Thursday, November 21, 2024

MÌ ĂN BẰNG CỌNG HÀNH THAY ĐŨA

Negi-soba là tên một loại mì nổi tiếng mà người ăn không dùng đũa, chỉ cần một cọng hành lá.

Bát mì soba với cọng hành dùng để xúc. Ảnh: Shockinjapan

Ở làng Ouchi-juku, thuộc vùng Aizu, thuộc tỉnh Fukushima, có một loại mì đặc biệt mà người dân luôn tự hào giới thiệu với du khách từ khắp nơi trên thế giới, đó là Negi-soba.

Soba là loại mì sợi nhỏ được làm từ bột kiều mạch, thường có màu nâu nhạt, dễ phân biệt với loại mì sợ to màu trắng là udon hay mì ramen màu vàng. Mì soba ở Ouchi-juku có sợi dai, thơm, hậu vị ngọt.

Negi theo tiếng Nhật có nghĩa là hành lá. Điều đặc biệt của Negi-soba là mì được ăn bằng chính cọng hành đó (một số nơi là tỏi tây), thay cho đôi đũa bình thường. Phần hành ăn sống có vị hăng, tưởng chừng khó ăn, nhưng được đánh giá phù hợp với soba.


Theo truyền thuyết, khi Hoàng tử Masayuki Hoshina từ Nagano, một trong những tỉnh lớn của Nhật Bản, trở về Aizu, ông đi cùng một quản gia thuộc gia tộc Takato ở tỉnh Nagano. Người quản gia này dùng củ cải trắng Nhật Bản làm đũa để ăn mì soba khiến cho người dân ở Aizu tò mò và thích thú. Cách ăn mì bằng củ cải nhanh chóng lan rộng khắp vùng Aizu.

Trong quá khứ, người dân Aizu cũng thường dâng soba kèm một nhánh hành nguyên vẹn như một món quà cho lãnh chúa. Họ cho rằng một cọng hành bị cắt ra đồng nghĩa với việc may mắn sẽ không còn nguyên vẹn. Người địa phương còn tin rằng nếu ăn mì bằng cọng hành dài, họ sẽ có lộc đường con cái.

Sau này, ông chủ nhà hàng Misawaya tại Ouchi-juku đã biến tấu món ăn, dùng hành làm đũa đồng thời làm gia vị chính cho món mì thêm đặc trưng.

Du khách thưởng thức Negi-soba bằng cọng hành. Ảnh: Japankuru

Ngày nay, Negi-soba là món địa phương nổi tiếng. Tháng 10 và tháng 11 là mùa thu hoạch kiều mạch để làm mì và là thời điểm tốt nhất để thưởng thức món ăn với hương vị tươi ngon nhất.

Bạn nên thử món ăn này ít nhất một lần khi đi du lịch đến Fukushima, một tỉnh ở vùng Tohoku trên đảo Honshu, cách thủ đô Tokyo khoảng 300 km. Ăn mì bằng một cọng hành thực sự là thử thách, bạn sẽ không thể gắp quá nhiều một lúc. Và tất nhiên, trong trường hợp bất tiện khi sử dụng cọng hành, bạn vẫn có thể yêu cầu nhà hàng cho thêm một đôi đũa.

Tâm Anh / Theo: VnExpress
Link tham khảo:



Wednesday, November 20, 2024

TAM NGỘ TRONG CUỘC ĐỜI: NGỘ ĐẠO, NGỘ MÌNH, NGỘ NGƯỜI

Người xưa có câu nói rằng: “Nửa đời mưa nửa đời lạnh”, ly rượu nâng nên uống nghĩ năm tháng như mộng phù du, nhìn lại nửa đời đã qua, bảy phần chua ba phần ngọt! Cuộc đời vốn dĩ là một hành trình cay đắng, nhìn lại nửa đời đầu chúng ta lớn lên trong mưa gió và trưởng thành trong những vũng lầy. Điều này đòi hỏi chúng ta phải có một thái độ tốt, đủ trí tuệ và hiểu biết để: Ngộ đạo, ngộ người và ngộ mình. Đạt được ba giác ngộ này là trạng thái cao nhất của cuộc sống!


Khổ đau nào cũng như khách qua đường, lội qua khó khăn của cuộc đời mới cảm nhận được vị ngọt của dòng suối mát nơi trần gian. Chính những đau khổ ấy giúp chúng ta mạnh mẽ hơn, khôn ngoan hơn, bình tĩnh hơn. Thành công lớn nhất trong đời là sống theo cách mình muốn bằng nỗ lực của bản thân.

1. Ngộ đạo

Nếu có cách mà không có kỹ năng, thì kỹ năng vẫn có thể được tìm kiếm, nhưng nếu có kỹ năng nhưng không có cách nào, nó chỉ dừng lại ở kỹ năng.

Đây là một câu thoại của Đinh Viên Anh trong phim truyền hình “Thiên đạo” nghĩa là: Người có đạo đức, biết tu dưỡng bản thân thì dù không có mánh khóe, thủ đoạn thì vẫn có thể có được nhờ học tập, nếu chỉ có mánh khóe, thủ đoạn mà người có đạo đức kém thì chỉ dừng lại ở thành tích hiện tại mà không thể tiến xa hơn được sẽ bị cả thế giới chỉ trích, tẩy chay và gạt sang một bên.


