Friday, May 31, 2024

VỤ THỬ BOM HẠT NHÂN KHIẾN CẢ HÒN ĐẢO BỐC HƠI

Vào ngày 1/11/1952, Mỹ cho nổ quả bom hydrogen đầu tiên trên thế giới, mật danh là “Mike”, một phần của Chiến dịch Ivy.


Đây là cuộc thử nghiệm đầy đủ đầu tiên của thiết kế mang tính đột phá do nhà vật lý người Mỹ gốc Hungary, Edward Teller và nhà toán học người Ba Lan, Stanislaw Ulam tạo ra. Vụ nổ này đã làm bốc hơi cả một hòn đảo và tác hại vẫn còn dai dẳng đến ngày hôm nay.

Vụ nổ kinh hoàng

Quả bom Mike cao 6m, nặng 74 tấn là thiết bị hạt nhân đầu tiên có sức nổ đáng kể từ quá trình tổng hợp nguyên tử, thay vì chỉ dựa vào phân hạch, phân chia các nguyên tử. Vẻ ngoài không giống như vũ khí truyền thống, nó được đặt trong một cấu trúc nhôm gợn sóng, đi kèm một tháp tín hiệu để liên lạc với phòng điều khiển đặt trên tàu USS Estes.

Do sử dụng deuterium lỏng làm nhiên liệu nên cần phải có một nhà máy đông lạnh quy mô lớn để duy trì chất này ở nhiệt độ gần bằng không tuyệt đối. Cung cấp năng lượng cho cơ cấu phức tạp trên là một nhà máy điện công suất 3.000 kilowatt dành riêng cho cơ sở đông lạnh. Quả bom được đặt trên đảo đá nhỏ không người ở tên là Elugelab, thuộc đảo san hô vòng Enewetak, Nam Thái Bình Dương.

Vào sáng 1/11/1952, Mike đã phóng thích sức mạnh ghê hồn của nó ra Trái đất, tạo một quả cầu lửa có đường kính đáng kinh ngạc là 5 km. Chỉ trong vòng 90 giây, đám mây hình nấm đã bốc lên độ cao 17 km, rồi nhanh chóng tăng vọt lên 33 km chỉ một phút sau đó.


Cuối cùng, nó ổn định ở độ cao 41 km, phần đỉnh mở rộng có đường kính 161 km, còn phần thân rộng 32 km. Sức mạnh của vụ nổ kinh hoàng chưa từng có này đo được là 10,4 megaton.

Một báo cáo quân sự về lịch sử của Chiến dịch Ivy lưu ý: “Vụ nổ, như được chứng kiến từ các tàu khác nhau trên biển, không dễ gì mô tả. Cùng với ánh sáng rực rỡ, sức nóng được cảm nhận ngay lập tức ở khoảng cách từ 50 - 60 km. Quả cầu lửa khổng lồ, xuất hiện ở phía chân trời giống như Mặt trời khi mọc lên một nửa, nhanh chóng mở rộng sau một thời gian lơ lửng nhất thời”.

Sức công phá của quả bom dữ dội đến mức Elugelab, một hòn đảo đá đơn độc, ngay lập tức bị “bốc hơi”, để lại một miệng núi lửa lớn có đường kính 1,9 km và sâu 50 mét.

Vụ nổ còn tạo ra những con sóng cao tới 6 mét, cuốn sạch thảm thực vật xung quanh các hòn đảo lân cận. Chủ tịch Ủy ban Năng lượng nguyên tử, Gordon Dean, đã tóm tắt ngắn gọn kết quả vụ thử dành cho Tổng thống mới nhậm chức, Dwight D. Eisenhower, với những từ ngữ lạnh lùng: “Đảo Elugelab đã biến mất!”.

Đảo Elugelab, thuộc đảo san hô vòng Enewetak, biến mất hoàn toàn sau vụ thử bom.

Hậu quả dai dẳng

Thử nghiệm của Ivy Mike cũng dẫn đến việc phát hiện ra hai nguyên tố mới. Ngay sau khi quả bom được kích nổ, một phi đội máy bay của Không quân Hoa Kỳ được lệnh bay qua đám mây nguyên tử.

Chúng được trang bị các thùng nhiên liệu cải tiến để thu giữ và lọc các mảnh vụn trong không khí. Sau đó, các bộ lọc này được bọc chì và gửi đến Los Alamos, New Mexico để phân tích.

Trong số những người bị hấp dẫn bởi “báu vật” khoa học tiềm năng chứa trong các bộ lọc này có nhà khoa học hạt nhân, Albert Ghiorso thuộc Đại học California, Berkeley. Ông suy đoán rằng, những bộ lọc này có thể chứa các nguyên tử đã biến đổi, thông qua phân rã phóng xạ, thành các nguyên tố 99 và 100 được dự đoán nhưng chưa khám phá.

Ghiorso, cùng với nhà hóa học Stanley Gerald Thompson và Glenn Seaborg, đã lấy được nửa tờ giấy lọc từ cuộc thử nghiệm của Ivy Mike. Trên đó, họ có thể phát hiện sự tồn tại của nguyên tố 99 và 100, được tạo ra bởi dòng neutron tập trung cực mạnh về vị trí phát nổ. Năm 1955, hai nguyên tố mới được đặt tên là einsteinium và fermium, để vinh danh Albert Einstein và Enrico Fermi.

Thử nghiệm hạt nhân trên đảo san hô vòng Enewetak kết thúc vào năm 1958. Năm 1977, quân đội Hoa Kỳ bắt đầu nhiệm vụ gian nan là khử nhiễm Enewetak và các đảo xung quanh.

Nỗ lực này liên quan đến việc cạo tỉ mỉ lớp đất mặt từ các khu vực bị ảnh hưởng, sau đó được trộn với xi măng trước khi chôn chúng trong một miệng núi lửa nguyên tử trên vùng đất phía Bắc của đảo Runit. Miệng núi lửa này có chiều rộng 110 mét và sâu 30 mét, sau đó được bao bọc trong các lớp bê tông bổ sung để tạo thành một mái vòm bảo vệ.


Năm 2000, một đợt dọn dẹp khác lại diễn ra. Lần này, thay vì cạo bỏ lớp đất mặt, người ta thay thế nó bằng lớp đất mặt sạch và tạo một mái vòm kho chứa chất thải phóng xạ khác tại một số địa điểm trên đảo san hô, các khu vực vẫn bị ô nhiễm trên Enewetak đã được xử lý bằng kali.

Đất không thể được xử lý hiệu quả cho mục đích sử dụng của con người đã được loại bỏ và sử dụng làm vật liệu lấp cho đường đắp cao nối các đảo chính của đảo san hô, Enewetak và Parry. Các nhà khoa học tin rằng, đảo san hô sẽ phù hợp cho con người sinh sống vào năm 2026 - 2027.

Enewetak là một phần của Quần đảo Marshall, bao gồm 40 đảo nhỏ và đảo san hô, trải rộng thành hình bầu dục, ban đầu do người Nhật nắm giữ từ năm 1914, nhưng sau bị Hoa Kỳ chiếm vào tháng 2 năm 1944. Nó trở thành căn cứ của Hải quân Hoa Kỳ trong hơn 40 năm, cho đến khi Quần đảo Marshall giành được độc lập vào năm 1986. Enewetak từng trở thành địa điểm thử nghiệm hạt nhân, với 43 vụ từ năm 1948 - 1958, làm thay đổi mãi mãi cảnh quan và ý nghĩa lịch sử của đảo này.

Theo Amusingplanet
Lê Du / Theo: giaoducthoidai
Link tham khảo:



No comments: