19 g/ml. Vậy trang sức đó là vàng thật.

Trang Hạ / Theo: xevathethao

Tuesday, December 9, 2025

KHÁM PHÁ TIÊU DAO DU CỦA TRANG TỬ: CÁI THẤY CỦA TA KHÔNG PHẢI LÀ TOÀN BỘ SỰ THẬT

Trong Tiêu Dao Du viết: Tại biển Bắc có một con cá tên là Côn, lớn đến mức không biết mấy nghìn dặm. Cá này khi hóa thân sẽ trở thành chim Bằng, với lưng rộng không kém phần vĩ đại. Khi vỗ cánh bay lên, đôi cánh của nó xòe ra như mây che kín cả bầu trời. Biển động, Bằng bay về phía Nam – nơi gọi là Ao Trời.


Tề Hải – một sách cổ ghi chép các hiện tượng kỳ dị – chép rằng: chim Bằng lúc bay ngang biển Nam vỗ cánh làm nổi sóng ba nghìn dặm; nhờ gió cuốn mà bay lên chín vạn dặm cao, mất sáu tháng mới dừng lại.

Trang Tử không chỉ kể một điển cố huyền hoặc. Qua hình ảnh đó, ông mở ra cánh cửa dẫn tới một trong những tư tưởng thâm sâu nhất của Đạo gia: sự tiêu dao đích thực – tự do tuyệt đối không còn bị ràng buộc bởi bất kỳ vật thể, hình thức hay danh tướng nào.

Côn hóa Bằng – Một cú nhảy vượt thoát khỏi giới hạn

Côn là cá, sống dưới nước; Bằng là chim, bay trên trời. Hai hình thái này không chỉ biểu trưng cho sự chuyển hóa tự nhiên, mà còn tượng trưng cho hành trình của con người vượt qua chính mình. Côn quá lớn để bơi trong dòng nước cạn. Bằng quá đồ sộ để bay nếu gió không dày, trời không rộng.

Trang Tử viết: “Nước không sâu thì không chở nổi thuyền lớn. Gió không dày thì không nâng nổi cánh lớn của Bằng.”

Vậy thì muốn tiêu dao, muốn tự do, thì không thể trông vào điều kiện nông cạn, hay sức người hữu hạn. Phải cưỡi lên khí trời – thuận theo Đạo, thì mới có thể bứt ra khỏi trói buộc của thế tục mà bay thẳng về phương Nam (Nam Thiên Môn, cánh cửa Thiên Quốc) – nơi ẩn dụ cho sự viên mãn và siêu thoát.


Màu xanh của trời là thật hay là ảo?

Trang Tử không chỉ là một người kể chuyện. Ông là một người hỏi những câu hỏi vượt khỏi giới hạn tri thức đương thời: “Cái màu xanh xanh của trời kia có phải là màu thật của nó, hay chỉ là màu của vô cùng thăm thẳm?”

Một câu hỏi tưởng như đơn giản, nhưng đã chạm vào tận cốt lõi của nhận thức học, bản thể học, và cả thực tại luận hiện đại. Ngày nay, khoa học xác nhận rằng màu sắc ta thấy không phải là màu của vật, mà là ánh sáng phản chiếu vào mắt, là cảm nhận chủ quan, không phải sự thật tuyệt đối.

Trang Tử – từ hơn hai ngàn năm trước – đã nghi vấn điều mà con người hiện đại phải dùng máy móc mới dám khẳng định. Ở đó, ông muốn nhấn mạnh: cái thấy của ta không phải là toàn bộ sự thật. Chúng ta không biết trời là xanh, hay vì mắt ta giới hạn mà thấy xanh. Chúng ta không biết mình là ai – hay chỉ là những vai diễn nối tiếp nhau qua các cơn mộng của cuộc đời.

Trang Chu mộng điệp – Thức hay mộng?

Có thể ai đó đã từng nghe câu chuyện: Trang Chu nằm mộng thấy mình hóa bướm, bay lượn tự do. Khi tỉnh dậy, không biết là Chu mộng thấy hóa bướm, hay bướm mộng thấy hóa Chu.

