Tuesday, September 16, 2025

KHÁM PHÁ 10 ĐIỀU THÚ VỊ VỀ TÂN CƯƠNG

Đối với rất nhiều người trên thế giới, Tân Cương có lẽ là một khu vực bí ẩn nhất ở Trung Quốc thu hút nhiều du khách khám phá, tìm hiểu.


Không chỉ nổi tiếng với Con đường Tơ Lụa huyền thoại và quê hương của những mỹ nhân tuyệt sắc, Tân Cương còn hấp dẫn du khách bởi khung cảnh thiên nhiên thơ mộng và nền văn hóa đậm đà bản sắc. Cùng Riba khám phá những điểm đặc biệt của vùng đất này trong bài viết dưới đây.

Khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc

TÂN CƯƠNG THUỘC TỈNH NÀO CỦA TRUNG QUỐC?

Tân Cương, Tân Cương (Xinjiang) là một khu tự trị, không phải là một tỉnh của Trung Quốc. Tên chính thức là Khu Tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương, là một vùng đất rộng lớn nằm ở phía Tây Bắc Trung Quốc, với thủ phủ là thành phố Ürümqi. Đây là nơi sinh sống của nhiều dân tộc, trong đó có người Duy Ngô Nhĩ, người Hán và các dân tộc khác, tạo nên sự đa dạng văn hóa và ngôn ngữ với tiếng Duy Ngô Nhĩ, tiếng Hán, tiếng Kazakh, tiếng Kyrgyz, tiếng Mông Cổ, tiếng Orirat cùng nhiều ngôn ngữ khác.

Tân Cương nổi bật với cảnh quan tuyệt đẹp suốt bốn mùa, mỗi mùa mang đến những trải nghiệm du lịch độc đáo khác nhau. Với diện tích lớn, Tân Cương là một trong năm khu tự trị lớn nhất Trung Quốc, được thiết lập dành cho các tộc người thiểu số.

Nằm ở vị trí chiến lược, Tân Cương không giáp biển nhưng tiếp giáp với 8 quốc gia châu Á gồm Nga, Mông Cổ, Kazakhstan, Kyrgyzstan, Tajikistan, Afghanistan, Pakistan và Ấn Độ, có đường biên giới dài tới 5.700 km.

Trước kia, vùng đất này được gọi là Tây Vực và chỉ đổi tên thành Tân Cương vào cuối thời nhà Thanh. Tân Cương còn nổi tiếng là một phần quan trọng của Con đường Tơ lụa cổ xưa, nối liền Trường An (nay là Tây An) với các nước châu Âu.

TÂN CƯƠNG CÓ PHẢI LÀ TÂY TẠNG KHÔNG?

Câu trả lời là Không. Tân Cương và Tây Tạng là hai khu vực khác nhau ở Trung Quốc. Mặc dù cả hai đều là khu tự trị và có địa vị đặc biệt trong hệ thống hành chính của Trung Quốc, nhưng chúng khác biệt về vị trí địa lý, văn hóa, dân tộc và lịch sử.

  • Tân Cương (Khu tự trị Duy Ngô Nhĩ Tân Cương) nằm ở phía Tây Bắc Trung Quốc, giáp với nhiều quốc gia Trung Á như Kazakhstan, Kyrgyzstan, và Tajikistan. Dân tộc chính ở đây là người Duy Ngô Nhĩ, cùng với người Hán và nhiều dân tộc khác.

  • Tây Tạng (Khu tự trị Tây Tạng) nằm ở phía Tây Nam Trung Quốc, giáp với Ấn Độ, Nepal, và Bhutan. Đây là vùng đất chủ yếu của người Tạng (Tibetan) với văn hóa Phật giáo Tạng truyền thống.

Mặc dù cả hai khu vực đều có vị trí chiến lược và đa dạng văn hóa, chúng có nền tảng dân tộc và lịch sử phát triển rất khác nhau.

TÂN CƯƠNG CHẠY TRÊN 2 KHU VỰC THỜI GIAN KHÁC NHAU

Trước năm 1949, Trung Quốc đã bị chia thành nhiều múi giờ. Thành phố Kashgar có múi giờ chậm hơn 2.5 giờ, mặc dù chỉ cách Bắc Kinh khoảng 3.500m. Đến năm 1949 dưới thời Mao Trạch Đông, các múi giờ khác nhau đã bị xóa và toàn bộ Trung Quốc chỉ sử dụng chung một múi giờ.

Tân Cương, Trung Quốc

Và từ đó những tháng mùa hè ở Kashgar Mặt Trời có thể không lặn cho đến 10 giờ tối theo giờ Bắc Kinh, nhưng thực chất giờ địa phương thì chỉ là 8:30 tối.

Bạn sẽ thấy nhiều người địa phương ở đay đặt đồng hồ của họ theo giờ Tân Cương. Mặc dù tất cả các hoạt động kinh doanh chính thức đều chạy trên giờ Bắc Kinh.

CÓ ĐƯỜNG BIÊN GIỚI GIÁP VỚI 8 QUỐC GIA

Tân Cương giáp nhiều quốc gia hơn bất kỳ khu vực nào khác của Trung Quốc. Các quốc gia này là:
  • Mongolia
  • Russia
  • Kazakhstan
  • Kyrgyzstan
  • Tajikistan
  • Afghanistan
  • Pakistan
  • India

CÓ NHIỀU SÂN BAY NHẤT Ở TRUNG QUỐC

Tổng cộng Tân Cương hiện có 22 sân bay. Tuy nhiên, không phải tất cả các sân bay này đều vận chuyển hành khách hằng ngày. Một số sân bay lập ra với mục đích chính là phục vụ quân đội.

Tân Cương là nơi có nhiều sân bay nhất Trung Quốc

URUMQI LÀ THÀNH PHỐ THU HÚT KHÁCH DU LỊCH NHẤT

Tại Tân Cương, thành phố Urumqi hoạt động du lịch vô cùng sôi động đặc biệt là thành phố Urumqi. Khách du lịch kéo đến đây ngày càng nhiều khiến không khí thành phố thêm phần nào nhiệt. Điển hình là chợ Grand Bazaar, nơi được ví von là “phiên chợ Ba Tư” của nghìn năm trước.

Nơi đây tập trung nhiều sản vật nổi tiếng của vùng Tân Cương. Tựa như hang động của 40 tên cướp, vàng bạc đá quý ở đây khiến du khách hoa cả mắt. Đồng thời đây cũng là nơi hội tụ các hoạt động văn hóa mang đậm bản sắc vùng Trung Á.

Khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc

THIÊN NHIÊN LÀM SAY LÒNG NGƯỜI

Khu ngự trị Tân Cương đặc biệt thu hút khách du lịch ở chỗ, vẻ đẹp của nó ẩn thấp thoáng của một vùng thảo nguyên Mông Cổ, một chút vẻ đẹp của núi rừng Thụy Sĩ, một chút Trung Đông như những ngôi chợ nhiều màu sắc, hay cả hồ nước xanh như ngọt ở Tajikistan.


VƯƠNG QUỐC CỦA CÁC LOẠI TRÁI CÂY

Khi du lịch Tân Cương, bạn sẽ được thưởng thức nhiều hoa thơm trái ngọt. Vùng này có rất nhiều loại trái cây như táo, hạnh, lê, và các loại dưa của vùng Trung Á.

Chỉ riêng nho đã có đến 16 loại khác nhau. Nếu đến đây vào mùa xuân hay những tháng mùa hè, bạn còn được ngắm hoa đào, hoa mận, hoa hạnh nở trắng cả một vùng cao nguyên rộng lớn.

Khu tự trị Tân Cương, Trung Quốc

TÂN CƯƠNG CÓ QUÁI VẬT LOCH NESS RIÊNG

Hầu hết mọi người đều đã nghe nói về Quái vật Loch Ness, nhưng ít người biết rằng Tân Cương cũng có một sinh vật biển huyền thoại tại hồ Thiên Trì – hồ nước tuyệt đẹp nằm ngay ở thủ phủ Uruqi.

Một vài người từng thấy quái vật mô tả lại rằng, thân nó như con trâu nước, đầu to như cái vại, di chuyển nhanh, tạo ra vệt nước dài phía sau. Tuy nhiên thật hư về con quái vật này vẫn ở trong màn bí mật, tiếp tục thu hút khách du lịch đến hồ với mong muốn có thể gặp quái vật này.

Tân Cương là quê hương của nhiều mỹ nhân tuyệt sắc

TẠI SAO CON GÁI TÂN CƯƠNG ĐẸP?

Con gái Tân Cương thường được ca ngợi là đẹp nhờ sự kết hợp độc đáo của nhiều yếu tố về di truyền, văn hóa và địa lý. Vẻ đẹp của họ thường được mô tả là sự pha trộn hài hòa giữa các đặc điểm Á-Âu do sự giao thoa dân tộc lâu đời trong khu vực.

Dưới đây là một số lý do khiến con gái Tân Cương được nhiều người coi là đẹp:
  1. Đặc điểm di truyền độc đáo: Tân Cương là nơi sinh sống của nhiều dân tộc, đặc biệt là người Duy Ngô Nhĩ, có nguồn gốc hỗn hợp từ cả Trung Á, Đông Á và Tây Á. Điều này dẫn đến sự pha trộn về ngoại hình với các nét như làn da trắng mịn, sống mũi cao, đôi mắt sâu và to, cũng như các đặc điểm sắc sảo pha lẫn giữa Á và Âu.

  2. Văn hóa và truyền thống: Con gái Tân Cương thường rất tự hào về di sản văn hóa của mình và thể hiện qua cách ăn mặc truyền thống đầy màu sắc, phong cách trang điểm tinh tế và cử chỉ thanh lịch. Trang phục truyền thống như váy áo nhiều họa tiết kết hợp với khăn quấn đầu hoặc phụ kiện độc đáo cũng tạo nên sự quyến rũ đặc trưng.

  3. Sự tự nhiên và khỏe mạnh: Tân Cương có khí hậu khô và trong lành, nhiều vùng đất tự nhiên với thảo nguyên và núi non, giúp người dân ở đây có một lối sống lành mạnh và vẻ đẹp tự nhiên. Điều kiện sống này góp phần tạo nên vẻ ngoài khỏe khoắn, làn da căng bóng và dáng vóc cân đối của phụ nữ Tân Cương.

  4. Ảnh hưởng từ các nền văn hóa khác nhau: Với vị trí chiến lược trên Con đường Tơ lụa, Tân Cương là điểm giao thoa của nhiều nền văn hóa khác nhau, từ Trung Á, Ả Rập đến Trung Quốc và Tây Âu. Sự đa dạng này đã tạo nên nét đẹp vừa cổ điển vừa hiện đại, với nhiều phong cách khác nhau.
Chính sự kết hợp hài hòa giữa nhiều yếu tố di truyền và văn hóa đã tạo nên vẻ đẹp độc đáo, hấp dẫn của con gái Tân Cương, khiến họ nổi tiếng không chỉ ở Trung Quốc mà còn trên toàn thế giới.

Theo: Riba.vn



3 VỊ HOÀNG ĐẾ CUỐI CÙNG ĐỜI NHÀ THANH ĐỀU KHÔNG CÓ CON, TÊN GỌI ẨN DẤU HUYỀN CƠ

Đại sự trong thiên hạ phân phân hợp hợp, ngươi kết thúc vai diễn, ta lại lên sân khấu, thủy triều lên xuống u minh đều là đã có định số cả rồi.


Từ khi nhà Thanh thành lập cho đến khi nhà Thanh sụp đổ, có rất nhiều điều trùng hợp xảy ra như: “Quả phụ, cô nhi dành lấy thiên hạ, hay quả phụ, cô nhi đánh mất thiên hạ”, điều này được khẳng định tại Thuận Trì Hoàng đế – Hiếu Trang Thái hậu cùng Tuyên Thống Hoàng đế cùng Long Dụ Thái hậu

“Thành cũng bởi Nhiếp Chính Vương, bại cũng Nhiếp Chính vương” được khẳng định bởi Nhiếp chính vương Đa Nhĩ Cổn, người dẫn đầu Thanh triều nhập quan cùng với Nhiếp chính vương Tái Phong, người nắm quyền vào cuối triều đại nhà Thanh.

Khi mà nhà Thanh nhập quan là người Phúc Kiến Hồng Thừa Trù vì nhà Thanh mà lo liệu, đến khi nhà Thanh diệt vong cũng là người Phúc Kiến Trịnh Hiếu Tư mang theo Tuyên Thống Hoàng đế chạy khỏi Bắc Kinh.

Ngoài những sự trùng hợp thú vị này ra, vào những năm cuối đời nhà Thanh còn có một sự kiện thú vị khác, liên quan đến 3 đời Hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh.

Ảnh: Chuông nghi thức Rồng bằng đồng phủ vàng, cực kì quý hiếm, chế tác vào năm Khang Hy thứ 55(flickr). Nguồn: Soundofhope

Cần phải bắt đầu câu chuyện từ một tập tục

Trong văn hóa phương Tây, việc đặt tên thế hệ trẻ bằng tên của những người lớn tuổi thể hiện một sự tôn trọng.

Ngược lại, trong văn hóa Đông Phương, việc gọi hoặc viết trực tiếp tên của trưởng bối lại là hành động thiếu tôn trọng, vì vậy nên có tập tục “nói tránh”.

Nguyên tắc kiêng kỵ chung là “vi tôn giả húy, vi thân giả húy, vi trường giả húy” tức là tránh nhắc đến tên người có địa vị cao hơn, tên cha,mẹ, tên trưởng bối.

Hoàng đế với tư cách là chủ của thiên hạ thì việc nhắc đến tên là điều cấm kị, toàn dân đều phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc này.

Ba vị hoàng đế đầu tiên của triều đại nhà Thanh: Nỗ Nhĩ Cáp Xích, hoàng Thái Cực và Phúc Lâm, là tên được phiên âm tiếng Mãn cho nên cũng không để ý tới kỵ húy.

Bắt đầu từ Khang Hy, Tộc người Mãn Châu chầm chậm tiếp nhận nền văn hóa người Hán, Hoàng đế Khang Hy cũng có tên Hán tự là “Huyền Diệp”- “玄燁”, bởi vậy cũng chiếu theo văn hóa người Hán mà ra quy định về điều “kỵ húy”.

Trường hợp từ “huyền”- “玄”được sử dụng trong văn bản hàng ngày là từ chỉ địa phương (huyện), thì nhất loạt sẽ được đổi thành từ “nguyên”- “元”.

Tuy nhiên tên của các nhân vật có địa vị tương đương như hoàng đế Khang Hy, ví dụ như Chiêu liệt Hoàng đế Lưu Huyền Đức của nhà Thục Hán thì cũng không cần đổi thành “Lưu Nguyên Đức”, nhưng điểm cuối cùng của chữ “Huyền” sẽ bị viết thiếu đi một nét gọi là “khuyết bút”. Từ “Diệp” –“燁” sẽ được thay thế bằng từ “tập”- “熠”.

Đời sau của Hoàng đế Khang Hy là Hoàng đế Ung Chính “Dận Chân” và Hoàng đế “Càn Long” Hoằng Lịch đều tuân theo những quy định này của Khang Hy đó là tránh sử dụng từ đồng âm kỵ húy hoặc dùng “khuyết bút”.

Vào thời điểm này, triều đại nhà Thanh vẫn đang trong giai đoạn Khang – Càn thịnh vượng. Trong 50 năm cuối cùng của triều đại nhà Thanh, có ba vị Hoàng đế, nhưng không một vị hoàng tử nào có con. Và tên của ba vị Hoàng đế đều rất thú vị.

Thanh Triều đảo sổ, đếm ngược từ dưới lên, vị Hoàng đế đứng thứ 3 là Hoàng đế Đồng Trị, tên là Tái Thuần. Nếu theo nguyên tắc bỏ đi một “nét” cuối cùng không viết của tên Hoàng đế thì chữ “Thuần” –“淳” sẽ bỏ đi nét cuối, theo nguyên tắc viết chữ Hán, ở đây chính là bộ “tử” – “子” bỏ đi 1 nét cuốI.

Ảnh: Chân dung Hoàng đế Đồng Trì. Nguồn: Soundofhope

i. Bởi vậy, chữ Thuần “淳” sẽ biến thành không có “子”, tức là “淳無子”. (Thuần vô tử), diễn nghĩa: Thuần không có con.

Hoàng đế Đồng Trì lên ngôi năm 5 tuổi, ông mất năm 18 tuổi vì bệnh đậu mùa, được mệnh danh là vị hoàng đế có tuổi thọ ngắn nhất trong triều đại nhà Thanh và ông không có con.

Thanh Triều đảo sổ, đếm ngược từ dưới lên, vị hoàng đế đứng thứ 2 là hoàng đế Quang Tự, tên là Tái Điềm – “載湉”. Theo nguyên tắc không viết nét cuối của tên Hoàng đế, “Điềm” – “湉” bỏ đi nét cuối, cũng chính là chữ “Thiệt”-“舌” hoặc chữ “Khẩu”-“口” bị thiếu một nét gọi là “vô thiệt”- không có lưỡi, “vô khẩu” – không có miệng (Điềm “vô khẩu”, “vô thiệt”)

Ảnh: Chân dung Hoang đế Quang Tự. Nguồn: Soundofhope

Cũng giống như hoàng đế Đồng Trì, Hoàng đế Quang Tự chết mà không có người thừa kế.

Con trai ba tuổi của Thuần Thân Vương là Tái Điềm kế thừa ngôi vị. Khi ông ta còn nhỏ tuổi thì do Từ An thái hậu và Từ Hy thái hậu buông rèm nhiếp chính. Trong thời gian trị vị của mình, ông đã trải qua hai giai đoạn chiến tranh Giáp Ngọ và Mậu Tuất biến pháp.

Sau khi Mậu tuất biến pháp thất bại năm 1898 ông bị Từ Hy thái hậu giam cầm ở Doanh Thái, Trung Nam Hải. Trước khi Từ Hy thái hậu chết một ngày, ông bị trúng độc thạch tín mà chết, một cuộc đời có thể nói là không có một chút quyền lực nào trong tay, không có tiếng nói.

Vị hoàng đế cuối cùng của nhà Thanh là Hoàng đế Tuyên Thống, tên là “Phổ Nghi” – “溥儀” Chữ “Nghi”- “儀” theo đúng thể tự thiếu một nét cũng chính là chữ “Ngã” thiếu một nét gọi là “vô Ngã”–“無我” không tồn tại. (Nghi vô ngã)

Ảnh: Chân dung Hoàng đế Tuyên Thống – Phổ Nghi . Nguồn Soundofhope

Tương tự với cuộc đời của Hoàng đế Tuyên Thống, Từ Hi Thái hậu chết sau Hoàng đế Quang Tự một ngày, đã sắp xếp cho con trai của Thuần Thân Vương Tái Phong mới ba tuổi lên làm hoàng đế.

Lão Thái Thái Từ Hy đúng là đã làm hết sức mình vì lợi ích của nhà Thanh, cúc cung tận tụy.

Hoàng đế Tuyên Thống, người lên ngôi từ năm 3 tuổi, đến năm 5 tuổi thì Đại Thanh diệt vong. Đứa trẻ năm tuổi hầu như không để lại dấu vết gì trong triều đại nhà Thanh.

Những lời giải thích này chẳng qua là căn cứ trên bề mặt con chữ, có thể cũng không có hàm nghĩa sâu sa gì. Nhưng nếu đối chiếu với tình huống của 3 vị Hoàng đế thì quả thật chuẩn xác không ngờ. Có lẽ đây chỉ là một sự trùng hợp? Hoặc là Thần đã sớm có sự an bài từ lâu, ẩn chứa huyền cơ.

Minh Thư Biên dịch
Theo: Văn Tư Mẫn – Soundofhope
Link tham khảo:


TỔNG THỐNG MỸ DUY NHẤT TRONG LỊCH SỬ BIẾT TIẾNG TRUNG

Trước khi trở thành tổng thống Mỹ, ông Herbert Hoover từng chu du khắp thế giới với vai trò kỹ sư khai khoáng. Ông Hoover còn là tổng thống Mỹ duy nhất trong lịch sử thông thạo tiếng Trung.

Ông Herbert Hoover 

Theo Britannica, ông Hoover sinh năm 1874 tại West Branch, bang Iowa và mất năm 1964 tại New York. Sau khi mất cả cha lẫn mẹ, Hoover cùng anh trai và em gái trở thành trẻ mồ cô. Họ tới sống với gia đình của người chú. Hoàn cảnh đã truyền cho ông Hoover tính tự lực, sự chăm chỉ và quan tâm đối với những người túng thiếu.

Ông Hoover thuộc một trong những thế hệ học sinh đầu tiên của Đại học Stanford lừng danh. Năm 1895, ông tốt nghiệp chuyên ngành địa chất và trở thành kỹ sư khai khoáng, làm việc tại nhiều dự án khác nhau ở 4 châu lục. Trong vòng 2 thập kỷ sau khi rời Stanford, bằng sự nhạy bén kinh doanh đặc biệt, ông Hoover đã tích lũy được khối tài sản cá nhân khoảng 4 triệu USD.

Tổng thống thứ 31 của Mỹ Herbert Hoover. Ảnh: Library of Congress

Năm 1899, ông Hoover được cử đến Trung Quốc làm việc cho công ty khai thác mỏ của Anh. Công việc đòi hỏi ông phải đàm phán với công nhân và quan chức địa phương. Để làm được điều đó, ông phải học tiếng Quan Thoại, một kỹ năng hầu hết người phương Tây vào thời điểm đó không có. Do đó, ông Hoover và vợ là bà Lou đã học tiếng Trung trong khoảng thời gian sống và làm việc ở Trung Quốc.

Vào mùa hè năm 1900, vợ chồng ông Hoover đã trải qua sự kiện lịch sử trọng đại là cuộc nổi dậy Nghĩa Hòa Đoàn và từng bị bao vây ở Thiên Tân trong 3 tuần.

Mắc kẹt giữa tiếng súng và bạo loạn, ông Hoover buộc phải cố thủ bên trong một khu nhà của người nước ngoài. Trong tình trạng hỗn loạn, kỹ năng ngôn ngữ đã biến ông Hoover thành nguồn lực vô giá, giúp phiên dịch các thông điệp cũng như phối hợp sơ tán các kỹ sư nước ngoài và gia đình của họ.

Ông Hoover (phía sau) chụp cùng anh trai và em gái. Ảnh: Britannica

Sau thời gian ở Trung Quốc, ông Hoover trở thành một doanh nhân được săn đón, đút túi hàng triệu USD trước khi chuyển hướng sang công tác nhân đạo và chính trị.

Cho tới nay, ông Hoover vẫn là Tổng thống Mỹ duy nhất trong lịch sử thông thạo tiếng Trung và từng làm việc tại Trung Quốc. Đáng nói, ông thỉnh thoảng nói tiếng Trung với vợ tại Nhà Trắng nếu họ muốn có cuộc trao đổi riêng tư và tránh bị nghe lén.

Sự nghiệp chính trị

Năm 1921, Tổng thống đắc cử Mỹ Warren G. Harding đã chọn ông Hoover làm Bộ trưởng Thương mại. Khi Tổng thống Calvin Coolidge quyết định không tái tranh cử nhiệm kỳ tiếp theo vào năm 1928, ông Hoover đã được đề cử làm ứng cử viên tổng thống đại diện đảng Cộng hòa.

Làm giàu hoàn toàn từ hai bàn tay trắng và chính sự giàu có đã giúp ông Hoover tham gia vào lĩnh vực chính trị. Khi làm Tổng thống Mỹ nhiệm kỳ 1929 - 1933, ông Hoover đã tặng toàn bộ tiền lương cho từ thiện.

Ông Hoover và phu nhân Lou tại Philadelphia năm 1929. Ảnh: Library of Congress

Tuy nhiên, ông Hoover lên nắm quyền khi thị trường chứng khoán Mỹ sụp đổ. Cuộc Đại suy thoái diễn ra vào tháng 8/1929 trở thành vấn đề trọng tâm trong nhiệm kỳ tổng thống của ông. Từ năm 1929 - 1932, tỷ lệ thất nghiệp ở Mỹ tăng vọt từ 3% lên 23%. Ông Hoover đã phải dẫn dắt nước Mỹ thoát khỏi sự ảm đạm về kinh tế trong tình huống tồi tệ lúc bấy giờ.

Danh tiếng của ông Hoover như một nhà nhân đạo trong và sau Thế chiến I, khi ông cứu hàng triệu người châu Âu khỏi nạn đói, cũng dần phai nhạt khỏi nhận thức của công chúng. Nguyên nhân vì chính quyền của ông không thể giảm bớt tình trạng thất nghiệp, vô gia cư và nạn đói lan rộng. Đó cũng là lúc người dân Mỹ bắt đầu đổ lỗi cho vị tổng thống thứ 31 về thảm họa này.

Ông Hoover bên gia đình trong dịp sinh nhật năm 1954. Ảnh: National Archives & Records Administratiion

Dù theo đuổi nhiều chính sách khác nhau trong nỗ lực cải thiện nền kinh tế, nhưng ông Hoover vẫn phản đối việc chính phủ liên bang trực tiếp can thiệp vào việc giải quyết các vấn đề kinh tế.

Giữa cuộc khủng hoảng, ông Hoover bị ứng cử viên Dân chủ Franklin D. Roosevelt đánh bại trong cuộc bầu cử tổng thống năm 1932. Thậm chí, cuộc chuyển giao quyền lực giữa ông Hoover và người kế nhiệm Roosevelt giai đoạn 1932 - 1933 cũng rất căng thẳng do 2 người không thể hợp tác với nhau.