Cổ nhân nói: “Người thuận theo đất, đất thuận theo trời, trời thuận theo Đạo, Đạo thuận theo tự nhiên”

“Người nương nhờ đất, đất nương trời, trời nương nhờ Đạo, Đạo nương nhờ thiên nhiên.”

Việc chúng ta sử dụng những món quà của thiên nhiên, sử dụng trí tuệ, trí tuệ của con người để tạo ra của cải là điều dễ hiểu. Nhưng phải đi cùng đường, không được ngược đường chứ đừng nói là đi ngược lại quy luật tự nhiên, dùng mọi cách để đạt được mục đích, nếu không sẽ là con đường “thất bại”!

Điều mà Lão Tử nói là hãy để tự nhiên diễn ra. Sự phát triển của vạn vật đều có quy luật tự nhiên bất biến của nó, chúng ta chỉ có thể thành công nếu tôn trọng quy luật, tuân theo quy luật, nắm bắt quy luật để làm mọi việc.

Khi thế hệ trước giáo dục thế hệ sau, câu phổ biến nhất là: “Không đi ngược làm bất cứ điều gì, miễn là bạn đi xuống, nó sẽ không tồn tại lâu, và nó sẽ bị diệt vong.”

Chúng ta nên kính sợ “luật nhân quả”, mọi việc đều có nhân quả, “luật nhân quả” là quy luật mà mỗi chúng ta không thể tránh khỏi. Cái gọi là gieo dưa thì gặt dưa, gieo đậu thì gặt đậu, muốn có quả tốt thì phải gieo nhân tốt thì mới có quả tốt.

Làm người thì phải ngộ Đạo, hiểu luật, thuận theo tự nhiên, biết nhân quả, biết tương lai. Đạo là nguồn của vạn vật, đức là gốc của vạn vật.


2. Ngộ mình

Biết mình, có mục tiêu rõ ràng, biết tiến lùi, biết lựa chọn. Tự ngộ là hiểu mình, biết mình cho đúng. Hãy có những mục tiêu rõ ràng của riêng bạn trong cuộc sống, và biết khi nào nên tiến và khi nào nên rút lui. Hãy hiểu rằng cuộc đời là cuộc đời của “sự lựa chọn và đánh đổi”, có được và có mất.

Đánh giá cao một người khôn ngoan, biết những đâu là người tốt xấu. Cụm từ này xuất phát từ Đạo Đức Kinh của Lão Tử, có nghĩa là: Trí tuệ là khả năng hiểu người khác, và trí tuệ là khả năng hiểu chính mình.

Mọi người có sự hiểu biết về bản thân. Điều quan trọng nhất để một người tồn tại trong xã hội là hiểu chính mình. Hãy có nhận thức đúng và hiểu rõ về bản thân, đừng quá tham vọng và cũng đừng đánh giá thấp bản thân. Đừng nói là giả vờ hiểu biết, tìm kiếm sự thật từ bên ngoài mà trách nhiệm lớn nhất là đối với bản thân.

Biết rõ mình vô minh, thế giới rộng lớn, mình chỉ là giọt nước trong biển cả. Luôn duy trì tâm lý “cốc cạn” khiêm tốn để học hỏi người khác phát triển bản thân.


3. Ngộ người

Hiểu bản chất con người, phù hợp với bản chất con người, biết lời nói và hành động, biết điều thiện và điều ác. Bản chất của con người là sinh tồn, dục vọng và danh lợi là bản năng.

Lòng tốt là bản chất con người, xấu xa cũng là bản chất con người, tham lam là bản chất con người, ích kỷ cũng là bản chất con người, ham muốn quyền lực là bản chất con người, ghen tị cũng là bản chất con người… Không có bản chất tốt hay xấu tuyệt đối trong bản chất con người.

Aristotle nói: “Bản chất con người không thể thay đổi, nhưng nó có thể được cải thiện.”

Một người thành công cho biết: “Khả năng cạnh tranh cốt lõi của kinh doanh không phải là giá rẻ, mà là để thỏa mãn cảm giác lợi dụng của người dùng.”

Bản chất của con người là thích kiếm tiền, không chỉ người nghèo mà cả người bình thường cũng như người giàu. Đó là lý do tại sao “lòng tham” đã trỗi dậy!

Khi Tô Tần vận động hành lang thất bại trở về nhà, vợ anh không rời bàn dệt, chị dâu không nấu cơm cho anh, cha mẹ anh cũng không nói chuyện với anh, có thể nói là thế giới lạnh lùng.


Sau đó, Tô Trần đã vận động thành công cho Tể tướng của Lục quốc, khi một người hoặc hơn 10.000 người về nhà, ngôi nhà được trang trí bằng đèn lồng và dây hoa, đại bác và âm nhạc được bắn, và một bữa tiệc linh đình được tổ chức.

Dù trong lòng họ có sợ hãi, nhưng không thể không nói rằng bản chất con người là ghét nghèo và yêu giàu. Hiểu tính cách của một người, thiện và ác thông qua lời nói và hành động của họ là điểm quan trọng nhất để hiểu một người.

Thượng nhân tuân theo nhân tính, trung nhân lợi dụng nhân tính, hạ nhân phê phán nhân tính

Sự giác ngộ khiến chúng ta sợ thiên nhiên và tuân theo thiên nhiên. Trời lành, quân tử phấn đấu tự thân, địa là Khôn, quân tử lấy đức làm chủ.


Ở đời nên thuận theo “đạo trời”, lấy đức nuôi dưỡng tâm hồn mình, “đức” là cơn mưa trong lành và đẹp đẽ nhất trên đời. Nếu đức không tương xứng sẽ gặp tai họa. Không có đạo đức, mù quáng “đi ngược đường” chỉ có thể dẫn đến ngõ cụt.

Tự ngộ cho phép chúng ta biết mình một cách tỉnh táo, và luôn giữ một thái độ học tập khiêm tốn, khiêm tốn và vô tư. Hiểu người giúp chúng ta biết lời nói và việc làm, biết thiện và ác, hiểu bản chất con người, thuận theo bản chất con người và cuối cùng là kiểm soát bản chất con người.

Thanh Chân biên dịch
Nguồn: toutiao

GIANG THÔN TỨC SỰ - TƯ KHÔNG THỰ


Giang thôn tức sự
Tư Không Thự

Bãi điếu quy lai bất hệ thuyền,
Giang thôn nguyệt lạc chính kham miên.
Túng nhiên nhất dạ phong xuy khứ,
Chỉ tại lô hoa thiển thuỷ biên.


江村即事 - 司空曙

罷釣歸來不係船
江村月落正堪眠
縱然一夜風吹去
只在蘆花淺水邊


Tả xóm bên sông
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Con thuyền hờ hững bến sông,
Trăng lên sóng nước mênh mông ngủ vùi.
Dẫu cho cơn gió ngậm ngùi,
Bờ lau nước cạn, thuyền trôi mặc lòng.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tư Không Thự 司空曙 (720-790), tự Văn Minh 文明, người Quảng Bình 廣平 (nay thuộc tỉnh Hà Bắc, Trung Quốc), thi nhân đời Đường, là một trong "Đại Lịch thập tài tử". Ông có họ hàng gần với Lư Luân 盧綸 (cũng là một trong "Đại Lịch thập tài tử").

Nguồn: Thi Viện




KỲ LẠ LOÀI CÂY CỰC ĐỘC CÓ QUẢ PHÁT NỔ NHƯ LỰU ĐẠN

Đây được xem là một trong những loài cây nguy hiểm nhất hành tinh với gai nhọn dày đặc và chất độc cực mạnh.


Nếu có dịp tới các quốc gia ở Nam Mỹ, du khách có thể bắt gặp loài cây kỳ lạ có quả hình tròn to cứng, thường được trồng để lấy bóng mát.

Đây là loại cây được người dân địa phương khuyến cáo không nên tiếp xúc gần bởi chúng là một trong những loài thực vật nguy hiểm nhất hành tinh. Loài này có nhiều gai nhọn dày đặc, chất độc cực mạnh, đặc biệt quả có thể phát nổ như lựu đạn. Đó là cây vông đồng (Hura crepitans).

Tuy là loại thân gỗ mềm nhưng vông đồng được đánh giá "đầy bạo lực". Chúng có nhiều tên khác nhau, còn gọi là cây thuốc nổ, cây bã đậu, phát triển ở hầu hết các vùng nhiệt đới của châu Mỹ, châu Phi, châu Á, đặc biệt là rừng rậm Amazon. Chúng có thể cao tới 30m.

Theo các chuyên gia, mọi thứ về loại cây này đều nguy hiểm, từ gai nhọn, chất độc cho tới quả phát nổ.

Quả cây vông đồng khi còn xanh (Ảnh: Flickr).

Đầu tiên là thứ quả được ví như lựu đạn. Du khách dễ bị đánh lừa bởi hình dáng nhỏ nhắn xinh xắn như trái bí ngô của chúng. Thứ quả này cứng với khoảng 15-20 mảnh hình múi nổi tròn, hạt hình mắt chim, phía trên phủ lớp lông. Nhưng thực ra, nó giống như quả lựu đạn chờ phát nổ.

Khi bị va đập hay rơi mạnh từ trên cao xuống, hạt trong quả có thể văng ra xung quanh với vận tốc lên tới 70m/giây, âm thanh được so sánh với tiếng nổ của súng lục. Những mảnh vỡ có thể bay xa tới 45m. Điều này rất dễ làm tổn thương cho người hoặc gia súc đứng gần đó.

Thí nghiệm quả vông đồng khi bị va đập mạnh phát nổ như "lựu đạn" (Ảnh cắt từ clip).