Tưởng như huyền hoặc, kỳ lạ. Nhưng thực ra, đó là lời cảnh tỉnh sâu sắc: Chúng ta đang sống trong mộng, hay đang tỉnh trong một giấc mộng khác?

Con người sinh ra, lớn lên, đóng vai học sinh, rồi trở thành cha mẹ, thầy giáo, nhân viên, người của xã hội – và cứ thế trôi qua trong hàng loạt nhập vai. Trong những lần hóa thân ấy, họ dần đánh mất chân ngã, rồi đồng hóa mình với vai diễn, chấp vào cái tôi giả tạo, quên mất bản thể vốn là một phần của trời đất, vốn tự do.


Vì sao Côn phải hóa thành Bằng? Vì sao Trang Tử luôn dùng “mộng” và “hóa”?

Bởi vì ông muốn thức tỉnh ta khỏi cơn mộng vai trò, danh phận và hình tướng. Con người nếu không biết buông vai trò, sẽ mãi bị dẫn dắt bởi hoàn cảnh. Khi Côn không chấp là Côn, khi Bằng không chấp là Bằng, khi Chu không còn chấp là Chu, và bướm không còn là bướm, thì mới đạt tới trạng thái “vật hóa” – trạng thái mà con người không còn phân biệt mình và vạn vật, ngã và vô ngã.

Tiêu dao thật sự là gì?

Người đời sau thường gọi Trang Tử là “nhà văn học lãng mạn duy tâm”, là một nhà văn triết lý. Nhưng gọi vậy là hạn hẹp. Trang Tử không phải người viết văn chơi chữ, mà là một người tu hành, là người thật sự có trải nghiệm vượt ngoài nhục nhãn (mắt thịt của người thường), nhìn được thế giới trong hồ lô, thấy được chân tướng của vạn pháp.

Ông nói: “Triêu khuẩn bất tri hối sác, huệ cốc bất tri xuân thu” (Nấm sớm không biết đến hoàng hôn, ve sầu không hiểu được xuân thu)

Là muốn chỉ rằng: Con người nếu chỉ biết chạy theo cái thấy, cái nghe, cái lợi trước mắt, mà không tự tu dưỡng, không phản chiếu nội tâm, thì mãi mãi như ve sầu – sống theo mùa, không biết có một đại chu kỳ vũ trụ mà mình đang lặp lại và bị cuốn trôi.

Không phải chỉ là bay lên, không phải chỉ là hóa thành chim Bằng, hay biến thành cánh bướm. Mà là không chấp vào việc mình đang bay hay đang hóa, không còn phân biệt giữa mộng và tỉnh.


Tiêu dao thật sự là khi tâm không bị ràng buộc, ngã không bị chấp thủ (sự bám víu, níu kéo, hoặc dính mắc vào một cái gì đó, không muốn buông bỏ), và vạn vật đều đồng (cùng) thể. Khi đó, biển Bắc – biển Nam – bầu trời xanh – hạt bụi – ta và người – đều là Đạo.

Trang Tử không dạy chúng ta bay đi, mà dạy chúng ta vượt ra khỏi cái đang trói tư tưởng – nhận thức trong chính mỗi con người.

Mỹ Mỹ biên tập
Theo: vandieuhay

TẠP THI KỲ 1 - ĐÀO TIỀM


Tạp thi kỳ 1

Nhân sinh vô căn đế
Phiêu như mạch thượng trần
Phân tán trục phong chuyển
Thử dĩ phi thường thân
Lạc địa vi huynh đệ
Hà tất cốt nhục thân?
Đắc hoan đương tác nhạc
Đấu tửu tụ tỉ lân
Thịnh niên bất trùng lai
Nhất nhật nan tái thần
Cập thời đương miễn lệ
Tuế nguyệt bất đãi nhân


雜詩其一

人生無根蒂
飄如陌上塵
分散逐風轉
此已非常身
落地為兄弟
何必骨肉親
得歡當作樂
斗酒聚比鄰
盛年不重來
一日難再晨
及時當勉勵
歲月不待人


Thơ tạp kỳ 1
(Dịch thơ: Trần Trọng Dương)