Minh Thu / Theo: vietnamnet


NHỮNG MÓN ĂN ĐI CÙNG NĂM THÁNG Ở CHỢ LỚN

Mang tên thường gọi theo khu vực quận 5, quận 6, quận 10 và một phần quận 11, Chợ Lớn có nhiều người gốc Hoa sinh sống và tồn tại những món ăn đã thành thương hiệu như sủi cảo, phá lấu, chè Hoa…

Du lịch Sài Gòn thưởng thức những món ăn đi cùng năm tháng ở Chợ Lớn

Mì vịt tiềm: Mỗi tô mì dùng kèm miếng vịt to thơm mùi thuốc Bắc, ăn với đu đủ bào miếng lớn dai dai. Món này phải ăn khô mới thấy ngon miệng và cũng để cảm nhận trọn vẹn sự dai của từng sợi mì vàng. Ăn kèm là chén nước lèo nấu với khoảng 5 loại thuốc Bắc cùng xương hầm. Chợ Lớn được xem như “thủ phủ” của món mì vịt tiềm với nhiều điểm bán tập trung có từ hai đến ba hàng, chạy dọc đường Nguyễn Trãi, Huỳnh Mẫn Đạt, Trần Hưng Đạo… Giá một tô từ 50.000 đồng. Ảnh: Foody.

Phá lấu: Một nồi nước phá lấu gồm các gia vị như ngũ vị hương, quế chi, bát giác, đại hồi, tiểu hồi cùng một số vị thuốc Bắc. Còn phần thịt của heo ở bất cứ bộ phận nào cũng đều có thể dùng nấu phá lấu, bao gồm cả lưỡi, tai, ruột đến bao tử… Ở Sài Gòn, phá lấu được chế ra rất nhiều loại như ăn với bánh mì, nướng, lẩu và còn có cả món phá lấu mì gói, bánh mì kẹp phá lấu… Ở quận 5, Phá lấu Tâm Ký là tiệm nổi tiếng nhất, giá từ 280.000 đồng một kg, bánh mì phá lấu từ 20.000 đồng một ổ. Ảnh: Huỳnh Thảo.

Sủi cảo: Trong ẩm thực của người Hoa, sủi cảo là một món ăn truyền thống, gồm ba thành phần chính là sủi cảo, cải ngọt và nước dùng. Ở Chợ Lớn, món này được biến tấu cho phù hợp khẩu vị người Việt với nhiều nguyên liệu như mực, cá viên, da heo, tôm… Phần nhân sủi cảo thường làm từ tôm tươi nên khi ăn có vị ngọt thanh mà không béo. Nước dùng trong vắt, có vị ngọt tự nhiên rất vừa miệng. Ở quận 11, đường Hà Tôn Quyền được gọi là “đường sủi cảo” với nhiều quán bán món này, giá một phần là 35.000 đồng. Ảnh: Huấn Phan.

Hủ tiếu hồ: Hủ tiếu hồ có sợi hủ tiếu bản to, lá bánh mỏng mượt, ăn kèm cải chua xắt nhỏ, bao tử và lưỡi heo. Nước hủ tiếu pha ít bột năng để tạo độ hồ. Các quán bán món này nằm ở góc đường Gò Công – Gia Phú (Quận 6), đường Đình Hòa (Quận 8), giá 25.000 đồng một tô. Ảnh: Việt Đức.

Hủ tiếu sa tế: Hủ tiếu sa tế thường ăn kèm thịt bò hoặc thịt nai. Nước dùng có độ sệt, chỉ vừa xăm xắp sợi hủ tiếu, màu nâu đục và thơm lừng vị đậu phộng rang với mè. Sự tổng hòa của các loại gia vị tạo nên món nước dùng thanh dịu mà không kém phần nồng nàn, mang đủ vị cay, chua, mặn, ngọt. Nơi bán món này phổ biến là quán Quảng Ký trên đường Triệu Quang Phục Quận 5 hoặc một số xe đẩy xung quanh chợ Kim Biên. Giá mỗi tô từ 50.000 đồng. Ảnh: Lozi.

Chè người Hoa: Chè khu Chợ Lớn lấy sự ngọt thanh tao của đường phèn làm tiêu chuẩn. Những món chè đặc trưng khó kiếm ở quận khác mà du khách nên một lần nếm thử là: hột gà trà, chè đậu hũ hạnh nhân, chè bo bo trứng cút, chè bạch quả… Các tiệm chè lâu đời và nổi tiếng để tham khảo gồm Chè Hà Ký, Chè Thanh Tâm, chè Nhà Đèn…, giá dao động 20.000-50.000 đồng một ly. Ảnh: Diadiemanuong.

Theo: iVIVU



NGHI NGỜ HỢP LÝ - CHIẾC VƯƠNG NIỆM CỦA NỀN TƯ PHÁP HÌNH SỰ

“Nghi ngờ hợp lý” (reasonable doubt), chiếc vương miện của nền tư pháp hình sự văn minh, nơi mà bị cáo không bao giờ phải chứng minh mình vô tội và bồi thẩm đoàn không bao giờ kết tội khi trong lòng vẫn còn nghi ngờ.

Một cảnh trong phim “Mười hai người đàn ông nổi giận”.

“Sao anh dám chắc rằng bị cáo không phạm tội?”

Trong bộ phim kinh điển “Mười hai người đàn ông nổi giận” (“Twelve Angry Men”), Henry Fonda vào vai một viên bồi thẩm đoàn đơn độc chống lại ý kiến của mười một vị bồi thẩm còn lại. Pháp luật một số tiểu bang Hoa Kỳ buộc rằng trong một vụ án có mức án tử hình, bồi thẩm đoàn khi quyết định bị cáo có tội hay vô tội đều phải đạt được sự đồng thuận tuyệt đối. Tức là mỗi vị bồi thẩm đoàn đều có quyền “phủ quyết” đối với ý kiến tập thể.

Mười một vị bồi thẩm đoàn đều bỏ phiếu “có tội” cho bị cáo. Những bằng chứng có lẽ là không thể chối cãi. Bị cáo bị buộc tội giết cha của mình. Trước thời điểm diễn ra vụ án vài tiếng, hàng xóm có nghe thấy tiếng cãi cọ giữa hai người. “Tôi sẽ giết ông” là lời của bị cáo với người cha bạo hành của mình. Rồi nhân chứng lại nghe tiếng chân bị cáo chạy và thề rằng ông ta đã thấy bị cáo chạy qua không lâu sau khi nghe tiếng nạn nhân ngã xuống. Người ta còn tìm thấy con dao gây án tại hiện trường. Không có dấu vân tay nào được tìm thấy nhưng có người nhìn thấy bị cáo có một con dao tương tự, một con dao đặc biệt. Bị cáo cho rằng sau khi cãi cọ với nạn nhân, y đã đi xem phim nhưng không thể nhớ được tên bộ phim và trên đường về nhà lại làm rơi mất con dao. Quan trọng hơn hết, một người hàng xóm bên đường thề là bà đã nhìn thấy bị cáo đâm chết cha của anh ta.

Sau nhiều tuần tranh luận trước tòa, các nhân chứng được tra hỏi nhiều lần, các chứng cứ được xem đi xem lại, mười một vị bồi thẩm đoàn vẫn không tài nào hiểu nổi tại sao viên bổi thẩm thứ 12 kia lại “dám nói rằng bị cáo vô tội”. “Chẳng phải hắn đang thả tên tội phạm đó về xã hội sao?” – một vị bồi thẩm nói. “Sao anh dám chắc rằng bị cáo không phạm tội” – vị khác hỏi.

Viên bồi thẩm quái gở kia không bao giờ có thể trả lời được những câu hỏi trên.

Đơn giản là vì những câu hỏi đó hoàn toàn sai.

Nghi ngờ hợp lý và nguyên tắc suy đoán vô tội

Điều thôi thúc nhân vật của Henry Fonda chống lại ý kiến của các vị bồi thẩm khác đó là vì ông không cảm thấy đúng đắn khi tuyên tử hình một người chỉ sau vài phút nghị án. Ông muốn mọi người ngồi lại lâu hơn một chút, xem xét lại chứng cứ một lần nữa, đặt câu hỏi đối với lời khai của nhân chứng bằng sự hoài nghi. Ông không dám chắc bị cáo có tội hay không, nhưng đồng thời cũng không chắc chắn hoàn toàn rằng bị cáo vô tội.

Nhưng chẳng phải đó là điều đúng đắn nhất mà một viên bồi thẩm nên làm sao? Tuyên “vô tội” không phải vì anh chắc chắn rằng bị cáo vô tội, rằng bị cáo trong sáng. Tuyên “vô tội” là vì anh không dám chắc, không dám khẳng định, vượt quá những nghi ngờ thông thường, rằng bị cáo có tội.

Nên nhớ, số phận con người lúc đó nằm trong tay anh.

Bộ phim phát triển và dần dần, những niềm tin nội tâm rằng bị cáo có tội bị phá vỡ. Lời khai của nhân chứng bị nghi ngờ. Các viên bồi thẩm phân vân, nghi ngờ, không ai biết liệu bị cáo có phạm tội hay không. Nhưng như vậy là quá đủ để mười hai viên bồi thẩm đoàn tuyên bị cáo “vô tội”.

Bị cáo và mười hai vị bồi thẩm – một cảnh trong phim “Mười hai người đàn ông nổi giận”. Ảnh: tvtropes.org

Và đó chính là sự “nghi ngờ hợp lý” để xác định xem một bị cáo có phạm tội hay không. Rằng bồi thẩm đoàn, hoặc các thẩm phán, chỉ được phép tuyên một ai đó là “có tội” khi họ không còn một “nghi ngờ hợp lý” nào rằng có thể bị cáo không phạm tội.

Ít có lời giải thích nào về cái gọi là “nghi ngờ hợp lý” hoàn hảo hơn những gì nhân vật của Henry Fonda nói vào cuối phim:

“Luôn rất khó khăn để không định kiến trong những chuyện như thế này. Và lúc nào thì sự định kiến cũng cản trở sự thật. Bản thân tôi cũng không biết sự thật là gì. Tôi cũng không tin rằng có ai đó biết rõ sự thật. Chín người (lúc này vẫn còn ba viên bồi thẩm khác nghĩ bị cáo có tội – TG) trong chúng tôi giờ đây có lẽ cảm thấy bị cáo là vô tội, nhưng thực ra chúng tôi cũng chỉ đang đánh cược với các khả năng thôi. Chúng tôi có thể sai. Có thể chúng tôi đang trả tự do cho một kẻ có tội, tôi không biết. Không ai có thể biết. Nhưng chúng tôi có một nghi ngờ hợp lý, và đó là điều rất đáng quý trong nền tư pháp này. Không một bồi thẩm đoàn nào được phép tuyên một người là có tội, trừ phi họ hoàn toàn chắc chắn”.

Đó chính là cách mà một nền tư pháp hình sự công chính nên vận hành.

Khi niềm tin nội tâm lên tiếng

Trong đời, sẽ có rất nhiều trường hợp niềm tin nội tâm nói với chúng ta rằng kẻ đang đứng trước mặt ta là tên tội phạm, rằng tội ác đó thật ghê tởm, và rằng tất cả những thứ lý thuyết sáo rỗng phải bị dẹp bỏ để nhường chỗ cho công lý được thực thi.

Bản thân tác giả bài này, khi phải đối mặt với một vụ án khó không lâu trước đây, cũng từng bị hỏi rằng: “Vậy trong thâm tâm anh, anh có tin người đó phạm tội hay không?”

Nhưng dù niềm tin của tôi là gì, liệu rằng nó có đủ để quyết định tương lai, hay sinh mạng một con người không?

Pháp luật hình sự tiên tiến luôn chỉ rõ rằng bị cáo không có nghĩa vụ phải chứng minh bản thân vô tội. Chứng minh có tội là nghĩa vụ của bên công tố. Và không ai bị coi là có tội cho đến khi bản án có hiệu lực. Mọi tình tiết chưa rõ ràng trong vụ án đều phải được suy luận theo hướng có lợi cho bị cáo.

Đứng trước anh có thể là một tên giết người, một kẻ hiếp dâm trẻ em, một quan chức tham nhũng, hay một gã biến thái, nhưng dưới con mắt pháp luật, đó vẫn là một con người vô tội. Trước khi phán xét một ai đó dựa trên một chuẩn mực mà bản thân tự đặt ra, có lẽ chúng ta nên hình dung rằng liệu chúng ta có cảm thấy công bằng không nếu chúng ta bị áp đặt các tiêu chuẩn xét xử, suy luận bất lợi.

Rủi ro của việc đối xử công bằng với bị cáo chính là việc một kẻ thủ ác có thể sẽ được thả ra, và công lý không được kiến tạo. Nhưng phải chăng chúng ta đang đánh đu với các khả năng? Liệu rằng cái gọi là mục đích phòng chống tội phạm, hoặc kiến tạo công lý có vượt lên trên tương lai, sinh mạng một con người? Liệu rằng chúng ta có chấp nhận “giết lầm còn hơn bỏ sót”?

Những mục đích, khẩu hiểu đó có danh tính hay không? Chúng ta có được phép sử dụng một khẩu hiệu vô danh để đàn áp một con người hữu danh hay không?

Đứng trước câu hỏi hóc búa của bạn mình, tôi đã phải trả lời rằng: “Có, trong thâm tâm mình, tôi tin rằng người đó phạm tội. Nhưng tôi là ai mà có quyền đứng lên trên chứng cứ, đứng lên trên cái nghi ngờ hợp lý? Niềm tin là chưa đủ để gọi một ai đó là tội phạm”.

Đó là lúc bên trong tôi có một nghi ngờ hợp lý. Đó là lúc chúng ta phải trả tự do cho người bị cáo kia.

Bồi thẩm đoàn là gì?

Tại rất nhiều nước, chế định “bồi thẩm đoàn” (jury) được đặt ra để tham gia giải quyết câu hỏi về sự kiện của vụ án. Bồi thẩm đoàn không tham gia vào quá trình xét xử như thẩm phán, luật sư hay công tố. Họ chỉ dự khán và lắng nghe lập luận của hai bên và sau cùng trả lời câu hỏi “có tội” hay “không có tội”. Nếu câu trả lời là “có tội”, thẩm phán sẽ là người quyết định xem tội gì, mức án bao nhiêu. Nếu câu trả lời là “vô tội”, bị cáo sẽ được phóng thích tại chỗ, mặc cho thẩm phán có ý kiến khác hay không. Trong một số trường hợp rất cụ thể, thẩm phán có quyền ra phán quyết mà không cần ý kiến của bồi thẩm đoàn.

Bồi thẩm đoàn được lựa chọn bởi hai bên công tố và biện hộ trước mỗi vụ án từ những công dân bình thường.

Lê Nguyễn Duy Hậu
Theo: luatkhoa.com

12 ANGRY MEN: CHÍNH KIẾN quan trọng thế nào?


Monday, September 15, 2025

SAMURAI "ĐỘC CÔ CẦU BẠI" VÀ TRẬN ĐÁNH HẠ GỤC CAO THỦ CHÉM CHIM NHẠN BAY, XẺ ĐÔI LÁ LIỄU

Miyamoto Musashi là samurai đầu tiên và cũng là duy nhất trong suốt lịch sử Nhật Bản chưa để thua 1 trận nào. Đó cũng là lý do ông có biệt danh "Độc cô cầu bại".


Miyamoto Musashi (được gọi là Cung Bản Vũ Tàng) sinh 1584 - mất năm 1645. Chỉ hơn 60 năm sống trên cuộc đời nhưng ông đã vẽ nên 1 tượng đài vĩ đại mà không tay kiếm nào có thể đạt tới. Musashi sinh ra và lớn lên vào thời kỳ loạn lạc khi nội chiến liên miên, các lãnh chúa thi nhau tranh giành quyền lực.

Và đương nhiên, thời thế tạo anh hùng, không để lại cho cuộc đời 1 vị tướng như Oda Nobunaga, nhưng nhắc tới Musashi, người ta nhắc tới 1 samurai độc nhất vô nhị, kiếm sĩ duy nhất trong suốt chiều dài lịch sử Nhật Bản chưa từng thua một trận nào.

Con đường trở thành tay kiếm vĩ đại

Phần lớn các chi tiết còn lưu lại đến ngày nay về thời thơ ấu của Musashi thường khá mơ hồ tuy nhiên phần lớn mọi người đồng ý rằng ông được sinh ra trong một gia đình danh giá, bố ông là Shinmen Munisai, là một chiến binh thiện chiến và cũng chính là người thầy đầu tiên về kiếm thuật và tư tưởng samurai cho Musashi.

Chân dung samurai Musashi Miyamoto theo bức tranh khắc gỗ của nghệ nhân Utagawa Kuniyoshi. Ảnh: Wikimedia Commons.

Nhưng cuộc đời không lường trước được điều gì, năm 10 tuổi, biến cố lớn nhất cuộc đời của Musashi diễn ra, cha mẹ đột ngột qua đời, những người thân còn lại thì ruồng rẫy, chối bỏ vì cá tính quá mạnh của ông.

Bơ vơ khắp nơi, Musashi cuối cùng cũng may mắn được thiền sư Takuan Shoho nuôi dạy. Takuan có thể coi là người có ảnh hưởng tới Musashi nhiều nhất, tuy không dạy kiếm nhưng triết lý sống và cả khả năng thi phú tuyệt đỉnh của bậc đại sư đã giúp Musashi trở thành 1 người tinh thông cả kiếm thuật lẫn thi ca, nghệ thuật.

Tài năng kiếm thuật của Musashi bộc lộ rất sớm. Năm 13 tuổi, ông đã đánh bại 1 samurai lớn tuổi hơn trong trường học chỉ bằng 1 thành kiếm gỗ dài 1,8m. Ba năm sau, Musashi lại vướng vào 1 trận đấu sinh tử với kiếm sĩ tài năng Tadashima Akiyama và tất nhiên, chàng thanh niên có tài năng thiên bẩm kia vẫn là kẻ chiến thắng.

Đến tuổi trưởng thành, dường như ngộ ra điều gì đó, Musashi từ bỏ kiếm thép, chỉ dùng kiếm gỗ và không giết chết kẻ thù sau mỗi trận tử chiến nữa. Điển hình là lần đối đầu với lãnh chúa Matsudaira. Ông thách đấu với những võ sĩ hàng đầu, giỏi nhất trong thành. Thậm chí, ngay cả lãnh chúa Matsudaira cũng đích thân đối đầu với Musashi khi thuộc hạ đã ngã gục hết.


May mắn cho Matsudaira và người của ông ta là Musashi sử dụng kiếm gỗ và từ bỏ thói quen hạ sát đối thủ. Cũng chính vị lãnh chúa này tâm phục khẩu phục nhận thua rồi mời kiếm khách tài ba kia ở lại làm thầy.

Miyamoto Musashi và những trận chiến để đời

Năm 1604, Musashi thách đấu với dòng họ đứng đầu 1 trong những ngôi trường lớn nhất thành phố, dòng họ Yoshioka.

Seijuro Yoshioka - là niềm tự hào của dòng họ, là 1 trong những tay kiếm tài năng nhất nơi đây, nhưng khi đối đầu với Musashi, anh ta trở nên khổ sở trước những đường kiếm tốc độ, uy lực. Cuộc đấu tay đôi này sử dụng kiếm bằng gỗ (bokken) và luật lệ giống như nhiều trường hợp khác tuy nhiên, kết thúc không phải là cái chết.

Musashi đã có chiến thắng 1 cách thuyết phục trước đối thủ khi ông nhanh chóng áp đảo và đánh gãy cánh tay của Seijuro. Sau trận đánh, Seijuro từ bỏ nghiệp binh đao và trở thành một thiền sư nổi tiếng.


Trận thứ 2, Musashi phải đấu với Denshichiro Yoshioka, anh trai của Seijuro, Anh ta đã thách thức Musashi để lấy lại danh dự cho dòng họ của mình và yêu cầu trận đấu sẽ kết thúc theo phong tục. Điều đó có nghĩa là sẽ có đổ máu!

Tiếc cho 1 kiếm sĩ có tài, Denshichiro cũng không thể chống lại lối đánh như vũ bão của Musashi và cuối cùng đã bị giết chết theo đúng quy ước ban đầu.

Những chiến thắng vang dội trước gia tộc Yoshioka mang lại danh tiếng cho Musashi nhưng trận đấu làm nên tên tuổi của ông trong lịch sử thì phải kể đến chiến thắng trước Sasaki Kojiro.

Sasaki Kojiro có biệt hiệu là Ngạn Liễu (người ta đồn Kojiro giỏi đến nỗi có thể chém được cả cánh nhạn bay trên trời hay sẻ đôi được lá liễu đang bay trong gió), mang theo mình thanh trường kiếm dài đến kỳ lạ mang tên Sào Phơi. Đây là 1 trong những samurai nổi tiếng nhất thời đại bấy giờ bởi tài năng vô song của mình.

Theo nhiều tài liệu để lại, trước khi trận chiến chính thức bắt đầu, Musashi đã sử dụng tâm lý chiến với Kojiro khi cố tình đến muộn 1 tiếng đồng hồ, khiến đối phương lâm vào tình trạng bực bội, khó chịu và có phần nôn nóng!

Đều là tài năng kiệt xuất vào thời bấy giờ, trận chiến giữa 2 samurai này diễn ra vô cùng quyết liệt và mạnh mẽ. Nhưng điểm thú vị là, trong khi Kojiro sử dụng cây trường kiếm Sào Phơi thì Musashi chỉ dùng 1 cây kiếm gỗ được đẽo bằng mái chèo.

Nó càng khẳng định được tài năng của Musahi hơn khi ông tận dụng sơ hở của đối phương và đâm thẳng thanh kiếm gỗ vào sườn Kojiro!

Tài năng thiên bẩm và sự buông bỏ đúng lúc

Chiến thắng đầy kịch tính, giết chết được đối thủ mạnh nhất kể từ khi xuất đạo đến nay, nhưng Musashi không hề vui mừng, thoải mái. Thay vào đó là sự tiếc nuối, chán chường khi không thể tìm đâu ra đổi thủ xứng tầm.

Năm 30 tuổi, sau hơn 60 chiến thắng lớn nhỏ, Musashi quyết định buông bỏ, không tham gia thêm bất cứ trận đánh nào nữa.

Cũng kể từ đó, ông không màng thế sự, chuyên tâm luyện kiếm, dạy kiếm, nghiên cứu binh pháp, kiếm đạo và cả thiền! Không dừng lại ở đó, Độc cô cầu bại Musashi còn thử sức ở nhiều bộ môn nghệ thuật, từ thi ca, thư pháp đến điêu khắc, vẽ tranh.

Nhưng dù ở lĩnh vực nào, ông cũng cố gắng xóa bỏ lối mòn, khát khao tìm được những sáng tạo mới, giống như những gì ông làm được với kiếm pháp khi sáng tạo ra Nhị đao nhất.

Cuốn sách Ngũ Luân Thư của Musashi được dịch sang tiếng Anh.

Cũng từ những cố gắng đó, tinh hoa cả đời của Musashi được ông đúc kết lại trong quyển binh thư Go Rin No Sho tức Ngũ Luân Thư, thậm chí nó còn được dịch ra tiếng anh với tên gọi A Book of Five Rings!

Đó là sự tổng hợp cả binh pháp chiến trận lớn đến những tinh túy của nghệ thuật chiến đấu 1 - 1, cách đánh cận chiến hay cách rèn luyện nhãn quan chiến thuật. Nhưng tâm huyết của Musashi không dừng lại tại đó, cuốn Ngũ Luân Thư không chỉ dành cho những nhà nghiên cứu quân sự mà còn hữu ích cả đối với những người khát khao thành công, khát khao sáng tạo.

Gabe / Theo: Trí Thức Trẻ



BỐC TOÁN TỬ (TỐNG BÃO HẠO NHIÊN CHI CHIẾT ĐÔNG) - VƯƠNG QUAN


Bốc toán tử 
Tống Bão Hạo Nhiên chi Chiết Đông

Thuỷ thị nhãn ba hoành,
Sơn thị my phong tụ.
Dục vấn hành nhân khứ na biên?
My nhãn doanh doanh xứ.

Tài thuỷ tống xuân quy,
Hựu tống quân quy khứ.
Nhược đáo Giang Nam cản thượng xuân,
Thiên vạn hoà xuân trú.

Bài từ ngắn này thuần dùng thể tỷ, hứng, khiến cho cảnh vật tự nhiên hơn, chỉ có non với nước có thể gửi tấm cảm tình, vì chỉ có suy nghĩ và ánh mắt là có thể truyền đạt cảm tình một cách tinh tế mà thâm thuý, thậm chí có khi lời nói không thể biểu đạt được. Ở đây dùng “nước” ví với châu lệ lúc buồn biệt ly, dùng “non” ví với nét mày chau lúc buồn rầu, rồi lại đem người đi điểm xuyết ở trung gian, mối ly tình thực thắm thiết. Đem tâm sự luyến tiếc tiễn xuân kèm với cảm tình quyến luyến tiễn người, đấy là một thủ pháp biểu hiện rất cao minh. Xuân đi khiến cho người ta tiếc, người ở lại với người đi đều chung một tâm trạng không thể thay đổi được đành chấp nhạn chỉ biết cầu mong cho bạn mình có thể đuổi kịp xuân, để sống một cuộc sống tươi sáng như mùa xuân.


卜算子
送鮑浩然之浙東

水是眼波橫,
山是眉峰聚。
欲問行人去那邊?
眉眼盈盈處。

才始送春歸,
又送君歸去。
若到江南趕上春,
千万和春住。


Bốc toán tử 
Tiễn Bão Hạo Nhiên đi Chiết Đông
(Bản dịch: Nguyễn Đương Tịnh)

Nước trôi như sóng mắt
Núi vẽ tựa chân mày
Hỏi anh có biết chăng nơi ấy
Là cảnh đẹp xưa nay?

Tiễn xuân đi bữa trước
Nay lại tiễn anh đây
Giang đông nếu kịp nàng xuân nhỉ
Vạn dặm gặp nhau ngay


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Quan 王觀 (thế kỷ XII) tự Thông Tẩu, người Cao Bưu, thuộc tỉnh Giang Tô, từng làm Tri phủ Giang Tô, trong sách Tuyệt diệu tứ tuyển có khen ông là “Phong lưu công tử trong từ lâm”. Tác phẩm của ông có Quán liễu tập.

Theo: Thi Viện