Saturday, July 28, 2018

ĐỪNG NGHE NHỮNG GÌ NGƯỜI THÀNH CÔNG NÓI

Để là một người thành công, đừng bao giờ tin vào những lời mà người thành công nói!

Bill Gates, Jack Ma, Steve Jobs hay đủ những minh chứng về sự thành công đi lên từ tay trắng có thể nói cho bạn nghe những điều đầy mê hoặc, đầy tính triết lý về sự thành công. Nhưng nếu tỉnh táo và muốn mình được như họ, điều đầu tiên bạn phải làm là bịt tai lại và đừng nghe họ nói.


Chẳng cần phải là những Bill Gates hay Jack Ma, Steve Jobs hay Mark Zuckerberg đình đám cả thế giới đều biết, chung quanh cuộc sống thường nhật này, mỗi người chúng ta có lẽ đã nghe mòn tai những câu chuyện "con nhà người ta" bỏ học/bỏ việc/bỏ thành phố về quê kinh doanh kiếm bạc tỷ, bán mỹ phẩm online tiền thưởng doanh thu vài chục tỷ, khởi nghiệp thành công sở hữu doanh nghiệp hàng triệu đô… Những từ khóa "thành công", "đam mê", "bứt phá" "bạc tỷ" khiến người ta cảm thấy được truyền cảm hứng và tiếp thêm khát khao.

Nhưng khi ta đã bị hạ đo ván, hay khi ta cảm thấy quá chán chường sau nhiều năm bươn chải mà thực tế sao chỉ toàn đắng cay, ta bắt đầu cảm thấy hình như có gì đó rất sai!

Đó cũng là lúc bạn bắt đầu học được những bài học đầu tiên về cách đặt lòng tin.


Và bây giờ, để tôi nói bạn nghe, vì sao chúng ta không thể tin vào câu chuyện làm giàu hay câu chuyện thành công của người khác.

Trong một bài phỏng vấn, Chủ tịch công ty quảng cáo 24h Phan Minh tâm đã từng nói: "Đừng nghe những câu chuyện thành công, dù của Bill Gates hay Jack Ma, hay ngay cả chuyện thành công của ông chủ 24h. Mọi người cứ bảo tôi chia sẻ thành công, nhưng các bạn không thể "bơi" lại thành công. Có thể đã từng có một câu chuyện thành công như thế, nhưng khung thời điểm của câu chuyện ấy đã không còn nữa (PV: Gọi là thiên thời địa lợi khi sự việc ấy xảy ra). Các doanh nhân chia sẻ cho các bạn bí quyết, mặc dù có thể bạn thông minh hơn, tài giỏi hơn, nhưng nếu làm lại giống vậy thì tỷ lệ thành công tôi đánh giá chỉ 1/1000, 999 bạn còn lại không thể thành công được".

Nếu bạn đã từng đọc tiểu thuyết "Hồn ma sành điệu" của nhà văn Sophie Kinsella, chắc hẳn bạn có biết một chi tiết khá buồn cười trong sách khi nhà văn miêu tả về một vị "diễn giả về làm giàu". Ông ta đi khắp nơi với bài diễn thuyết ấn tượng là bắt khán giả giơ cao đồng tiền và đọc khẩu hiệu, như kiểu gửi sự khát khao kiếm tiền của mình vào vũ trụ và rồi chúng ta sẽ được đền đáp xứng đáng, rồi hàng loạt những giáo lý, điều luật khác về cách mà ông ta đã làm giàu.

Nhưng điều không ngờ nhất, là hóa ra ông không kiếm bạc tỷ ở nơi nào khác cả, mà tất cả những vị khán giả đang say sưa đặt hết niềm tin vào vị "diễn giả làm giàu" kia mới chính là nguồn kiếm tiền của ông ta. "Vị diễn giả" không bán kinh nghiệm, ông ta chỉ bán những lời hô hào đẹp đẽ. Xã hội của chúng ta đã quá quen với việc đặt câu hỏi Ai đó đã thành công như thế nào? Các quầy sách ngập tràn đầu sách về năm điều mười lẽ bạn cần làm, cần học để trở nên giàu có hơn. Nhưng rốt cuộc bạn sẽ nhận ra có quá nhiều "thuyết âm mưu" hay điều chưa kể đằng sau những lời đẹp đẽ nào đó.


Hồi trước, có một lần tôi biên tập bài phỏng vấn của một bạn trẻ khởi nghiệp trong lĩnh vực khá thú vị và mới mẻ, nhưng có câu hỏi vẫn chưa được trả lời trọn vẹn, tôi bảo cộng tác viên đi khai thác thêm. Cụ thể là bạn trẻ ấy đã huy động vốn như thế nào, vì ai cũng biết điều quan trọng nhất khi khởi nghiệp là tìm được những nhà đầu tư thiên thần - người sẽ bỏ tiền vào dự án. Rốt cuộc, câu trả lời là: Gia đình của bạn trẻ đó rất giàu có, và họ đã chi rất nhiều tiền cho con mình khởi nghiệp.

Nhưng bạn trẻ kia đề nghị không ghi chi tiết ấy vào bài viết với lý do: Sợ rằng viết như thế sẽ làm chùn bước những bạn trẻ khác cũng đang muốn khởi nghiệp (!) Câu chuyện này khiến tôi nhớ về một lần đọc được ở đâu đó viết về Donald Trump, rằng chàng thanh niên Trump ở vào tuổi đôi mươi tươi đẹp và giàu nhiệt huyết nhất, đã quyết định không ăn bám gia đình và khởi nghiệp với đâu đó chừng… 14 triệu đô la vay từ bố, chưa kể trong lúc kinh doanh khó khăn đã mượn của bố thêm 9 triệu đô la.

Nói vậy không có nghĩa là anh bạn trẻ kia hay Donald Trump hay bất cứ ai khởi nghiệp từ tài sản kếch xù của gia đình đều là người không tài giỏi. Họ giỏi chứ, ở đây không bàn về họ! Tôi chỉ muốn nói nếu bạn chưa bao giờ là phóng viên phỏng vấn hay biên tập viên, thì khi bạn lướt qua những con chữ trên mặt báo, bạn sẽ không bao giờ biết được điều gì đã được chọn ẩn đi trong những câu chuyện thành công khiến gần như cả thế giới phải nức lòng ngưỡng mộ.


Nếu như tôi không tình cờ là biên tập viên của bài phỏng vấn đó, nếu như Donald Trump không ra ứng cử tổng thống khiến phe đối thủ phải đào xới profile thực sự của ông ta lên, thì có lẽ những dòng này cũng sẽ không bao giờ được viết ra.

Lý do cuối cùng tôi muốn nói rằng vì sao bạn không nên cả tin vào những điều đẹp đẽ, đó là vì xã hội chúng ta chưa quen nhìn nhận thất bại. Với đa số, thất bại chỉ là thua cuộc mà thôi! Mark Cuban đã viết trong một cuốn sách của ông: "Không quan trọng là bạn thất bại bao nhiêu lần (…) Tất cả những gì bạn cần làm là học từ chúng và từ những gì xung quanh, bởi vì điều quan trọng nhất trong kinh doanh chính là một lần bạn đạt đến thành công. Và khi đó, mọi người có thể nói rằng bạn may mắn như thế nào".

Tất cả những người thành công đều từng thất bại nhiều hoặc rất nhiều lần. Không phải chúng ta không biết! Thực ra thế giới này cũng đã đầy rẫy những câu chuyện lên voi xuống chó. Nhưng giống như bước vào một cuộc hôn nhân, đa phần chúng ta đều đặt sai câu hỏi. Thay vì: "Anh/em tuyệt vời đến thế nào", lẽ ra chúng ta phải hỏi: "Anh/em có thể điên rồ và không thể chịu nổi đến cỡ nào?". Trong công việc, sự nghiệp, đa phần chúng ta đều hỏi: "Mình có thành công được như người đó không?", trong khi lẽ ra phải hỏi: "Mình có thể chịu nổi những thất bại mà người đó từng trải qua hay không?".


Ví dụ, nếu bạn muốn được như Mark Cuban, ông chủ của một đội bóng, doanh nhân, nhà làm phim thuộc hàng tỷ phú Mỹ, bạn phải chắc rằng mình có thể đi qua được những năm tháng mà ông đã từng không ngần ngại chia sẻ: "Tôi về đến nhà và thấy cả căn phòng tối om vì không đủ tiền trả hóa đơn tiền điện. Đó vừa là nguồn động lực to lớn lại vừa là nỗi xấu hổ khó quên".

Nếu bạn mơ một giấc mơ tỷ phú, hãy chuẩn bị tinh thần cho rất nhiều năm tháng bạn phải sống như một ăn mày khu ổ chuột! Đó chính là hiện thực!


Có một thí nghiệm thế này: đem 5 con ong và 5 con ruồi nhốt chung trong một chai thủy tinh, sau đó đặt ngang cái chai, hướng cho đáy chai quay về cửa sổ. Chuyện gì sẽ xảy ra?

Năm con ong không ngừng hướng về phía đáy chai để tìm lối thoát, cứ thế cho đến khi kiệt sức hoặc đói mà chết; còn những con ruồi thì chỉ một lúc sau đã có thể xuyên qua đoạn cổ chai mà thoát thân. Lý giải ở đây chính là, ong vì thích ánh sáng và kiên định nghĩ rằng lối thoát là nơi có ánh sáng, nên tự đẩy mình vào chỗ chết. Ruồi thì chả để ý gì đến ánh sáng, chúng chỉ nghĩ cách nào để thoát thân nên bay tứ tung, kết quả là sau bao nhiêu lần nhầm hướng cũng đến lúc tìm được lối ra. Thí nghiệm này chỉ để nói lên một thông điệp:


Thực ra điều này có thể gây lúng túng cho một số người. Kiên định cũng là tốt, mà uyển chuyển cũng là tốt? Làm người có nguyên tắc là tốt, nhưng biết thay đổi để thích nghi cũng là tốt? Rốt cuộc chúng ta phải làm sao mới đúng? Tin vào bản thân là tốt, mà không tin vào bản thân cũng là tốt, ủa vậy rốt cuộc là thế nào? Câu trả lời chính là:

Cân bằng mới là tốt! Liều lượng chính là thứ quan trọng! Ở đời, nói cho vui thì là: tuyệt đối không có gì là tuyệt đối!


Nếu bạn phải sợ một trong hai loại người: người hiểu biết mà quá kiên định, và người kém hiểu biết nhưng sẵn sàng thích nghi, thì bạn nên sợ hạng người thuộc vế đầu tiên. Bởi vì người quá kiên định thường khó lòng đối thoại. Họ có định kiến quá mạnh về mọi thứ, dán nhãn lên mọi loại người. Bạn sẽ cảm thấy khó chịu vì có thể họ quá kiêu hãnh để chấp nhận một ý kiến khác mình, hoặc có thể vì họ tùy tiện phán xét và xếp bạn vào một nhóm loại nào đó, quá nặng nề định kiến hoặc quá hời hợt về cảm quan. Họ có thể rời bỏ thứ gì đó rất nhanh vì đã dán nhãn "rác", và cũng bâu vào một suy nghĩ nào đó rất chặt, vì tin nó là "đúng".

Cả tin vào người khác đã đáng sợ, nhưng ít ai nghĩ rằng mình cũng có thể bị lừa bởi chính bản thân mình.

Chính vì thế một khi bạn đã là người quá cả quyết vào bản thân, người khác sẽ không còn muốn mở ra cho bạn thấy những cánh cửa khác nữa. Họ sẽ im lặng, hoặc rời đi một mình. Giống như nếu hình dung thí nghiệm ở trên là một bộ phim, chúng ta sẽ thấy một lũ ong ầm ầm cả quyết lao về đáy chai, không một con ong nào có thể nghe thấy tiếng gọi của những chú ruồi. Ngay cả khi tất cả ruồi đã thoát ra khỏi miệng chai, hẳn là đàn ong cũng không thèm bận tâm.


Thực ra, bao nhiêu niềm tin đặt vào đâu là một bài toán rất khó của mỗi người. Ngày hôm nay ta có thể rất tin vào điều này để rồi ngay ngày mai tại một khúc quanh của cuộc đời mọi thứ bỗng ngã đổ rất đau lòng. Điều duy nhất ta có thể bám víu chính là sự tương đối và mưu cầu cân bằng giữa mọi thứ. Quá nghi ngờ cũng không tốt nhưng hãy luôn để mở cho mình những khả năng khác. Đừng bao giờ để bản thân bị mắc kẹt trong những câu chuyện của người khác và cả trong những cả quyết của bản thân mình.
(Sưu tầm trên mạng)

TÂM AN SAO NỔI!

Ma vương nghe nói có một đạo sĩ tu luyện sắp thành chánh quả, liền cấp tốc triệu tập lũ âm binh:

- Tên đạo sĩ này rất lợi hại, đã trì chí tu hành hàng chục năm trong rừng sâu, vô nhiễm trước mọi cám dỗ. Không thể để hắn thành đạo được, bởi sẽ nguy hại cho thế giới ma quỷ chúng ta. Tụi bay mau mau đi quấy nhiễu cho công lao tu luyện của hắn biến thành công cốc!

Tranh minh họa: Đan
Tốp đầu vâng mệnh ra đi, chỉ giây lát đã về báo cáo:

- Thua! Tụi em bày toàn sơn hào hải vị, từ cua Alaska đến thịt bò Kobe thơm phức trước mũi mà hắn vẫn nhập định như thường!

Ma vương tức tối điều một nhóm âm binh khác, nhóm này trở về cũng không lâu sau đó:

- Lạ thiệt! Hắn đang ngồi thiền, tụi em dựng cái tivi led 4K trước mặt rồi mở phim cấp ba mới nhất của Nhật mà tâm hắn chẳng chút động đậy!

Ma vương đang vò đầu bứt tóc thì một quỷ mã diện giơ tay lãnh ấn tiên phong. Ra đi khoảng một khắc thì mặt ngựa hoan hỉ trở lại báo công:

- Ngài thưởng cho em đi, hắn thua rồi!

Cả đám ồ lên thán phục. Ma vương nôn nóng:

- Thua là thua thế nào, kể gấp đi!

Ảnh: Internet
- Em kề miệng vào tai hắn kể đủ thứ tin tức đang xảy ra ở thế gian, từ chuyện Tổng thống Mỹ khai chiến thương mại tới chuyện Putin che dù ở World Cup, hắn bình thản như không. Cuối cùng, tới chuyện gian lận thi cử trắng trợn ở một tỉnh phía Bắc, thấy hắn nhíu mày, em liền tường thuật thật chi tiết từng câu từng chữ của những người có liên quan... Đến đoạn quan đầu tỉnh bức xúc phát biểu là bị “cho vào tròng”, hắn bật thốt hai tiếng khiến bao công phu tan thành mây khói! Đó là...

Ma vương và cả đám âm binh phá ra cười:

- Biết rồi: ĐM!

Người Già Chuyện
Nguồn: Người Đô Thị Online

Friday, July 27, 2018

DANH CHÍNH NGÔN THUẬN

Tại sao nói “danh có chính thì ngôn mới thuận”

Trong cuộc sống hàng ngày, chúng ta thường nghe mọi người nói về “danh phận”, “danh chính ngôn thuận” hay “danh không chính thì ngôn không thuận”. Vậy câu này dùng để chỉ điều gì và nguồn gốc ra đời như thế nào?


Năm 501 trước công nguyên, Khổng Tử 51 tuổi làm quan Trung Đô Tề cho nước Lỗ. Một năm sau, ông được đề bạt làm Tư Không quản lý việc kiến thiết công trình. Sau đó không lâu, ông lại chuyển sang làm quan Tư Khấu. Khi Khổng Tử 56 tuổi, ông lại làm tướng quốc. Ông tham gia vào việc chính sự của nước Lỗ chỉ vẻn vẹn ba tháng, nhưng đã khiến cho tục lệ của Lỗ quốc cải biến rất lớn.

Thành quả của Khổng Tử khiến vua của nước Tề là Tề Cảnh Công cảm thấy sợ hãi. Ông ta đặc biệt chọn ra 80 cô gái xinh đẹp và cho họ ăn mặc áo hoa gấm lụa, cho họ học vũ đạo, hơn nữa còn chọn thêm 120 con ngựa tốt để cung phụng Lỗ Định Công ăn chơi hưởng lạc. Tề Cảnh Công làm như vậy nhằm để việc chơi bời hưởng lạc ăn mòn ý chí của Lỗ Định Công. Kế sách này quả nhiên có hiệu quả, Lỗ Định Công chìm đắm vào ca múa dâm lạc, không còn hỏi han đến việc triều chính.

Học trò Tử Lộ của Khổng Tử nhìn thấy tình hình ấy thì hỏi Khổng Tử: “Thưa thầy! Chúng ta hãy rời khỏi nơi này đi!”

Khổng Tử trả lời: “Nước Lỗ sắp làm tế lễ ở vùng ngoại ô. Nếu họ có thể dựa theo lễ pháp mà biếu thịt cho các quân thần thì chúng ta có thể ở lại.”

Kết quả, Lỗ Định Công vi phạm nghi thức bình thường, không đem thịt biếu các đại thần. Vì thế, Khổng Tử đã rời khỏi nước Lỗ, sang nước Vệ.

Vua của nước Vệ là Vệ Linh Công hỏi Khổng Tử, bổng lộc của ông ở nước Lỗ được bao nhiêu. Khổng Tử trả lời rằng, ông được sáu vạn đấu gạo. Thế là Vệ Linh Công cũng trả cho ông từng đó gạo.

(Ảnh minh họa)

Đám học trò đi theo Khổng Tử gặp được chỗ an thân, ai nấy đều vô cùng vui vẻ. Tử Lộ đặc biệt vui vẻ hỏi Khổng Tử: “Vua nước Vệ cho thầy cai quản việc triều chính thì trước tiên thầy sẽ làm gì?”

Khổng Tử suy nghĩ một lát rồi nói: “Ta nghĩ trước tiên phải sửa cho đúng danh phận.”

Tử Lộ không khách khí hỏi: “Thầy có phần cổ hủ rồi. Việc này đâu có gì mà phải cải chính ạ?”

Khổng Tử nói: “Người quân tử chỉ hoài nghi những gì mà trong tâm chưa rõ. Danh phận không chính thì đạo lý cũng sẽ giảng không thông. Đạo lý không thông thì sự tình làm cũng sẽ không thành. Sự tình làm không thành thì việc giáo hóa lễ nhạc của quốc gia cũng sẽ không thiết lập được. Giáo hóa lễ nhạc mà không hưng thì hình phạt sẽ không thỏa đáng. Hình phạt không thỏa đáng thì dân chúng sẽ không biết xử sự như thế nào cho phải. Cho nên, danh phận mà người quân tử dùng nhất định phải có thể nói ra đạo lý, đạo lý nói ra thì nhất định phải làm được thông.”

Theo Secretchina
Mai Trà biên dịch

NI CÔ CHẠY TRỐN ĐỂ THOÁT KHỎI LÀM VỢ VUA

Được ngồi trên ngôi vị mẫu nghi thiên hạ là niềm mong mỏi của các thiếu nữ. Thế nhưng có một mỹ nhân Việt đã không ngần ngại mà khước từ vị trí này của vua Lê Thánh Tông.

Lê Thánh Tông được xem là một vị hoàng đế anh minh thời Hậu Lê. Trong thời kỳ cầm quyền của ông, nhà nước Đại Việt quật khởi mạnh mẽ thực sự, phát triển rực rỡ ở mọi phương diện kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục và quân sự.


Ông cũng mở rộng đáng kể lãnh thổ Đại Việt sau nhiều cuộc chiến với các nước xung quanh như Chiêm Thành, Ai Lao và Bồn Man. Các thành tựu về nội trị và đối ngoại của Lê Thánh Tông đã đưa Đại Việt trở thành một cường quốc lớn mạnh trong khu vực Đông Nam Á.

Một lần vua Lê Thánh Tông ghé thăm trường Quốc Tử Giám, lúc về có ghé ngôi chùa gần đó là chùa Ngọc Hồ (còn gọi là chùa Bà Ngô, nay nằm trên phố Nguyễn Khuyến, phường Văn Miếu quận Đống Đa, Hà Nội).

Vào tới sân chùa, vua nghe thấy có tiếng người tụng kinh, giọng trong trẻo diệu kỳ như vút lên tận tầng mây, lại gần thì ngây ngất, sững sờ khi thấy ni cô đẹp như một tiên nữ giáng trần khiến cho tâm thần đức vua không khỏi xốn xang.

Ni cô quay lại, làm lễ, nhận thấy đôi mắt nhà vua nhìn mình đăm đắm, bèn lấy bút đề vào vách chùa hai câu thơ Nôm với nét chữ bay bướm:

Tới đây mến cảnh mến thầy
Tuy vui đạo Bụt, chưa khuây lòng trần!

Câu thơ nói đúng tâm trạng của vua lại càng làm Lê Thánh Tông xao xuyến, vua liền sai các quan hầu cận làm thơ vịnh để ghi nhớ buổi kì ngộ. Bài của phó nguyên soái Thân Nhân Trung làm nhanh nhất và hay nhất viết rằng:

Ngẫm sự trần duyên khéo cực cười
Sắc không, tuy Bụt, ấy lòng người
Chày kình một tiếng tan niềm tục
Hồn bướm ba canh lẩn sự đời
Bể ái nghìn tầm mong tát cạn
Nguồn ân muôn trượng chửa khơi vơi
Nào nào cực lạc là đâu tá?
Cực lạc là đây chín rõ mười

Đọc xong, ni cô liền phê rằng: “Hai câu thực và luận còn thiếu ý lại chưa thanh, nên sửa là: "Gió thông đưa kệ tan niềm tục/Hồn bướm mơ tiên lẩn sự đời”. Vua Lê Thánh Tông thật sự cảm phục trước sự mẫn tuệ và cao khiết của ni cô, bèn một mực rước mời ni cô lên xa giá về cung để lập làm phi.

 Ảnh minh họa

Biết khó có thể chối từ ngay được, ni cô đành thuận theo nhưng tìm cách thoát khỏi tình cảnh khó xử này. Không rõ bằng cách nào, khi xa giá vừa đến cửa Đại Hưng (khu vực Cửa Nam, Hà Nội ngày nay) thì trong xe không còn thấy bóng ni cô đâu nữa.

Vua Lê Thánh Tông ngạc nhiên tin chắc ni cô là một tiên nữ giáng trần. Lòng ngơ ngẩn tiếc nuối mãi, rồi truyền lệnh cho xây lầu Vọng tiên ở ngay đó để kỷ niệm và cũng để ngóng trông, hy vọng có dịp tái ngộ với người con gái tài sắc ấy.

Sau này vào thời Tây Sơn có một bài thơ chê cười nhà vua như sau:

Phật đường săn gái chuyện làm càn
Đắc ý nhà vua chuyện những toan
Người ngọc nhà vàng thành mộng hão
Duyên may lại kém bác đồ gàn

Bảo Minh tổng hợp

QUỐC BIẾN NĂM ẤT DẬU


QUỐC BIẾN NĂM ẤT DẬU
thơ Phạm Như Xương

Võng lọng nghênh ngang giữa cõi trần 
Biết ai là chúa biết ai thần 
Ngu thiều tâu hết khôn nghe phụng 
Lỗ xã tu rồi chẳng phải lân 
Mỏi mắt Hi Di trời ngũ quý 
Nhọc lòng Gia Cát đất tam phân 
Thôi thôi đã thế thì hay thế 
Nhờ lượng cao dầy cứu lấy dân

Ghi chú:

Năm Ất Dậu 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu cần vương chống Pháp, cùng quần thần bỏ ra Tân Sở phát động phong trào đánh đuổi quân Pháp xâm lăng. Tướng Tôn Thất Thuyết huy động được hai vạn quân tấn công toà Khâm sứ Huế và trại lính Pháp tại đồn Mang Cá, nhưng vì thế cô và ít súng đạn, quân ta thua chạy. Tôn Thất Thuyết trốn ra Quảng Trị rồi sau cùng trốn sang Tàu. Cụ Nguyễn Văn Tường thì bị đày ra đảo Haiti ở Thái Bình Dương, được ít lâu mất tại đó, quan tài được đem về chôn tại Việt Nam.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Phạm Như Xương 范如昌 là một vị quan triều Nguyễn, sinh năm 1844 tại Quảng Nam, không rõ năm mất (có tài liệu cho rằng ông mất năm 1919), tự Phồn Sinh. Ông đỗ cử nhân năm 25 tuổi, đỗ tiến sĩ (Đình nguyên Hoàng giáp) năm Ất Hợi 1875 (32 tuổi), là một trong sáu người được mệnh danh là "Lục phụng bất tề phi" của Quảng Nam cùng với Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Chu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ). Trong lịch sử khoa bảng tỉnh Quảng Nam ông là người đỗ cao nhất. Ông làm quan ở bộ, viện, nội các, làm bố chánh ở Phú Yên rồi cáo quan về hưu. Ông chính là người đã làm quan chủ khảo trong cuộc thi có Phan Bội Châu dự thi và ông đã đánh giá rất cao về tài năng của Phan Bội Châu. Về sau Phạm Như Xương chiêu tập nghĩa quân chống Pháp ở Bình Thuận, Phú Yên. Nghĩa quân tan rã, ông và gia quyến bị bắt giải về kinh sư. Nhưng sau ông được ân xá, được trở lại làm quan ở Thanh-Nghệ-Tĩnh. Một thời gian sau ông cáo quan về hưu. Các con của ông có những người tham gia vào các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp vào đầu thế kỉ 20 như Phạm Như Giáp, Phạm Như Đỉnh, Phạm Như Chương... Bản thân ông cũng là cố vấn của tổ chức Việt Nam quang phục hội do Phan Bội Châu lãnh đạo.

Phạm Như Xương được khắc tên ở bia tiến sĩ tại Văn Miếu (Huế) nhưng vì tham gia chống Pháp, ông bị đục tên khỏi bia tiến sĩ. Hiện nay, ở Quảng Nam có một ngôi trường tiểu học mang tên ông và ở Đà Nẵng cũng có một con đường mang tên ông. Ông là một vị quan nhưng đồng thời cũng là tác giả của nhiều bài văn thơ nhưng nay đã thất lạc (vì năm 1916 con trai ông tham gia khởi nghĩa Duy Tân nên sách vở bị tịch thu) chỉ còn "Hịch văn thân Quảng Nam" viết vào những năm đầu phong trào Nghĩa hội Quảng Nam do Trần Văn Dư và Nguyễn Duy Hiệu phát động năm 1885.

Nguồn: Thi Viện

TẠI SAO NGƯỜI TA THÍCH DANH XƯNG?


Tôi khổ tâm nhất là chuyện danh xưng, hay phải nói đúng hơn là “vấn đề danh xưng”. Tôi thỉnh thoảng viết báo và không bao giờ sử dụng đến danh xưng, thế nhưng những người biên tập vẫn chêm vào những danh xưng trước tên tôi, làm tôi rất khổ với Ba tôi lúc sinh tiền. Ba tôi mỗi lần đọc được một bài báo với tên tôi tác giả và có kèm theo mấy chữ nhí nhố trước tên là ông nói xa nói gần rằng có người hám danh, thiếu tự tin, nên dùng đến những danh hiệu phù phiếm. Tôi biết Ba tôi nói ai, và tôi thấy mình oan lắm. Có nhiều người như tôi, không bao giờ dùng danh xưng trước tên mình, nhưng vì ban biên tập thêm vào để -- nói theo họ -- là tăng trọng lượng của bài báo! Tôi không hiểu tại sao ý kiến của một giáo sư hay tiến sĩ phải có trọng lượng hơn ý kiến của một người bán vé số? Thật là vô lí! Người khôn nói 100 điều cũng có ít nhất một điều dại dột, còn người dại dột nói 100 điều chắc cũng có ít nhất là 1 điều khôn. Ý kiến phải bình đẳng.

Nhưng trong thực tế thì ở Việt Nam, danh xưng đóng vai trò quan trọng, hay rất quan trọng. Có một lần, khi về làm việc ở một tỉnh thuộc vùng miền Tây, sau bài nói chuyện tôi được một vị cao tuổi ân cần trao cho một danh thiếp với dòng chữ tiếng Anh: “Senior Doctor Tran V. …”. Đây là lần đầu tiên tôi thấy một danh xưng như thế trong đời. Tìm hiểu một hồi tôi mới biết ông là một cựu quan chức cao cấp trong ngành y tế của thành phố (đã nghỉ hưu), nhưng vẫn còn giữ chức vụ gì đó trong một hiệp hội chuyên môn. Tôi nghĩ danh xưng “Senior Doctor” (có lẽ nên dịch là “Bác sĩ cao cấp” hay nôm na hơn là “Bác sĩ đàn anh”). Nhưng tại sao lại cần một danh xưng phân biệt “giai cấp” như thế? Tôi đoán có lẽ vị đồng nghiệp này muốn phân biệt mình với “đám” bác sĩ đàn em chăng?


Một lần khác, khi xem qua chương trình hội nghị tôi thấy ban tổ chức viết tên diễn giả bằng tiếng Việt và tiếng Anh. Những người có danh xưng tiếng Việt ví dụ như “TS BS Trần Thị …” được dịch sang tiếng Anh là “Dr. Dr. Tran Thi …”. Tôi không khỏi cười thầm trong bụng vì chưa thấy nơi nào trên thế giới có cách viết lạ lùng như thế. Tôi sợ nhất là trong hội nghị có đồng nghiệp ngoại quốc mà họ đọc được cái danh xưng “Dr Dr” này chắc tôi tìm lỗ mà chui xuống không kịp quá! Tôi đề nghị cách viết “đơn giản” hơn là chỉ “Dr” thôi là đủ, nhưng cũng phải vài phút thảo luận người ta mới chịu đề nghị này!

Tôi vẫn còn giữ một danh thiếp khác với dòng chữ: “Dr Specialist II Nguyễn M”. Một anh bạn người Úc tôi có lần tình cờ thấy danh thiếp trên bàn nên thắc mắc hỏi tôi “Specialist II” là gì vậy. Lúc đó tôi cũng chẳng biết, nên đành nói: “I have no idea”, nhưng tôi nói thêm rằng tôi đoán đó là bác sĩ chuyên khoa gì cấp 2 gì đó. Anh bạn đồng nghiệp cười nói mỉa mai (rất dễ ghét) rằng: ước gì tao cũng được cấp II nhỉ?


Không nghi ngờ gì nữa: người Việt rất sính dang xưng. Những gì Dạ Lan viết đều đúng, nhưng … chưa đủ. Còn nhiều chuyện cười ra nước mắt về những nhầm lẫn về danh xưng (honorific), tước hiệu, và nghề nghiệp ở Việt Nam mà tôi từng chứng kiến trong các hội nghị. Nghe những lời giới thiệu dài lòng thòng như “Giáo sư, tiến sĩ, nhà giáo nhân dân, anh hùng lao động, bác sĩ Nguyễn Văn …” nó khôi hài làm sao!

Tôi vẫn tự hỏi tại sao người ta thích danh xưng trước tên mình? Kinh nghiệm của tôi, khi tiếp xúc với những người hay sử dụng danh xưng cho thấy họ thường dùng danh xưng với những động cơ sau đây:


1. Người dùng danh xưng thường muốn nuôi nấng niềm kiêu hãnh của mình. Danh xưng thường có xu hướng bơm phồng “cái tôi” của một cá nhân, và do đó làm cho cá nhân đó tự đánh giá cao chính mình hơn là thực tế. Bà Jill Biden, vợ phó tổng thống Mĩ Joe Biden, từng phàn nàn rằng bà rất “bệnh” khi nhận email và thư gửi đến gia đình với dòng chữ “Sen. and Mrs Biden” (Thượng nghị sĩ và Bà Biden). Bà muốn được danh xưng là “Sen. and Dr. Biden”, và thế là bà đi học đế lấy bằng tiến sĩ Anh văn. Sau 4 năm nghiên cứu, bà được trao bằng tiến sĩ ở tuổi 55. Câu chuyện bà Biden sính danh là đề tài đàm tiếu của giới báo chí Mĩ hồi đầu năm nay.

2. Người dùng danh xưng như là một hình thức tự quảng cáo. Thật ra, một số người sử dụng danh xưng "Tiến sĩ" hay "Giáo sư" nhắm mục đích tăng giá trị, trọng lượng của ý kiến của họ. Trong thực tế, công chúng cũng có khuynh hướng xem ý kiến của một “Giáo sư tiến sĩ” có giá trị cao hơn ý kiến của một … nông dân. Bởi vì đánh giá cao ý kiến của những vị sư sĩ này, nên ít ai dám chất vấn hay phản bác lại ý kiến của họ. Nhưng không có bất cứ một lí do nào để xem ý kiến của một vị giáo sư hay tiến sĩ có giá trị hơn ý kiến của một nông dân; vấn đề là logic và bằng chứng, vì hai khía cạnh này mới chính là thước đo giá trị của ý kiến.


3. Người dùng danh xưng muốn được người khác kính trọng mình. Đây là biện minh (hay lí lẽ) của những người chức sắc tôn giáo, vì họ cho rằng họ cần những “Thượng tọa”, “Hòa thượng”, “Linh mục”, “Mục sư”, v.v… để tín đồ tỏ lòng kính trọng họ. Thế nhưng tôi lại nghĩ các Phật tử hay tín đồ Công giáo vẫn có thể gọi “thầy” và “cha” mà đâu có tỏ ra thiếu kính trọng gì đâu!

4. Những danh xưng thường gây chú ý một cách không cần thiết. Người sử dụng danh xưng ngầm nói cho người khác rằng họ là người quan trọng và đáng được kính trọng. Mặc dù họ không bao giờ thú nhận ý đồ ngầm này, nhưng nghiên cứu tâm lí cho chúng ta biết động cơ sử dụng danh xưng là để gây chú ý như ca sĩ thích làm trò khác lạ để thu hút khán giả.

5. Người dùng danh xưng có khuynh hướng khao khát quyền lực và trần tục. Một nghiên cứu ở Mexico cho thấy rất nhiều chính trị gia không có văn bằng tiến sĩ nhưng họ vẫn tìm cách mua danh xưng “Dr” bằng cách tranh thủ hay vận động để được một đại học nào đó cấp cho bằng “tiến sĩ danh dự” (honour doctor). Với danh xưng này, họ rất dễ thu hút cảm tình của cử tri và có cơ may đắc cử hơn những người không có danh xưng.

6. Người dùng danh xưng hay có xu hướng quảng bá thái độ “elite”, thái độ kẻ cả, hoặc thái độ toàn trị. Những người này thường tự tô son điểm phấn cho mình bằng cách “tiêm” vào mình những danh xưng thật kêu và thật ấn tượng và bắt đầu nhiễm thói kiêu ngạo xem thiên hạ như dưới tay mình.


Ba tôi lúc sinh tiền mỗi lần nghe ai được giới thiệu như trên tivi với những danh xưng dài lê thê như “Nghệ sĩ nhân dân, tiến sĩ Vũ Đình …” thì ông thở dài nói một mình: lại một ông thiếu tự tin, lòe thiên hạ. Ba tôi tin rằng những người cần đến danh xưng phía trước tên mình là một tín hiệu cho thấy người đó hoặc là bất tài, hoặc là thiếu tự tin, nên phải lấy những danh tước đó ra để tự nâng cao giá trị cho mình. Ngẫm đi nghĩ lại tôi thấy Ba tôi cũng có lí, bởi vì ở Việt Nam những người thích dùng danh xưng là các quan chức trong chính quyền. Là quan chức, làm việc hành chính hay chính trị, họ không phải làm chuyên môn; do đó, có lẽ họ có nhu cầu phải quảng bá mình như là một nhân vật "văn võ song toàn", và để cho … oai.

Nhưng các quan chức Việt Nam có danh xưng “Dr.” coi chừng! Năm ngoái, theo tờ Washington Post, có ít nhất 7 người Mĩ với bằng tiến sĩ từ các trường danh tiếng như Cornell và Caltech bị điều tra về tội “mạo danh” (“title fraud”) vì họ đề danh xưng “Dr.” trên danh thiếp của họ và websites. Ở EU, chỉ có những người có bằng tiến sĩ từ các trường của EU mới có quyền dùng danh xưng “Dr.” Chẳng biết hư thực ra sao, nhưng nghe qua thì có vẻ ... vô lí quá!

Ở Việt Nam, vấn đề danh xưng là vấn đề “merit” (xứng đáng). Trước tình trạng tiến sĩ giấy, tiến sĩ dỏm tràn lan ở Việt Nam như hiện nay, bất cứ ai được giới thiệu là “tiến sĩ”, người dân ngao ngán nghĩ thầm “lại một tiến sĩ giấy”. Trong bối cảnh đa số (70% hay 95%) giáo sư Việt Nam không xứng đáng với chức danh đó trên trường quốc tế, và với hệ thống phong tước danh như hiện nay thì làm sao danh xưng này củng cố lòng tin của người dân. Nhưng ở Việt Nam vẫn có những tiến sĩ, những giáo sư thật (tức là họ có học và có nghiên cứu xứng đáng với danh xưng đó), nhưng khổ nỗi vì đại đa số những tiến sĩ giấy và giáo sư dỏm kia làm cho công chúng chẳng biết ai là giả và ai là thật. Do đó, cách đánh bóng danh xưng như ở Việt Nam gây ra tình trạng vàng thau lẫn lộn.


Cách dùng danh xưng hiện nay lẫn lộn giữa bằng cấp, phẩm hàm danh dự, và chức vụ. Ai cũng biết cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ là những học vị; phó giáo sư và giáo sư là chức danh khoa bảng trong trường đại học; những “nghệ sĩ nhân dân”, “nghệ sĩ ưu tú”, “nhà giáo nhân dân”, “nhà giáo ưu tú” (toàn bắt chước Trung Quốc!) là những tước hiệu danh dự; còn những “giám đốc”, “đại tá”, “bộ trưởng”, v.v… là chức vụ. Ở Việt Nam, tôi thấy trong các hội nghị, những tước hiệu, chức vụ và học vị đều được liệt kê trước tên người diễn giả, chẳng khác gì một bản lí lịch bằng cấp và chức danh! Ở nước ngoài, trong các hội nghị khoa học, người ta chỉ giới thiệu diễn giả bằng một danh xưng duy nhất như “Dr” hay “Professor”, chứ rất rất hiếm ai giới thiệu thêm chức vụ, và chắc chắn chẳng có ai giới thiệu diễn giả dài lê thê như ở Việt Nam (nếu có ai giới thiệu như thế chắc chắn hội trường sẽ cười ầm lên)!

Cách dùng danh xưng như hiện nay chẳng những lẫn lộn thật giả, giữa chức vụ và học vị, mà còn làm trò cười cho đồng nghiệp quốc tế. Trường hợp mà tôi thuật lại ở trên về “Specialist II” (chắc là bác sĩ chuyên khoa II) là một ví dụ điển hình. Bởi vì chỉ có Việt Nam mới có hệ thống bác sĩ chuyên khoa I, chuyên khoa II lạ lùng như thế, nên đồng nghiệp quốc tế chẳng thể nào hiểu được. Thật ra, họ cũng chẳng cần hiểu Specialist I hay Specialist II hay “chuyên khoa II” là cái gì; họ chẳng thèm tốn thì giờ đọc danh thiếp với những chi chít “Dr”, “Professor” làm gì; họ quan tâm đến CV, đến thực tài hơn. Có liệt kê chín mười danh xưng đi nữa mà CV chẳng có gì, thì chỉ làm cho đồng nghiệp ngoại quốc cười khẩy mà thôi. Khi thực tài không tương đồng hay còn quá thấp so với học hàm và học vị, thì những danh xưng đó chỉ là trò hề cho thiên hạ mà thôi. Nên giảm các danh xưng đi, hay tốt nhất là bỏ đi tất cả danh xưng trong các dịp hội họp chẳng liên quan gì đến khoa học và chuyên môn! Đây là lời khuyên chân tình!

Nguyễn Văn Tuấn
Tuan's blog

Thursday, July 26, 2018

CAO BƯU NỮ NHI CA - TRỊNH ĐỊNH


Cao Bưu nữ nhi ca - Trịnh Định

Cao Bưu hồ thuỷ thanh thả u, 
Cao Bưu nữ nhi năng đãng chu. 
Thập bát sơ trang hảo cao kế, 
Nhị thập giá phu trường viễn du. 
Thanh lăng kính phá bảo thoa chiết, 
Phỉ thuý khâm hàn điệp hương tuyết. 
Phương thảo vương tôn khứ bất quy, 
Huệ cô đề xứ Tần lâu nguyệt. 
Lâu tiền dương liễu phi nhứ đa, 
Môn ngoại thù ty thành võng la. 
Cao Bưu hồ thuỷ tăng tịch ba, 
Cao Bưu nữ nhi tương nại hà.


高郵女兒歌 - 鄭定

高郵湖水清且幽, 
高郵女兒能蕩舟。 
十八梳妝好高髻, 
二十嫁夫長遠遊。 
青菱鏡破寶釵折, 
翡翠衾寒疊香雪。 
芳草王孫去不歸, 
蟪蛄啼處秦樓月。 
樓前楊柳飛絮多, 
門外蛛絲成網羅。 
高郵湖水增夕波, 
高郵女兒將奈何。


Bài ca cô gái Cao Bưu 
(Dịch thơ: phanlang)

Hồ Cao Bưu nước trong xứ vắng 
Gái Cao Bưu rất giỏi chèo đò 
Tóc búi cao điểm trang mười tám 
Chồng đi xa lúc cưới hai mươi 
Kính thanh lăng theo thoa quý gãy 
Hương điệp cùng chăn thuý lạnh se 
Vương tôn đi bỏ vườn xanh cỏ 
Trăng lầu Tần đơn lẻ tiếng ve 
Liễu bên lầu bay bông đầy ngõ 
Nhện giăng tơ nhà cửa vắng hoe 
Hồ Cao Bưu sóng chiều đây đó 
Gái Cao Bưu tình nghĩa, ai dè.

Sơ lược tiểu sử tác giả:

Trịnh Định 鄭定 tự Mạnh Tuyên 孟宣 người huyện Mân (nay thuộc Phúc Châu). Ông giỏi kiếm, từng làm giúp việc cho Trần Hữu Định 陳友定. Khi Trần Hữu Định binh bại, ông phiêu bạc vùng Giao Châu, Quảng Châu, sau đó về Trường Lạc. Ông giỏi chữ triện, lệ, được người đời xưng tụng là một trong Mân Trung thập tài tử. Sau ông làm quan tới Quốc tử trợ giáo.

Nguồn: Thi Viện