Bụi người chẳng biết từ đâu
Phiêu linh ấy cũng một màu thế nhân
Tơi bời theo gió xoay vần
Cái thân bụi bặm là thân vô thường.
Kết anh em há đường cốt nhục?
Ai cũng là mảy tục trần gian
Khi vui khúc nhạc cung đàn
Xóm giềng tụ tập uống tràn canh thâu.
Mùa này được mùa sau lại mất
Một ngày khó hai lúc bình minh,
Vụ mùa mình gắng sức mình
Thoi đưa ngày tháng chùng chình chi đâu


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.

Sách Tấn thư chép Đào Tiềm là người đất Sài Tang đời Tấn (nay thuộc Cửu Giang, Giang Châu), tính tình cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thơ văn. ông có soạn truyện Ngũ liễu tiên sinh để tự ví mình. Nhà nghèo có cha mẹ già, ông phải ra làm chức Tế tửu - chức quan nhỏ trong huyện, nhưng không chịu gò bó nên từ quan về nhà. Về sau, ông lại ra làm huyện lệnh Bàng Trạch, được hơn 80 ngày, nhân cuối năm phái viên đốc hưu (chức quan giúp quan quận thú coi việc kiểm tra đôn đốc các huyện trong quận) đến huyện, nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề để đốc hưu. Ông ngậm ngùi than rằng: “Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa” (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Rồi ngay hôm ấy ông trả ấn bỏ quan mà về. Sau khi từ quan về, ông hay ẩn nằm ngũ dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy Hoàng. Ông vui cảnh an bần lạc đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui. Tính ông chuộng cúc, cứ đến ngày trùng cửu (mùng 9/9), ông lại cùng bạn bè bày tiệc rượu bên khóm trúc để thưởng hoa.

Nguồn: Thi Viện



THẠCH LÀM TỪ LOÀI CÂY QUÝ Ở ĐÀI LOAN

Thạch Aiyu (愛玉凍) được làm từ hạt của loài cây quý thuộc họ dâu tằm Ficus, sinh trưởng trên những vùng núi cao 1.000 m.


Một trong những món tráng miệng thanh mát và độc đáo của Đài Loan phải kể đến thạch Aiyu, tên tiếng Việt là thạch bông cỏ. Aiyu nguyên chất không chứa đường, ít calo và giải nhiệt hiệu quả nên còn được mệnh danh là "thánh phẩm" mùa hè, có thể kết hợp uống cùng trà sữa, nước trái cây... hoặc ăn trực tiếp với hỗn hợp mật ong, nước cốt chanh và đá bào.

Cái tên Aiyu (Ái Ngọc) bắt nguồn từ chính loại hạt làm nên món thạch này. Hạt Ái Ngọc còn có tên Ngọc chỉ, là một biến chủng của sắn dây, thuộc họ dâu tằm Ficus. Aiyu sinh trưởng ở những ngọn núi cao trên 1.000 m so với mặt nước biển, là sản vật của xứ Đài và là cây dây leo quý của thế giới, thường sống bám trên vách đá hoặc trên cây gỗ của rừng thứ sinh. Mà hiện tại nhiều nơi có độ cao thấp hơn cũng đã canh tác nhân tạo được.

Quả Aiyu cái cho hạt Ái Ngọc, là nguyên liệu chính làm nên món thạch cùng tên. Ảnh: Shutterstock

Bề ngoài quả Aiyu trông tựa quả xoài xanh, chia làm quả đực và quả cái. Trong quả cái có chứa khoảng 20.000 bông hoa nhỏ quấn chặt lại với nhau. Đặc biệt, người ta đã khám phá ra bên trong quả Aiyu đực chính là nơi cư trú của rất nhiều con ong nhỏ. Chúng khoan vô số lỗ nhỏ dưới đáy quả, bò ra bò vào, rồi bò sang quả cái để thụ phấn cho những bông hoa nhỏ bên trong, sau đó kết thành một quả nhỏ, gọi là "quả gầy" hay "ngọc ái tử" (hạt Ái Ngọc) cũng chính là nguyên liệu dùng làm thạch. Quả đực vì vậy còn gọi là quả "Trùng anh", và không được dùng để làm thạch Aiyu.

Chính vụ thu hoạch quả Aiyu kéo dài từ tháng 8 đến tháng 12. Sau khi hái quả cái về, người ta gọt bỏ vỏ ngoài, bổ đôi và lộn ngược lại để phần hạt lộ ra ngoài, đem hạt ấy phơi khô là có được thành phẩm. Trong hạt Aiyu có chất keo, khi chà xát trong nước lạnh sẽ giải phóng pectin làm nước cô dính và đông lại thành thạch. Thạch Aiyu tự nhiên có tính thấm nước và rất mềm, khi ăn vào miệng sẽ lập tức tan chảy. Màu thạch vàng nhạt, bề mặt hạt còn các sợi tơ nhỏ sót lại nên nhìn có vẻ hơi đục. Ngoài ra thạch Aiyu thật sự sau khi đun nóng sẽ không bị tan chảy, giúp phân biệt với loại thạch tổng hợp làm từ bột Aiyu, gặp nóng liền tan.

Quả Aiyu cái đã được lộn ngược để lộ ra phần hạt bên trong. Ảnh: Shutterstock

Cũng như những món ngon khác, thạch Aiyu cũng có nguồn gốc của nó gắn liền với những câu chuyện, những giai thoại thú vị. "Sự tích" Aiyu được cho là xảy ra vào khoảng thế kỷ 19, kể về một thương nhân buôn trà trong lúc dừng chân nghỉ ngơi ở núi Đào Viên thì tình cờ phát hiện những miếng thạch trong veo, đang nổi lững lờ trên dòng suối gần đó, nếm thử thì thấy chúng có vị thanh mát lạ lùng. Thương nhân đảo mắt nhìn quanh và phát hiện những cây leo có trái màu tím nổi bật, bèn hái nó rồi vò thử trong dòng nước suối đang nhẹ chảy. Dòng nước chảy qua tay nhưng cảm giác rin rít hơi dính cứ còn ở lại. Ông cho rằng nó hẳn là nguyên liệu đã tạo nên những miếng thạch nhỏ trôi nổi trên dòng nước kia, bèn mang về, chế biến thử và đã thành thạch. Để tăng thêm hương vị, ông còn thêm mật ong và chanh khiến nó trở thành một món giải khát độc đáo mà ai cũng thích. Thương nhân đã đặt tên cho loại cỏ mình mang về là Aiyu (Ái Ngọc), theo tên cô con gái cưng của ông.

Thạch Aiyu dẻo, mềm và mát lạnh, kết hợp cùng mật ong và nước cốt chanh tạo nên hương vị chua ngọt hấp dẫn. Ảnh: Shutterstock

Nhờ sự tinh khiết, thanh mát và công dụng giải nhiệt tuyệt vời mà món thạch Aiyu đã trở thành thức quà mùa hè được ưa chuộng trên toàn Đài Loan, cũng như nhiều nơi khác ngoài hòn đảo xinh đẹp này. Giá của hạt bông cỏ cũng vì thế mà tăng mạnh hơn, một hecta có thể thu hoạch được 400-500 kg bông. Mỗi kg có giá khoảng từ 700 TWD, xấp xỉ 577.000 đồng ở thời điểm hiện tại.

Yến Nhi tổng hợp
Theo: VNExpress



MÓN THỊT HEO XAY, ĂN SỐNG CỦA NGƯỜI ĐỨC

Người Đức thích ăn "Mett" - loại bánh mì phết thịt heo sống - và nhận xét hương vị béo ngậy, tinh tế như pate cao cấp.


Mettbrotchen hay Mett là món ăn nhẹ truyền thống ở miền Bắc và miền Đông nước Đức. Món này đơn giản là nửa ổ bánh mì tròn (Brotchen) được phết lớp thịt heo xay sống, nêm muối, tiêu đen và hành tây băm nhỏ phía trên. Ở một số vùng phía Bắc, người ta còn gọi nó là Hackepeter nhưng hiện nay từ "Mett" thành cách gọi phổ biến nhất cả nước.