May mắn là, người ta dễ dàng dự đoán khi nào chúng sẽ phát nổ. Chúng không "nổ" vào ban đêm hay những ngày ẩm ướt mà thường chọn ngày trời khô ráo, nhiệt độ cao. Đến giới hạn chúng khô tới mức các phần "múi" không gắn kết được nữa, sẽ tách nhau ra một cách dữ dội làm hạt bên trong bắn ra ngoài.

"Vũ khí" lợi hại tiếp theo của cây vông đồng là phần vỏ đầy gai, thậm chí được so sánh với thiết bị "tra tấn" thời Trung Cổ.

Xung quanh cây thường không có biển cảnh báo "cấm trèo" bởi những gai dài hơn 2,5cm bao phủ gần như kín thân. Đó là những chiếc gai hình nón, rộng hơn 1,2cm ở phần gốc và nhọn như đầu kim. Gai nhọn bao phủ từ trên xuống dưới gốc với mật độ dày đặc tới mức chúng chạm vào nhau, tạo thành "bộ áo giáp" không thể xuyên thủng.

Gai nhọn phủ kín từ trên cao xuống dưới gốc như "bộ áo giáp" (Ảnh: Trees).

Sự nguy hiểm không kém của loại cây này chính là chất độc cực mạnh. Quả vông đồng độc tới mức chỉ cần cắn một miếng sẽ gây ra nhiều triệu chứng như chuột rút dữ dội, nôn mửa và tiêu chảy.

Nhựa cây cũng là loại chất độc, tạo ra mẩn đỏ khó chịu nếu vô tình tiếp xúc trên da. Để nhựa dính vào mắt, nó có thể khiến bạn bị mù tạm thời. Người dân trên đảo Java, Indonesia, thường sử dụng nhựa cây làm thuốc trừ sâu, còn người Brazil từng dùng nước sắc từ vỏ trên thân với tác dụng tẩy mạnh. Tương tự, ở Congo, hạt cây cũng dùng làm thuốc tẩy.

Dù nguy hiểm nhưng ở nhiều nước tại Nam Mỹ, loài cây này được trồng nhiều để lấy bóng mát (Ảnh: WK).

Dù trong hạt vông đồng chứa 37% chất dầu béo, hơn 25% protein nhưng rất ít nước khai thác. Chúng chủ yếu để bón phân chứ không thể làm thức ăn cho gia súc vì quá độc.

Tại Tanzania ở Đông Phi, ban đầu, vông đồng được trồng làm cây bóng mát. Nhưng đến nay, chúng đã trở thành một loài xâm lấn. Các chuyên gia cũng khuyến cáo nên thận trọng khi tiếp xúc với loại cây này.

Huy Hoàng / Theo: Dân trí
Link tham khảo:

5 LOẠI RAU DÂN DÃ Ở VIỆT NAM THÀNH "THẦN DƯỢC" ĐẮT GIÁ TRÊN THẾ GIỚI

Có nhiều loại rau ở Việt Nam thường chỉ coi như rau ăn bình thường nhưng chúng lại là "thần dược" ở nhiều nước khác.


1. Rau càng cua

Rau càng cua mọc nhiều ở đất ruộng ẩm ướt. Nhiều người coi rau này là loại cỏ dại, mọc hoang, chỉ làm thức ăn cho gia súc mà không biết rằng rau càng cua còn có tác dụng làm thuốc chữa bệnh.


Ở các nước khác, rau càng cua lại rất được ưa chuộng, thường được dùng để chế biến thành nhiều món ăn vì những lợi ích y học kỳ diệu của nó. Hoạt chất chiết ra từ rau càng cua có tác dụng chống viêm, giảm đau nhức, kháng khuẩn. Rau càng cua còn làm thuốc chữa đau bụng, áp xe, mụn, bỏng nước, gout, thấp khớp...


Ở Philippines, người ta dùng lá càng cua đắp để điều trị ung nhọt và vết loét. Người dân Trung Quốc và Brazil dùng nước ép rau càng cua để trị bệnh viêm kết mạc. Còn người Java lại dùng loại rau này để trị sốt rét, đau đầu… Hiện nay, trên các trang mạng rau này được rao bán với giá từ 80.000 – 90.000 đồng/kg khu vực phía Nam còn tại Hà Nội rau này được rao bán với giá khoảng 100.000 đồng/kg.

2. Rau dền com và dền đỏ


Rau dền cơm và dền đỏ ở Việt Nam trồng rất phổ biến, được bán với giá rất rẻ và chỉ được coi là thứ rau dân dã. Tuy nhiên, loại rau này rất được thế giới ưa chuộng, nhất là vùng Trung Quốc, Ấn Độ và Hy Lạp. Nó được thế giới ca ngợi là loại rau trường thọ bởi công dụng đứng đầu bảng các nhóm rau.


Rau dền có vị ngọt, tính mát, có tác dụng lợi tiểu, sát trùng, giải độc. Trong lá rau chứa hàm lượng vitamin A, B, C, nhiều protid đặc biệt là lysin với hàm lượng cao hơn bắp, lúa mì và đậu tương.


Rau dền luộc ăn và uống cả nước giúp thông tiểu, nhuận trường, chữa táo bón, kiết lỵ, dị ứng, mẩn ngứa, côn trùng đốt. Sử dụng hoa và hạt rau dền có tác dụng chữa phong nhiệt, mắt mờ. Tại Nigeria, rau dền cơm được bào chế thành dịch truyền vào máu để thanh lọc máu. Một số trung tâm nghiên cứu trên thế giới còn bào chế rau dền cơm thành loại em bôi điều trị viêm nhiễm mắt, thuốc động kinh và thuốc chống co giật.

3. Rau sam


Dù được gọi là rau, nhưng ở Việt Nam, người ta thường chỉ coi cây sam như là rau dại, mọc đầy ở trong vườn, ven đường, bờ ruộng và chỉ dùng như một loại rau ăn lá rất hạn chế, thậm chí ở nhiều nơi còn dùng làm thức ăn cho bò.


Đây là một loại cây mọng nước, thân bò sát mặt đất với màu hơi hồng đỏ, trơn nhẵn với các lá mọc đối thành cụm tại các đốt hay đầu ngọn, hoa sam màu vàng hoặc đỏ rất đẹp.


Rau sam có vị đặc trưng, thanh và hơi chua. Theo nghiên cứu của các nhà khoa học Mỹ và Úc, trong rau sam có chứa nhiều axit béo omega-3 hơn các loại rau ăn lá khác. Đây cũng là loại rau chứa nhiều loại vitamin cũng như các chất khoáng dinh dưỡng như magiê, canxi, kali và sắt. Chính vì những thành phần bổ dưỡng trên, mà rau sam được coi là một loại thảo dược quý chữa nhiều bệnh như chữa mụn nhọt lở loét, đau răng, chữa trị mẩn ngứa ngoài da, viêm nhiễm đường tiết niệu, các chứng lỵ, giun sán đường ruột, đầy bụng, trướng bụng...

4. Rau dừa nước


Loại rau này có thân xốp giúp cho thân cây nổi trên mặt nước, mọc hoang nhiều ở ruộng, ao đầm, mương. Rau dừa nước có giá trị dinh dưỡng khá cao, chứa nhiều protid, glucid, chất xơ, canxi, photpho, sắt, carotene, vitamin C, flavonoit và tanin.


Rau có vị ngọt nhạt, tính mát, tác dụng thanh nhiệt giải độc, lợi tiểu còn dùng chữa cảm sốt, đau bụng, dùng ngoài giã nhuyễn đắp trị rắn cắn, mụn nhọt, sưng lở. Mọi người có thể ăn kèm rau với mắm kho hoặc luộc, nấu canh.

5. Rau tầm bóp


Ở Việt Nam, quả tầm bóp được xem như là một quả dại, mọc lan ở khắp các ruộng lúa ở vùng nông thôn. Nhưng ở Nhật Bản, đây là một thứ quả khá đắt. Tính theo giá thành ghi trên bao bì, 1kg quả tầm bóp có giá bán lên tới 700.000 đồng, thậm chí còn đắt đỏ hơn giá của nhiều loại hoa quả nhập khẩu về Việt Nam như cherry Mỹ, hồng California, mận Mỹ,... Quả tầm bóp tại Nhật thường được người dân mua về ăn hoặc nấu canh.


Theo Đông y, cây tầm bóp vị đắng, tính mát, không độc, tác dụng thanh nhiệt lợi thấp, khu đàm, chỉ khái, nhuyễn kiên tán kết. Quả tầm bóp vị chua, tính bình tác dụng thanh nhiệt, tiêu đờm. Ở Ấn Độ, người ta sử dụng toàn thân cây tầm bóp làm thuốc lợi tiểu. Nó còn có tác dụng trong điều trị bệnh đái tháo đường.

Theo: VOV

Tuesday, November 19, 2024

KIM DUNG TOAN TÍNH ĐIỀU GÌ KHI ĐỂ DƯƠNG QUÁ LUI VỀ Ở ẨN?

Sau khi lập nên kỳ tích đánh bại quân Mông Nguyên, Dương Quá và Tiểu Long Nữ đã bất ngờ rút lui khỏi giang hồ, để lại nhiều dấu hỏi lớn trong lòng độc giả. Liệu có phải đằng sau quyết định này còn ẩn chứa những bí mật nào khác?


Dương Quá - Từ thanh niên hiếu thắng đến quyết định rút lui bí ẩn

Kim Dung là tác giả của 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, trong đó Xạ Điêu Tam Khúc là bộ truyện khiến độc giả nhớ mãi không quên. Xạ Điêu Tam Khúc gồm Anh Hùng Xạ Điêu, Thần Điêu Hiệp Lữ và Ỷ Thiên Đồ Long Ký, kể về những ân oán tình thù giữa các môn phái võ lâm Trung Nguyên và cuộc chiến chống giặc ngoại xâm đầy cam go, thử thách.

Bên cạnh đó, nhân vật chính của thời kỳ Anh Hùng Xạ Điêu – Quách Tĩnh cũng xuất hiện trong Thần Điêu Hiệp Lữ với câu nói bất hủ "Hiệp chi đại giả, vi quốc vi dân" (Người có tinh thần nghĩa hiệp là người vì nước vì dân) đã thức tỉnh Dương Quá. Chính nghĩa khí của Quách Tĩnh đã cảm hóa Dương Quá, giúp chàng từ bỏ lòng thù hận để trở thành một đại hiệp trừ gian diệt bạo.

Kim Dung là tác giả của 15 bộ tiểu thuyết võ hiệp nổi tiếng, trong đó Xạ Điêu Tam Khúc là bộ truyện nổi tiếng nhất. (Ảnh: Sohu)

Sau khi Kim Luân Pháp Vương bị đánh bại, Mông Kha tử trận, quân Mông Nguyên không còn người chỉ huy đành phải rút lui, 13 năm sau mới dám quay trở lại xâm phạm Trung Nguyên. Lúc bấy giờ, thành Tương Dương đã trở lại yên bình, Dương Quá cùng Tiểu Long Nữ từ biệt mọi người, lui về ở ẩn.

Kim Dung không hề nhắc thêm gì về Dương Quá và Tiểu Long Nữ nữa, tất cả chỉ được gói gọn trong câu nói của Hoàng Sam nữ tử: "Thần điêu hiệp lữ, tuyệt tích giang hồ".

Sự vắng mặt của Dương Quá và sự trỗi dậy của những thế lực mới

Liệu có ẩn tình nào phía sau cái kết viên mãn cho cặp đôi Dương Quá – Tiểu Long Nữ hay đây là một toan tính đầy ẩn ý của nhà văn Kim Dung nhằm tạo nên những diễn biến kịch tính cho các tác phẩm sau này?

Như chúng ta đã biết, Kim Dung thường dựa trên những sự kiện có thật trong lịch sử để xây dựng nên tác phẩm của mình. Cái chết của Mông Kha và việc thành Tương Dương thất thủ 13 năm sau là những sự kiện tất yếu phải xảy ra. Chính vì vậy, Kim Dung buộc phải để Dương Quá và Tiểu Long Nữ lui về ở ẩn, hơn nữa sau khi rời đi, hai người họ hoàn toàn biến mất khỏi giang hồ, đến mức Quách Tương suốt 24 năm tìm kiếm cũng không thấy bất kỳ tung tích nào.

Ngược lại, nếu Quách Tương thực sự tìm được Dương Quá, với tính cách của mình, khi biết được quân Mông Nguyên xâm lược Trung Nguyên, biết Quách Tĩnh gặp nguy hiểm, Dương Quá chắc chắn sẽ cùng Tiểu Long Nữ tái xuất giang hồ.

Quách Tương suốt 24 năm tìm kiếm cũng không thấy bất kỳ tung tích nào của Dương Quá. (Ảnh: Sohu)

Và lúc này, nhờ được Thần Điêu chỉ điểm ăn nhiều mật rắn, lại trải qua 16 năm khổ luyện võ công trong dòng nước xiết, Dương Quá sở hữu nội lực thâm hậu kinh người. Chính Dương Quá là người đã dùng 3 viên đá bắn chết Mông Kha, giải vây cho thành Tương Dương.

Điều này đã được miêu tả rõ qua đoạn: "Dương Quá cầm hai hòn đá, vận lực ném ra ngoài. Chỉ nghe thấy tiếng 'vèo vèo', hai hòn đá đều đánh trúng vào mông ngựa Phi Vân Truy. Con ngựa đau, hí vang một tiếng, hai chân trước nhấc lên, người cưỡi ngựa đứng bật dậy. Mông Kha cả đời sống trên lưng ngựa, quen với đao thương, lúc này gặp phải biến cố, nhưng cũng không hề hoảng loạn, giương cung lắp tên, hai chân kẹp chặt bụng ngựa, quay người lại bắn về phía Dương Quá một phát tên. Dương Quá cúi đầu tránh né, phi thân tới, tay đã nhặt một hòn đá to bằng nắm tay, hét lớn một tiếng ném ra, trúng ngay tim Mông Kha. Lực ném của Dương Quá mạnh đến mức Mông Kha gãy xương, đứt gân, ngã lăn xuống ngựa, chết ngay lập tức."

Theo những phân tích trên Sohu và Sina, thực chất, việc để Dương Quá sớm lui về ở ẩn chính là một cách sắp đặt đầy tinh tế của Kim Dung. Bởi nếu Dương Quá không rời đi, 2 "thế lực" này sẽ không thể dễ dàng xuất hiện. Họ là những nhân vật nào?

Hốt Tất Liệt

Như đã nêu ở trên, nếu có thể một mình một ngựa xông pha trận mạc, bắn chết Mông Kha giữa hàng vạn quân, thì Dương Quá cũng hoàn toàn có thể tiêu diệt Hốt Tất Liệt. Tuy nhiên, việc Hốt Tất Liệt san bằng thành Tương Dương là một sự thật lịch sử không thể thay đổi, vì vậy, Kim Dung chỉ có thể để Dương Quá lui về ở ẩn, từ đó biệt tích giang hồ.

Việc Hốt Tất Liệt san bằng thành Tương Dương là một sự thật lịch sử không thể thay đổi. (Ảnh: Sohu)

Bách Tổn đạo nhân

Sang đến thời đại Ỷ Thiên Đồ Long Ký, xuất hiện một loại võ công cực kỳ âm độc gọi là Huyền Minh Thần Chưởng. Trương Vô Kỵ lúc 10 tuổi đã bị người ta đánh lén trong lúc hỗn loạn, trúng phải chưởng lực của Huyền Minh Thần Chưởng vốn đã thất truyền từ lâu.

Thấy Trương Vô Kỵ thoi thóp, Trương Tam Phong dùng hết nội công của mình, cố gắng dùng Cửu Dương Thần Công để loại bỏ hàn độc trong cơ thể Trương Vô Kỵ. Điều khiến Trương Tam Phong không ngờ tới chính là Huyền Minh hàn độc vô cùng lợi hại, ông phải cho người đốt lửa than sưởi ấm cho Trương Vô Kỵ, đồng thời cho Tống Viễn Kiều, Du Liên Châu thay phiên truyền nội lực, lúc này mới giữ được tính mạng cho Trương Vô Kỵ.

Tuy nhiên, mỗi khi nhắc đến Bách Tổn đạo nhân, Trương Tam Phong đều nhíu mày: "Ta cứ tưởng 30 năm trước Bách Tổn đạo nhân chết đi, thì môn võ công Huyền Minh Thần Chưởng âm độc này cũng thất truyền theo, nào ngờ trên đời này vẫn còn người biết sử dụng môn võ công này. Trương Thúy Sơn à Trương Thúy Sơn, con bái ta làm sư phụ, lúc sắp đi còn giao phó con trai cho ta, vậy mà ta lại không bảo vệ nổi con trai duy nhất của con, ta sống đến trăm tuổi thì có ích gì? Võ Đang phái vang danh thiên hạ thì có ích gì? Ta còn không bằng chết đi cho xong!"

Có ý kiến cho rằng, cái chết đột ngột của Quách Tương có liên quan đến Bách Tổn đạo nhân. Để trừ gian diệt bạo, Quách Tương đã giết chết Bách Tổn đạo nhân, nhưng bản thân nàng cũng bị thương, sau đó lâm bệnh mà qua đời.

Nếu Dương Quá không sớm lui về ở ẩn, có lẽ đã không đến lượt Bách Tổn đạo nhân hoành hành. (Ảnh: Sohu)

Nếu Dương Quá không sớm lui về ở ẩn, có lẽ đã không đến lượt Bách Tổn đạo nhân hoành hành.

Tóm lại, Kim Dung đã khéo léo mượn việc Dương Quá, Tiểu Long Nữ lui về ở ẩn để khiến Quách Tĩnh tử trận dưới tay Hốt Tất Liệt, từ đó tạo tiền đề cho sự xuất hiện của Bách Tổn đạo nhân.

Vậy rốt cuộc Dương Quá đã đi đâu? Liệu chàng có biết những biến động lớn lao trên giang hồ hay không? Liệu vị đại hiệp này có biết Hốt Tất Liệt đã quay trở lại xâm lược Trung Nguyên hay không?

Lý giải cho quyết định lui về ở ẩn của Dương Quá

Trên thực tế, cho dù Dương Quá có biết tất cả mọi chuyện, chàng cũng chưa chắc đã tái xuất giang hồ. Kim Dung xây dựng hình tượng Dương Quá là một người kiêu ngạo, bất cần đời. Ngay từ khi ở Tuyệt Tình cốc, Dương Quá đã từng nói với Tiểu Long Nữ rằng: "Qua mấy tháng nữa, khi nào thân thể nàng khỏe lại, chúng ta sẽ cùng nhau về phương Nam. Ta nghe nói vùng đất phương Nam quanh năm ấm áp như mùa xuân, hoa nở quanh năm, cây cối xanh tươi, chúng ta sẽ không động đến kiếm đao nữa, mua một mảnh đất, nuôi gà nuôi vịt, cùng nhau sống những ngày tháng an nhàn, nàng thấy có được không?"

Kim Dung đã đưa ra lý do hợp tình hợp lý cho việc Dương Quá rời đi, bởi vì chàng và Tiểu Long Nữ đã phải chịu đựng 16 năm xa cách. (Ảnh: Sohu)

Tiểu Long Nữ mơ màng tưởng tượng, khẽ nói: "Không bao giờ phải động đến kiếm đao nữa, vậy thì tốt biết mấy! Sẽ không còn ai tấn công chúng ta, chúng ta cũng không cần phải đánh ai nữa, mua một mảnh đất, nuôi gà nuôi vịt… Haizz, giá như ta có thể trường sinh bất lão…"

Mặc dù Kim Dung đã đưa ra lý do hợp tình hợp lý cho việc Dương Quá rời đi, bởi vì chàng và Tiểu Long Nữ đã phải chịu đựng 16 năm xa cách, cả hai đều có quyền được tiếp tục tận hưởng tình yêu mà mình vất vả lắm mới có được. Thế nhưng, sự sắp xếp này lại khiến Quách Tương chịu nhiều khổ cực, dù nàng có lặn lội đến đâu, nàng cũng không tìm được Dương Quá, bởi vì Dương Quá sẽ không bao giờ xuất hiện nữa, nếu không sẽ phá hỏng mạch truyện của những tác phẩm sau này.

PV (Theo Phụ nữ số)

ẨM MÃ TRƯỜNG THÀNH QUẬT HÀNH - THÁI UNG


Ẩm mã Trường Thành quật hành

Thanh thanh hà biên thảo,
Miên miên tư viễn đạo.
Viễn đạo bất khả tư,
Túc tích mộng kiến chi.
Mộng kiến tại ngã bàng,
Hốt giác tại tha hương.
Tha hương các dị huyện,
Triển chuyển bất khả kiến.
Khô tang tri thiên phong,
Hải thuỷ tri thiên hàn.
Nhập môn các tự mị,
Thuỳ khẳng tương vi ngôn!
Khách tòng viễn phương lai,
Di ngã song lý ngư.
Hô nhi phanh lý ngư,
Trung hữu xích tố thư.
Trường quỵ độc tố thư,
Thư trung cánh hà như.
Thượng hữu gia xan thực,
Hạ hữu trường tương ức!


飲馬長城窟行

青青河邊草
綿綿思遠道
遠道不可思
宿昔夢見之
夢見在我傍
忽覺在他鄉
他鄉各異縣
展轉不可見
枯桑知天風
海水知天寒
入門各自媚
誰肯相為言
客從遠方來
遺我雙鯉魚
呼兒烹鯉魚
中有尺素書
長跪讀素書
書中竟何如
上有加餐食
下有長相憶


Cho ngựa uống ở Trường Thành
(Dịch tho: Điệp Luyến Hoa)

Xanh xanh cỏ trên bãi,
Miên man nhớ góc trời.
Xa xôi nhớ không tới,
Sớm tối mộng gặp người.
Trong mộng người như cạnh,
Tỉnh dậy đã xa rồi.
Trăn trở khôn cách gặp,
Hai kẻ cách đôi nơi.
Dâu khô hay gió lạnh,
Nước biển biết khí trời.
Kẻ về vui chồng vợ,
An ủi nào có ai!
Khách từ phương xa tới,
Tặng cá chép một đôi.
Gọi trẻ ra mổ cá,
Trong một tấm thư dài.
Mở thư ngồi đọc mãi,
Như xưa, vẫn những lời.
Trên đề tự chăm sóc,
Dưới viết nhớ mong hoài.


Ghi chú:

Bài thơ này trong Văn tuyển ghi là nhạc phủ cổ từ, Ngọc đài tân vịnh đề là Thái Ung làm, Nhạc phủ thi tập xếp vào Tương họa ca từ.

Về xuất xứ và ý nghĩa của đề mục, Văn tuyển viết: Trường Thành xây từ đời Tần để phòng bị giặc Hồ, bên dưới có hang suối có thể cho ngựa uống. Cho ngựa uống (ẩm mã) và Trường Thành là sinh hoạt thường nhật của lính thú thời xưa, đề mục phiếm chỉ nỗi lòng tương tư của lính thú và vợ con nơi quê nhà.

Nội dung bài thơ miêu tả nỗi nhớ của người vợ đối với chồng biên thú, lời lẽ và ý tứ đều khúc chiết. Mở đầu là cảnh người chinh phụ nhìn cỏ bãi miên man vô hạn rồi liên tưởng tới nỗi nhớ của mình cũng dằng dặc không dứt như vậy. Phần cuối chuyển sang việc nhận được thư của chồng, vẫn những lời dặn dò quan tâm không dứt và nỗi nhớ nhung da diết, lời lẽ nửa hư nửa thực thể hiện lòng mong mỏi và hoài tưởng. Mở đầu và kết thúc của bài thơ đều miên man vô tận.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Thái Ung 蔡邕 (132-192) tự là Bá Giai 伯喈 người Trần Lưu (nay thuộc tỉnh Hà Nam) đời Đông Hán. Đời Hán Hiến Đế 漢獻帝 ông làm Tả trung lang tướng nên còn thường được gọi là Thái Lang Trung. Ông là người bác học đa tài, giỏi từ phú, tản văn, thư pháp, tinh thông âm nhạc, thuật số, thiên văn,...

Sách Tam quốc chí dẫn Hậu Hán thư viết sau khi Đổng Trác 董卓 bị giết, chỉ có mình ông ôm xác mà khóc, quan Tư đồ Vương Doãn 王允 nhìn thấy hỏi tại sao khóc, ông nói vì ơn tri ngộ. Vương Doãn sai đem giết, ông xin tha mạng để chép tiếp pho sử, mọi người cũng tiếc tài ông mà can ngăn. Vương Doãn nói xưa Tư Mã Thiên vì không bị giết mà để lại Sử ký, nay vận nước rối ren mà để ông cầm bút bên cạnh ấu chúa thì thực tai hại, vì thế sai người giam ông vào ngục rồi bắt thắt cổ chết.

Nguồn: Thi Viện