QUỐC BIẾN NĂM ẤT DẬU
thơ Phạm Như Xương
Võng lọng nghênh ngang giữa cõi trần
Biết ai là chúa biết ai thần
Ngu thiều tâu hết khôn nghe phụng
Lỗ xã tu rồi chẳng phải lân
Mỏi mắt Hi Di trời ngũ quý
Nhọc lòng Gia Cát đất tam phân
Thôi thôi đã thế thì hay thế
Nhờ lượng cao dầy cứu lấy dân
Ghi chú:
Năm Ất Dậu 1885, vua Hàm Nghi hạ chiếu cần vương chống Pháp, cùng quần thần bỏ ra Tân Sở phát động phong trào đánh đuổi quân Pháp xâm lăng. Tướng Tôn Thất Thuyết huy động được hai vạn quân tấn công toà Khâm sứ Huế và trại lính Pháp tại đồn Mang Cá, nhưng vì thế cô và ít súng đạn, quân ta thua chạy. Tôn Thất Thuyết trốn ra Quảng Trị rồi sau cùng trốn sang Tàu. Cụ Nguyễn Văn Tường thì bị đày ra đảo Haiti ở Thái Bình Dương, được ít lâu mất tại đó, quan tài được đem về chôn tại Việt Nam.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Phạm Như Xương 范如昌 là một vị quan triều Nguyễn, sinh năm 1844 tại Quảng Nam, không rõ năm mất (có tài liệu cho rằng ông mất năm 1919), tự Phồn Sinh. Ông đỗ cử nhân năm 25 tuổi, đỗ tiến sĩ (Đình nguyên Hoàng giáp) năm Ất Hợi 1875 (32 tuổi), là một trong sáu người được mệnh danh là "Lục phụng bất tề phi" của Quảng Nam cùng với Phạm Phú Thứ (tiến sĩ), Phan Chu Trinh, Nguyễn Duy Hiệu (phó bảng), Trần Quý Cáp, Huỳnh Thúc Kháng (tiến sĩ). Trong lịch sử khoa bảng tỉnh Quảng Nam ông là người đỗ cao nhất. Ông làm quan ở bộ, viện, nội các, làm bố chánh ở Phú Yên rồi cáo quan về hưu. Ông chính là người đã làm quan chủ khảo trong cuộc thi có Phan Bội Châu dự thi và ông đã đánh giá rất cao về tài năng của Phan Bội Châu. Về sau Phạm Như Xương chiêu tập nghĩa quân chống Pháp ở Bình Thuận, Phú Yên. Nghĩa quân tan rã, ông và gia quyến bị bắt giải về kinh sư. Nhưng sau ông được ân xá, được trở lại làm quan ở Thanh-Nghệ-Tĩnh. Một thời gian sau ông cáo quan về hưu. Các con của ông có những người tham gia vào các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp vào đầu thế kỉ 20 như Phạm Như Giáp, Phạm Như Đỉnh, Phạm Như Chương... Bản thân ông cũng là cố vấn của tổ chức Việt Nam quang phục hội do Phan Bội Châu lãnh đạo.
Phạm Như Xương được khắc tên ở bia tiến sĩ tại Văn Miếu (Huế) nhưng vì tham gia chống Pháp, ông bị đục tên khỏi bia tiến sĩ. Hiện nay, ở Quảng Nam có một ngôi trường tiểu học mang tên ông và ở Đà Nẵng cũng có một con đường mang tên ông. Ông là một vị quan nhưng đồng thời cũng là tác giả của nhiều bài văn thơ nhưng nay đã thất lạc (vì năm 1916 con trai ông tham gia khởi nghĩa Duy Tân nên sách vở bị tịch thu) chỉ còn "Hịch văn thân Quảng Nam" viết vào những năm đầu phong trào Nghĩa hội Quảng Nam do Trần Văn Dư và Nguyễn Duy Hiệu phát động năm 1885.
(Sưu tầm trên mạng)
No comments:
Post a Comment