Từ "Mett" xuất phát từ tiếng Đức cổ, nghĩa chung là "thức ăn", cũng là nguồn gốc của từ "meat" trong tiếng Anh ngày nay. Ban đầu, từ này chỉ các loại thịt xay nhưng từ thế kỷ 19 trở đi, nó dần được dùng riêng cho thịt heo xay sống, được nêm gia vị sẵn.

Cách ăn phổ biến nhất là phết trực tiếp thịt sống lên bánh mì, tạo thành món Mettbrotchen nhiều người Đức yêu thích trong bữa sáng hoặc bữa nhẹ giữa ngày.

Những lát bánh mì phủ thịt sống làm món Mett. Ảnh: RP Online

Mettbrotchen từng có thời kỳ hoàng kim trong giai đoạn những năm 1950 đến 1970, trùng với giai đoạn "phép màu kinh tế" (Wirtschaftswunder) sau Thế chiến thứ hai. Khi đời sống người dân được cải thiện và thịt không còn là thực phẩm xa xỉ, thịt heo sống trở thành biểu tượng của sự sung túc.

Một số người từng thử nhận xét thịt heo sống có vị dễ ăn, béo ngậy hơn thịt bò sống rất nhiều, gần giống pate cao cấp nhưng tươi hơn. Khi kết hợp với bánh mì giòn, chút hành tây cay nồng và hạt tiêu đen mới xay, món ăn mang lại cảm giác "thuần khiết, mộc mạc", thể hiện trọn vẹn hương vị tự nhiên của thịt heo. Chính sự đơn giản đó đã giúp Mettbrotchen tồn tại qua nhiều thế hệ.

Trong chính trong thời kỳ này, món Mettigel - "con nhím thịt" nổi tiếng - ra đời và nhanh chóng trở thành tâm điểm của mọi bữa tiệc gia đình. Người ta nặn toàn bộ khối thịt heo sống thành hình con nhím, dùng những lát hành tây cắt khúc hoặc que bánh vòng cắm làm gai, đôi khi dùng olive đen làm mắt và mũi. Hình ảnh những chú nhím thịt màu hồng đặt giữa bàn tiệc đã trở thành một phần ký ức tuổi thơ của nhiều người Đức sinh ra trong khoảng những năm 1950-1970.


Ngày nay, dù lỗi thời so với ẩm thực hiện đại, Mettbrotchen vẫn hiện diện khắp nơi, đặc biệt ở Berlin và các thành phố miền Bắc. Du khách dễ dàng bắt gặp chúng ở hầu hết quầy thịt truyền thống, tiệm bánh mì, quán cà phê với những chiếc bánh làm sẵn từ sáng sớm.

Về mặt an toàn thực phẩm, thịt dùng để làm Mett tại Đức chịu sự kiểm soát nghiêm ngặt bậc nhất châu Âu. Pháp luật quy định thịt sống chỉ được phép bán và tiêu thụ trong cùng ngày xay, phải luôn được bảo quản lạnh cho đến lúc phục vụ. Bất kỳ phần thịt thừa nào còn lại cuối ngày đều phải được nấu chín, tuyệt đối không được bán sống vào hôm sau.

Dù vậy, cây viết Smith của Tasting Table tiết lộ quy trình kiểm soát ở một số cửa hàng không gắt như nhiều người vẫn nghĩ. Anh đã mua một phần Mett để ở nhiệt độ phòng nhưng may mắn không gặp vấn đề gì về tiêu hóa, ngộ độc.


Nhờ các tiêu chuẩn này kết hợp với việc kiểm soát ký sinh trùng Trichinella trong chăn nuôi hiện đại, nguy cơ từ thịt heo sống ở Đức đã giảm xuống mức rất thấp. Tuy nhiên, giống như mọi loại thực phẩm sống khác, Mett vẫn tiềm ẩn rủi ro vi khuẩn như salmonella, yersiniosis, campylobacter dù tỷ lệ thực tế thấp.

Hoài Anh / Theo: Tasting Table, German Culture
Link tham khảo: