Saturday, October 2, 2021

SỐNG KHÔNG TỬ TẾ THÌ ĐI CÚNG BÁI, CẦU AN ĐỂ LÀM CÁI GÌ?

Con người cúng bái cầu an cho mình nhưng lại đem bất an cho kẻ khác thì liệu có tránh được luật nhân – quả?

Ảnh: Người dân chầu chực hàng tiếng giữ chỗ lễ cầu an ở chùa Phúc Khánh ngày 1/3/2018.

Những ngày đầu năm mới, đặc biệt dịp rằm tháng Giêng, nhiều nơi tổ chức lễ cầu an cho các gia đình, cầu một năm mưa thuận, gió hòa, quốc thái dân an. Lễ cầu an thu hút sự tham gia của đông đảo tăng ni, phật tử, người dân. Đó là một nét đẹp văn hóa tinh thần của người Việt.

Thế nhưng, điều đáng nói, vì sao người người nô nức cầu an, giải hạn mà cuộc sống vẫn đầy rẫy những bất an do chính con người gây ra cho nhau như vậy?

Xem ra, gần đây có nhiều người mê mẩn cúng lễ tới mức cuồng tín, mù quáng đến nực cười. Mấy ngày Tết nguyên đán Mậu Tuất, con cá chép lúc nổi, lúc chìm dưới mương nước lại được người dân phong thần rồi đem đồ ra cúng bái; mới hôm qua lại có tin nhiều người quỳ lạy, khấn bái mẹ con rắn nước nằm trên ngôi mộ hoang.


Buồn cười hơn nữa, hàng ngàn người leo núi Đại Huệ, thuộc xã Nam Anh (Nam Đàn, Nghệ An) để du xuân, cầu mong trí tuệ và sự thành đạt. Trí tuệ và sự thành đạt đâu phải cứ cầu cúng là có. Nó phải là kết quả của một quá trình trau dồi, rèn luyện, phấn đấu. Hay nhiều lễ hội, sau màn lễ lạt, cúng bái, nhiều người xông vào tranh giành, cướp đồ tế lễ với niềm tin rằng “một miếng lộc thánh bằng một gánh lộc trần”.

Nói rằng làm lễ cầu an nhưng khi hành lễ đã không an chút nào. Bởi nhiều người phải chen lấn, giành chỗ ngồi. Thậm chí, có những khóa lễ, người người chen nhau đến “bẹp ruột”, cãi cự nhau chỉ để lấy một chút lộc.

Cuộc sống sẽ chẳng tươi đẹp nếu chúng ta chỉ có những ước muốn thuần túy mà không có những hành động thiết thực. Chính vì lẽ đó mà mối quan hệ nhân – quả luôn cần được đề cao trong tất cả các lời nói, hành động và mối quan hệ xã hội.

Người Việt Nam ta thường nhắc nhau những câu như “gieo nhân nào gặt quả ấy”, “sóng trước đổ đâu sóng sau đổ đấy”, “đời cha ăn mặn đời con khát nước”… để răn dạy bản thân và con cháu. Con người cứ nườm nượp đi cầu an mà không chú ý đến việc rèn luyện, trau dồi đạo đức, chuẩn mực trong lời nói, hành động, sẻ chia, giúp đỡ người khác… thì chẳng có an vui nào tìm đến, thậm chí, có khi còn chuốc họa vào thân bởi những lời nói, việc làm chướng tai, gai mắt.

Thực tế, giữa mong muốn và hành động của nhiều người đang rất mâu thuẫn nhau. Cầu cho mưa thuận, gió hòa nhưng lại phá rừng, chặt cây không thương tiếc, xả rác bừa bãi, nước thải sinh hoạt, nước thải công nghiệp xả thẳng ra sông hồ… chỉ chẳng mẹ thiên nhiên nào chiều lòng con người được.


Cầu cho an khang, sung túc, yên lành, nhưng lại buôn gian, bán lận, buôn hàng giả, hàng nhái, buôn thuốc giả, thức ăn kém an toàn; uống rượu bia, điều khiển phương tiện giao thông, gây gổ đánh nhau… thì sao thân lành, tâm an lạc được. Con người đang cầu an cho chính mình nhưng lại đem bất an cho người khác. Vậy có hợp lý không, có được Phật Thánh phù hộ không?

Sau những buổi lễ cầu an hay đến chùa lễ bái, con người cần có cái nhìn, hành động hướng thiện, có trách nhiệm với bản thân và những người xung quanh. Đó mới là “gieo nhân ái gặt yêu thương”!

Nguồn:VOV

LỚN LÀ PHẢI HIỂU: HỌC CÁCH "KEO KIỆT" Ở 3 PHƯƠNG DIỆN, MỚI MONG GIỮ ĐƯỢC TIỀN

Tiết kiệm, trước giờ luôn là một đức tính tốt. Bình thường, tiêu tiền ki bo một chút cũng chẳng mất gì, cũng không mất mặt.


Tiết kiệm, không đồng nghĩa với việc trở thành nô bộc của đồng tiền, mà nó là một sự đảm bảo, đảm bảo cho hạnh phúc và cuộc sống đầy đủ của gia đình, đảm bảo những lúc khó khăn cũng không phải hoang mang.

Con người ta, càng lớn, càng phải học cách "keo kiệt" ở 3 phương diện, có vậy thì tiền mới ngày càng nhiều, giờ biết vẫn chưa muộn.

"Keo kiệt" với tài khoản tiết kiệm của mình, đừng khoe khoang ra bên ngoài

Có câu: không sợ trộm cướp, chỉ sợ trộm ghim.

Nếu một người cứ hở ra là khoe khoang số tiền mà gia đình mình có ra bên ngoài, vậy nó chỉ có thể cho thấy rằng người đó vẫn chưa trưởng thành. Người thông minh luôn biết giữ lại 3 phần về tài khoản của mình, tuyệt đối không nói toẹt móng ngựa ra cho người khác biết.


Mình có bao nhiêu tiền, mình mình biết là được rồi, không cần thiết phải đi khoe khoang, nói cho người ngoài biết ta đây giàu có ra sao. Chỉ chẳng hạn như vấn đề vay tiền, thử nghĩ mà xem, người ta biết bạn có nhiều tiền, người ta đến vay, một hai lần vì việc gấp thì còn được, nhưng nếu họ được nước lấn tới, tới vay bạn hết lần này tới lần khác thì sao? Bạn không cho vay, người ta quay ngoắt nói bạn sống không có tình có nghĩa, vậy há chẳng phải là tự mình làm khổ mình ư?

Dễ dàng tiết lộ thu nhập hay tài khoản tiết kiệm với người khác, người chịu thiệt chỉ có mình. Tiền nhiều mà bị lộ ra ngoài, khó tránh khỏi việc bị người khác nhòm ngó, có ý đồ, những lúc như vậy, rất dễ rước họa vào thân.

Ai cũng cần có sự riêng tư, tiền bạc lại càng cần như vậy, dẫu sao thì sống ở đời, ai mà chẳng thích tiền. Vì vậy, càng lớn càng phải học cách "keo kiệt" trong vấn đề này, đừng hở ra là "hào phóng" tuôn hết ra tôi có ngần này ngần này, có vậy mới mong giữ được tiền.


"Keo kiệt" với những người "được nước lấn tới, có cháo đòi chè"

Đừng bao giờ cho những người vong ân bội nghĩa, không có lòng biết ơn vay tiền, dù họ có phải người thân thích hay không, cái tâm tư "vay rồi không trả" của họ, nhiều khi còn vượt qua cả sự tưởng tượng của bạn.

Biết bao nhiêu người thân vì chuyện tiền bạc mà trở mặt thành thù, đối với kiểu "cho vay những chưa chắc đã được trả" như vậy, cứ "keo kiệt" một chút, tránh phiền phức sau này, đồng thời cũng là giữ tiền cho mình. Tiền là tiền mồ hôi xương máu mình vất vả làm ra, mình có quyền tiếc, có quyền xót.

Ngoài ra, đối với kiểu thân thích nhưng mượn tiền không trả, còn quay ngược lại nói bạn keo kiệt như vậy, tốt nhất là không nên thâm giao. Đối với những người như vậy, một khi bạn đã cho họ vay tiền rồi, thì đối với họ mãi mãi luôn là không đủ. Vậy thì tốt nhất là keo kiệt với họ ngay từ đầu, dứt khoát không cho vay ngay từ đầu, tránh rắc rối không cần thiết sau này.



"Keo kiệt" với những chi tiêu không cần thiết

Ai trong chúng ta cũng nên có một kế hoạch chi tiêu thích hợp cho mình, điều này có ích trong rất nhiều phương diện.

Nếu bạn có thói quen ghi chép lại chi tiêu, bạn sẽ phát hiện ra rằng, trong những chi tiêu lớn hàng ngày, có những chi tiêu nhỏ thực ra không hề cần thiết.

Trong cuộc sống, nếu chúng ta không hiểu thế nào là "lựa thu mà chi", vậy sẽ rất dễ rơi vào trạng thái tiêu dùng hoang phí, chi tiêu cho những thứ không cần thiết. Vì vậy, chúng ta nên có một kế hoạch chi tiêu khoa học cho cả gia đình.

Keo kiệt một chút đối với những chi tiêu không cần thiết, rồi thích nghi và hưởng thụ cuộc sống trong sự sự quy hoạch hợp lý ấy, có vậy mới giữ được tiền cho cả nhà.


Kiếm tiền không dễ, vì vậy, làm ơn hãy giữ cho chặt túi tiền của mình.

Tài sản của cả một gia đình là cả một quá trình tích lũy lâu dài, nhưng tiêu sài thì lại không cần cả một quá trình dài lâu tới như vậy.

Xã hội hiện tại, những người mang tư tưởng "mình thích thì mình tiêu thôi", "tiều nhiều mới kiếm được nhiều", "sống là phải hưởng thụ" … có không ít, nhưng rồi sẽ có một ngày bạn phát hiện ra, sự hoang phí, thậm chí có phần bất cần, chi tiêu không cần suy nghĩ của mình trước đó lại khiến mình của hiện tại có thể khổ sở tới như vậy.


Cuộc sống vốn dĩ ngập tràn những điều không thể ngờ tới, số tiền mà bạn sở hữu trực tiếp quyết định vấn đề khó khăn trong cuộc sống mà bạn sẽ gặp phải nó nhiều hay ít, nó dễ hay khó giải quyết. Vì vậy, keo kiệt một chút ở 3 phương diện trên, nhưng đồng thời cũng là đang chừa lối đi, là đang xây dựng lá chắn bảo vệ cho mình trong tương lai.

Dẫu sao thì, tiêu thì dễ, kiếm mới khó. Học cách tiết kiệm, tiêu tiền lý trí, tiêu dùng đúng lúc đúng chỗ, là những bước đầu tiên nếu muốn cuộc sống trung niên của mình dễ thở và thậm chí là cao cấp hơn.

Theo A. Độ (Báo Dân sinh)

TẠI SAO MỸ VẪN SỬ DỤNG HỆ THỐNG MÁY TÍNH TỪ NĂM 1970 ĐỂ ĐIỀU KHIỂN TÊN LỬA HẠT NHÂN?

Chắc chắn các bạn không đọc sai tiêu đề bởi một báo cáo mới nhất đã tiết lộ rằng một tổng số lớn những kho quân giới hạt nhân của Mỹ hiện vẫn đang được quản lý và điều khiển bởi hệ thống máy tính có từ những năm 1970 áp dụng đĩa mềm 8-inch để lưu trữ thông tin nhưng dấu chấm hỏi là tại sao họ lại làm vậy trong thời đại hiện tại?

Những hệ thống này vẫn còn có được bởi đơn giản là nó vẫn còn áp dụng được.

Căn cứ theo báo cáo từ Văn phòng Kiểm toán Chính phủ (GAO) và Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ (DOD) thì hiện tại các hoạt động quản lý và điều khiển liên quan tới các lực lượng hạt nhân của Mỹ bao gồm vật bắn ra xuyên lục địa, máy bay ném bom nguyên tử… đều đang được thực hiện trên các hệ thống ADP “tiền sử” đã được xây dựng từ cách đây hơn 40 năm. Cũng theo báo cáo trên, hàng năm, Mỹ phải chi ra 61 tỷ USD để duy trì, bảo dưỡng các công nghệ lỗi thời ở điều kiện hoạt động được, gấp 3 lần số tiền phải chi ra cho các hệ thống mới với chỉ 19,2 tỷ USD.

Lý do cho sự thật trên rất đơn giản dựa vào trả lời của biểu đạt viên Valerie Henderson của Ngũ Giác Đài với AFP: “Những hệ thống này vẫn còn có được bởi đơn giản là nó vẫn còn áp dụng được”.


Cứ cho là như vậy đi nhưng việc họ vẫn áp dụng những chiếc đĩa mềm 8-inch cũ kỹ với dung lượng chỉ 237,25KB tương ứng với khả năng lưu trữ 15 giây audio thì thành thật khó hiểu. Giá thị trường của một chiếc thẻ nhớ 32GB hiện tại là rất rẻ và để có được dung lượng lưu trữ tương đương thì bạn cần tới hơn 130.000 chiếc đĩa mềm (nếu xếp sát nhau sẽ đạt độ dài lên tới 200m).

Trong tình hình đó, Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ tuyên bố họ sẽ bắt đầu thay chỗ những chiếc đĩa mềm bằng các dụng cụ số bảo mật vào cuối năm 2017 và để hoàn tất công việc này thì phải chờ tới tận cuối năm 2020. Tuy nhiên không chỉ có Bộ Quốc Phòng với vũ khí hạt nhân, tại Bộ Ngân khố Hoa Kỳ người ta vẫn lưu trữ và chạy hệ thống Hồ Sơ Cá Nhân Chính (Individual Master File – IMF) chứa toàn bộ dữ liệu về thuế trên một ngôn ngữ lập trình vốn chỉ hoạt động trên các hệ thống máy tính thực sự cũ kỹ và lỗi thời của IBM.


Do đó, nếu như bạn đang muốn tìm một vị trí công việc là nhân viên IT của chính quyền Mỹ, bạn hẳn phải thủ sẵn ở đầu giường những quyển sách dạy lập trình FORTRAN (*) cũ có từng những năm 1950 để có thể có cuộc trao đổi với thành công!

(*) Fortran (hay FORTRAN) là một ngôn ngữ lập trình biên dịch, tĩnh, kiểu mệnh lệnh được tiến lên từ thập niên 1950 và vẫn được dùng nhiều trong tính toán khoa học hay phương pháp số cho đến quá nửa thế kỷ sau đó. Tên gọi này chắp ghép từ tiếng Anh Formula Translator/Translation nghĩa là dịch công thức. Các biến thiên đầu hữu danh nghi lễ là FORTRAN, nhưng chữ in hoa được chuyển sang chữ thường từ biến thiên Fortran 90. Tiêu chuẩn ở ngoài cho tên gọi này hiện tại là “Fortran”.

Fortran được tiến lên ban đầu như sau một ngôn ngữ thủ tục. Tuy nhiên các biến thiên mới của Fortran (từ Fortran 90) đã có các tính năng hỗ trợ lập trình hướng đề tài.

Theo: techrum
Link tham khảo:


Friday, October 1, 2021

TÂN NHẠC Ở SÀI GÒN XƯA


Từ năm 1965, Tân nhạc ở Saigon bắt đầu được giới kinh doanh phân cấp và chia thị trường. Cùng lúc, làn sóng thiết bị âm thanh ( Tape Recorder của Teac, Akai , Sony. Ampli Loa của Sansui , Kenwood, Pioneer ) theo chân Quân đội Mỹ ….xâm nhập đời sống nhiều gia đình cộng với sự xuất hiện của đài Truyền hình và sự trở lại của các Phòng trà Hộp đêm, Vũ trường…thì… Tình hình sinh hoạt này bỗng nhiên “hot” hơn bao giờ hết !

– Giới Sinh Viên Học Sinh thời 1967 – 1975 yêu thích giọng hát của những Ca sĩ như: Thanh Lan, Khánh Ly, Lệ Thu, Xuân Sơn, Anh Khoa, Jo Marcel, Sĩ Phú, , Elvis Phương, Ban 3 Trái táo, Ban Phượng Hoàng, v…v ……bởi khi hát, họ thường chọn những nhạc phẩm đương đại, thời thượng, mang âm hưởng quốc tế.

– Giới thính giả trung lưu “sồn sồn” lại thích nghe Thanh Thúy, Minh Hiếu, Phương Dung, Hoàng Oanh, Thanh Tuyền, Túy Hồng, Nhật Trường, Thái Châu họ chuyên hát những nhạc phẩm “trung dung “nẳm giữa nghệ thuật và thị hiếu. Còn lại các ca sĩ như Chế Linh, Duy Khánh, Hùng Cường, Mai Lệ Huyền, Phương Hồng Quế, Sơn Ca, Giang Tử, Trang Thanh Lan, Trang Mỹ Dung, Thiên Trang ….v…v….hát các bài Bolero được soạn theo kiểu tiểu thuyết lá cải như : Con đường xưa em đi, Chuyện tình Lan và Điệp, Nhẫn cỏ cho em, Đồi thông hai mộ, Rước tình về với quê hương v…v… được giới bình dân rất ưa thích. ( “nhạc sến”).


Làm băng nhạc phải nhạy bén với lớp người thưởng ngoạn do vậy thị trường có khá nhiều nhãn hiệu băng nhạc :

– Băng Shotguns dành cho lớp người khá giả thích nhạc phòng trà
– Băng Thanh Thúy dành cho mọi tầng lớp khán thính giả.
– Băng Tiếng hát đôi mươi dành cho lính và người yêu của lính
– Băng Tơ Vàng của Văn Phụng Châu Hà, quy tụ những ca sĩ di cư từ đất Bắc như Duy Trác, Anh Ngọc ,Châu Hà, Kim Tước, Thái Thanh, Sĩ Phú qua những nhạc phẩm tiền chiến của Văn Cao, Đoàn Chuẩn, Từ Linh, Dương Thiệu Tước, Nghiêm Phú Phi, Phạm Duy, Phạm Đình Chương…dành cho những người yêu nghệ thuật tiền chiến

– Băng “Nhạc trẻ” của Jo Marcel, Trường Kỳ, Tùng Giang, Kỳ Phát, Vũ xuân Hùng dành cho giới trẻ thích Cafe, nhảy nhót !


Có một Băng Nhạc được thâu trong một Studio thiết bị sơ sài cùng tiếng guitar mộc của tác giả ở Thủ Đức, nhưng được tiêu thụ rất mạnh : đó là Băng nhạc Tình Ca Trịnh Công Sơn với tiếng hát ma quái Khánh Ly vào năm 1967 dưới bàn tay phù thủy của Nhạc Sĩ Nam Lộc – chủ nhân Cafe Gió đường Võ Tánh – và Trịnh Xuân Tịnh em ruột TCS nhưng sàn phẩm này không đạt hiệu quả kinh doanh …vì vấn nạn sang băng tự do, mà Saigon lúc đó chưa có Luật tác quyền cho Băng nhạc từ tính ( Magné ).

DSX & Nguyễn Việt

500 NGƯỜI MÙ ĐI TÌM ĐỨC PHẬT

Ngày xưa, có 500 người mù sống tại thủ đô Vaisali của đất nước Licchavi. Bởi vì họ không nhìn thấy gì, họ chẳng thể làm được một công việc nào cả. Họ ăn xin để sống qua ngày, còn người ta thì đối xử với họ rất tệ bạc.


Khi ấy Thái tử Tất Đạt Đa đã trở thành Phật. 500 người mù ấy nghe được tin tốt lành rằng đức Phật đang ở cõi trần gian thì rất xúc động, bởi vì họ biết những ai được gặp đức Phật thì mọi khổ đau bệnh tật đều tiêu tan, và tất cả phiền não đều được hóa giải. Họ tụ tập lại và bàn bạc với nhau. Họ nói: “Chúng ta dù thế nào cũng phải đi tìm đức Phật! Chỉ cần chúng ta được gặp đức Phật, chúng ta sẽ có thể được trông thấy thế giới này!”.

Một người thường hay dẫn đầu trong số những người mù ấy nói: “Đúng thế! Chúng ta nên đi tìm đức Phật thay vì ngồi đây chờ đức Phật tới gặp chúng ta, phải không?”.

Mọi người trả lời đầy tuyệt vọng: “Làm sao chúng ta đến được với Ngài đây? Chúng ta thậm chí còn chẳng nhìn thấy đường đi nữa là!”.

Người cầm đầu trả lời: “Nếu chúng ta thật sự muốn đi tìm đức Phật, chúng ta cần phải tìm một người nào đó dẫn đường. Chúng ta sẽ làm như thế này nhé. Chúng ta gắng hết sức đi ăn xin, mỗi người cố thu thập cho đủ 1 đồng tiền vàng. Đến khi đã thu thập được 500 đồng tiền vàng, chúng ta có thể thuê mướn ai đó dẫn đường cho chúng ta đi tìm đức Phật”

Thế là những người mù ấy tản đi khắp nơi ăn xin.

Thế là những người mù ấy tản đi khắp nơi ăn xin. Sau một thời gian khá dài chịu đựng nhiều đắng cay khổ sở, họ đã có đủ 500 đồng tiền vàng, và thuê được một người dẫn đường cho họ.

Người dẫn đường đi trước, còn đám người mù nối đuôi nhau, người sau nắm quần áo người trước thành một hàng dài dằng dặc, rồng rắn kéo nhau đi trông rất ấn tượng.

Họ hướng về Sravasti nơi đức Phật đang nghỉ chân tại đó. Trong suốt cuộc hành trình, họ phải hứng chịu đủ mọi khó khăn gian khổ, nhưng họ cảm thấy tâm hồn tràn ngập niềm tin sáng ngời, và cảm thấy chuyến đi trở nên đỡ gian nan hơn rất nhiều. Tuy nhiên, trên con đường tiến về Magadha, họ phải lội qua một đầm lầy ở trong khe núi. Người dẫn đường thấy cuộc hành trình phía trước sẽ rất khó khăn bèn tìm cớ chuồn đi mất, đang tâm bỏ mặc những người mù ấy.

Họ chờ mãi, chờ mãi, nhưng kẻ dẫn đường không bao giờ quay trở lại như lời hắn đã hứa. Họ cảm thấy rất sợ hãi và bảo nhau: “Thế là những nỗ lực của chúng ta uổng phí mất rồi. Tên vô lại ấy đã cướp hết số tiền của chúng ta và bỏ rơi chúng ta. Phải làm sao bây giờ?”.

Mọi người đều hoang mang lo lắng, nhưng người cầm đầu đám người mù nghe thấy tiếng nước chảy ở phía trước. Anh biết rằng ấy chắc hẳn là cái đầm lầy mà họ cần phải lội qua, thế là anh bảo mọi người nắm tay nhau đi về phía ấy. Khi họ đang mò mẫm tiến về phía trước, bỗng họ nghe thấy tiếng một người giận dữ quát: “Thật là tồi tệ, các người mù cả rồi hay sao? Các người đã giẫm nát hoa màu mà tôi gieo trồng hết cả rồi!”.

“Trời ơi! Chúng tôi thật lòng xin lỗi. Chúng tôi thật sự là bị mù. Nếu chúng tôi nhìn thấy được, chúng tôi đã không phạm phải lỗi lầm như thế rồi. Chúng tôi van xin Ngài, hỡi người tốt bụng, hãy giúp đỡ chúng tôi bằng trái tim nhân từ của Ngài và hãy chỉ cho chúng tôi đường đến Sravasti! Một kẻ lưu manh đã lấy hết tiền của chúng tôi rồi, nên chúng tôi chỉ có thể đền đáp lại lòng tốt của Ngài trong tương lai mà thôi. Chúng tôi sẽ giữ đúng lời hứa của mình!”.


Người chủ ruộng cảm thấy những người mù ấy thật đáng thương. Ông thở dài và nói với họ: “Thôi hãy quên chuyện này đi vậy! Lại đây, tôi sẽ tìm cho các vị một người dẫn đường đến Sravasti”.

Những người mù vô cùng vui mừng và biết ơn người chủ ruộng. “May mắn thay, chúng tôi đã được gặp ông, một người thật là tốt bụng!”.

Thế là người chủ ruộng đi tìm một người dẫn họ đi đến Sravasti. Khi họ đến nơi, họ rất hạnh phúc. Nhưng không may, người trụ trì của ngôi chùa ấy bảo họ: “Các bạn đến trễ quá. Đức Phật đã đi đến Magadha rồi”.

Những người mù rất thất vọng, nhưng họ vẫn tìm đường trở lại Magadha. Họ đã phải chịu đựng rất nhiều khổ sở dọc đường, nhưng khi đến Magadha họ mới biết là đức Phật đã trở lại Sravasti rồi.

Mặc dù đã kiệt sức, họ vẫn tin tưởng vững chắc rằng cuối cùng thế nào rồi họ cũng sẽ gặp được đức Phật, thế là một lần nữa họ lại hướng về Sravasti. Họ đã quyết tâm sẽ không ngừng nghỉ chừng nào họ còn chưa được gặp đức Phật. Đáng buồn thay, họ một lần nữa lại không gặp được đức Phật ở Sravasti.

“Đức Phật đã lại tới Magadha rồi”. Vị sư trụ trì ngôi chùa nói với họ bằng một giọng nói đầy thông cảm. Những người mù buộc phải trở lại Magadha lần thứ 2.

Sau khi họ đi qua đi về giữa 2 thành phố ấy đến lần thứ 7, tâm của họ đã không còn sự thất vọng hay oán trách, hơn nữa lại ngày càng thuần tịnh hơn, không còn nghĩ rằng tìm gặp đức Phật để đạt được hạnh phúc hay thoát khỏi khổ đau gì nơi người thường. Họ đã một lòng cầu đạo, cầu được diện kiến đức Phật để nghe ngài giảng Pháp. Đức Phật bằng lòng trước Thiện tâm của họ nên Ngài bèn đợi họ ở tịnh xá của Ngài tại Sravasti.

Những người mù cảm nhận được ánh sáng ấm áp trong ánh hào quang nhân từ mà Đức Phật tỏa ra. Cuối cùng, họ đã gặp được đức Phật mà họ mong mỏi trông chờ bấy lâu nay.


500 người mù quỳ mọp xuống dưới chân đức Phật và bày tỏ lòng biết ơn vô bờ của họ. “Đức Phật, Ngài cứu độ tất cả sinh linh, những ai đang phải chịu khổ đau. Cầu xin Ngài hãy cho chúng con sáng mắt để chúng con được chiêm ngưỡng Ngài, một đức Phật tỏa ánh quang minh như ánh sáng của Thiên thượng”.

Thấy họ chân thành như vậy, đức Phật nói với họ: “Các con thành kính như thế, và đã trải qua một chặng đường dài đầy chông gai với một niềm tin kiên định. Ta sẽ ban cho các con ánh sáng”. Thế là 500 người mù ngay lập tức sáng mắt trở lại. Họ quỳ trên mặt đất cảm ơn và nói: “Xin cảm ơn Ngài, hỡi đức Phật từ bi vô lượng! Xin Ngài hãy thu nhận chúng con làm đồ đệ, chúng con muốn đi theo và phụng sự Ngài mãi mãi”.

Đức Phật nói: “Được rồi, các đồ đệ của ta!”.

Họ đã trở thành các đồ đệ của đức Phật và tu luyện rất tinh tấn. Cuối cùng, họ đều thành tựu quả vị.

Những người mù ấy đã từng phải sống trong bóng tối mịt mùng, nhưng con tim của họ tràn đầy ánh sáng. Tâm cầu Đạo của họ chói lọi như ánh vàng kim rực rỡ. Trong suốt cuộc hành trình đi tìm đức Phật, họ đã không đánh mất niềm tin mãnh liệt của mình vào Phật Pháp, bất kể bao nhiêu khó khăn gian khổ mà họ đã phải gánh chịu.

Có một số người cứ mãi nghĩ rằng: “Tôi không tin chuyện tu luyện. Chỉ sau khi chính mắt tôi nhìn thấy thì tôi mới tin”. Những người như thế sẽ không bao giờ thấy nổi sự thật, bởi vì nếu trái tim của họ không thể nhận ra Chân Lý trước tiên, thì cặp mắt kia có tác dụng gì đâu.

Một số người không thể hiểu được vì sao những người tu luyện lại tin theo Phật Pháp. Họ mãi cho rằng những người tu luyện thật là ngốc nghếch, bởi vì người tu luyện không thể trông thấy những quyền lợi vật chất tầm thường đặt ngay trước mắt mình. Đúng vậy, ở phương diện này, người tu luyện chẳng khác nào những người mù ấy, không nhìn thấy được những cảnh đẹp xung quanh.

Một số người lại nghĩ việc tu luyện quá huyền bí và cho rằng ấy không phải là một việc mà người bình thường có thể làm được. Thực ra, tu luyện chẳng phải là một điều gì huyền hoặc cả. Chỉ cần bạn có một tâm hồn trong sáng, rồi một ngày nào đó bạn sẽ gặt hái được thành công.

TheoMinghui – Gia Tuệ

TÁO "KIM CƯƠNG ĐEN"

Black Diamond Apple, giống táo đen huyền bí chứa đựng nhiều bí ẩn như trong truyện cổ tích Bạch Tuyết bước ra này đang quay trở lại như một hướng đi mới làm giàu nhờ kỹ thuật trồng đơn giản, sản lượng lớn cùng độ ngọt, dòn cũng như giá trị dinh dưỡng cao hơn gấp nhiều lần so với táo thông thường.


Hầu hết mọi người đã quen với việc nhìn thấy các loại táo màu xanh, màu đỏ tại siêu thị, nhưng rất ít người biết đến táo đen. Loại trái cây đặc biệt này còn được biết đến với tên gọi táo kim cương đen vì vẻ ngoài xinh đẹp và sự quý hiếm của nó.


Black Diamond Apple là một loại táo mới được đưa vào đại lục và được trồng hàng loạt. Nó có giá trị màu sắc cao, thật tuyệt vời. Màu tím đen độc đáo có ánh kim cương giống như được bao phủ bởi 1 lớp sáp óng ánh huyền bí, do đó nó có tên là "kim cương đen".


Táo đen được trồng ở độ cao 3.500 mét so với mực nước biển. Giống như táo đỏ và táo xanh, táo đen cũng chứa nhiều khoáng chất và vi sinh vật tốt, nhưng nó có vị ngon hơn rất nhiều. Loại trái cây này được trồng tại thành phố Lâm Chi, Tây Tạng.


Khu vực này có độ cao trung bình là 3.100 mét, sự chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm khá lớn, trong ánh nắng mặt trời chứa nhiều tia cự tím. Tất cả những đặc điểm địa lí đặc biệt này đã giúp thành phố Lâm Chi trở thành môi trường tự nhiên hoàn hảo để trồng táo kim cương đen.


Giống táo kim cương đen là thành quả của kỹ thuật ghép mầm độc quyền, ngoài ra, nó còn có cơ chế bảo vệ riêng chống lại côn trùng và ký sinh trùng. Loại trái cây đặc biệt này có màu đen tím, sáng bóng và kết cấu rất đẹp.


Không chỉ mang vẻ ngoài đẹp đẽ như viên kim cương đen, loại táo này còn có hương vị thơm ngon hơn bình thường. Khi thưởng thức táo đen, bạn sẽ thấy nó rất giòn và ngọt. So với các loại táo khác, táo đen chứa hàm lượng glucose cao.


Mặc dù vừa đẹp, vừa ngon, nhưng táo đen chưa thật sự phổ biến. Táo đen có tốc độ tăng trưởng rất chậm. Thông thường, các cây táo khác trưởng thành trong vòng 2 - 3 năm, lâu nhất là 5 năm. Nhưng táo kim cương đen lại mất 8 năm để trưởng thành.


Ngoài ra, chỉ có 30% táo kim cương đen trưởng thành đáp ứng đủ các tiêu chuẩn về màu sắc. Đó là lý do tại sao sản lượng của táo đen thấp hơn so với các loại táo khác. Bên cạnh việc sản xuất hạn chế, chi phí phân phối cao đã khiến táo kim cương đen có giá thuộc phân khúc cao cấp của thị trường. Chúng thường được đặt trong các hộp quà với số lượng từ 6 - 8 quả, mỗi quả nặng trung bình 250 gram.


Bởi vì giá cao và tính độc quyền của nó, táo kim cương đen không phải là một sự lựa chọn dành cho mọi người. Những người nông dân trồng táo biết điều đó, nên họ muốn trồng các loại thực phẩm khác có nhu cầu cao hơn.

Theo: Dân Việt



TAM DƯƠNG KHAI THÁI

Trong nhiều văn bản hay trên các tác phẩm mỹ thuật cổ của Trung Quốc, điển tích Tam dương khai thái thường được thể hiện bởi ba con dê đang gặm cỏ hoặc thong thả đùa vui trên thảm cỏ xuân, đôi khi có dòng chữ Hán 三羊開泰 minh họa cho hình vẽ.

Tam Dương Khai Thái (三羊開泰)

Song nhiều nhà nghiên cứu cho rằng hình tượng ba con dê biểu trưng cho điển tích này chỉ là một kiểu chơi chữ đồng âm mà thôi. Còn chữ dương trong Tam dương khai thái, thực ra không phải là chữ 羊, nghĩa là dê hay cừu như nhiều người vẫn nghĩ.

Theo nhà văn Bùi Bình Thi, tam dương là rằm tháng Giêng âm lịch, kỳ trăng tròn thứ ba trong chu kỳ: nhất dương (rằm tháng Mười Một) – nhị dương (rằm tháng Chạp) – tam dương (rằm tháng Giêng) của năm âm lịch. Nhất dương ứng với quẻ Phục 復 trong Kinh Dịch, nghĩa là “báo đáp”. Nhị dương ứng với quẻ Lâm 臨 trong Kinh Dịch, nghĩa là “chiếu từ trên xuống”. Tam dương ứng với quẻ Thái 泰 trong Kinh Dịch, nghĩa là “bình yên, to lớn, rộng rãi”. Đây là lúc thời vận tột bậc. Rằm tháng Giêng được coi là khởi đầu của một năm mới tốt lành, hanh vận, nên gọi là Tam dương khai thái.

Tam Dương Khai Thái (三陽開泰)

Cũng theo nhà văn Bùi Bình Thi thì do ý nghĩa tốt lành của quẻ Thái nên trong kỳ trăng tròn của tam dương (ngày và đêm 14 và 15 tháng Giêng âm lịch), người xưa thường đi chơi trăng để cho thân thể, não bộ của mình được hưởng trọn vẹn nguyên khí, vốn cực thịnh vào dịp này. Nguyên khí (khí bản nhiên) trong đêm rằm tam dương là tốt nhất so với 11 đêm rằm khác trong năm. Nguyên khí này được các loài thảo mộc hấp thụ tuyệt vời, đặc biệt là cây vải (lệ chi). Vì thế mà trong vườn của các vị quan lại hay các bậc trí giả đời xưa thường trồng những cây vải, lâu ngày thành đại thụ. Vào các đêm 14, 15 và 16 tháng Giêng âm lịch, các vị ấy thường mắc võng dưới tán cây vải, đắp chăn bông có vỏ chăn làm bằng đũi dệt từ tơ tằm, để ngủ. Đó là giấc ngủ thật ngon vì nguyên khí của tam dương đã được cây vải hấp thụ trọn vẹn, sẽ thẩm thấu vào người ngủ dưới tán của nó. Tức là nguyên khí từ trời đất đã truyền sang thảo mộc và thấm đẫm vào nhân sinh vậy.

Huyền thoại nước Nam cũng kể rằng Nguyễn Trãi có Lệ Chi viên là vì vậy. Dịp tam dương nào Nguyễn Trãi cũng mắc võng dưới tán vải để ngủ, ngoại trừ một năm vì bận rộn với việc nước nên Nguyễn Trãi đã không tận hưởng nguyên khí của tam dương khai thái như lệ thường. Kết cục là năm ấy (năm 1442) đã xảy ra “vụ án Lệ Chi viên” oan khốc, khiến cho ba họ nhà Nguyễn Trãi bị Lê triều đoạt mạng.


Tuy nhiên, trong chuyến thăm Trung Quốc vào năm 2005, khi đến thăm Bảo tàng Gốm sứ ở Cảnh Đức Trấn, “thủ đô gốm sứ” của Trung Quốc, tôi bắt gặp một cái lọ hình củ tỏi, thân dẹt cổ vút, cao chừng 30 cm. Thân lọ phủ men màu đen điểm xuyết màu chàm, bao quanh ba hình tròn lớn phủ men màu huyết dụ; phần trên cổ và miệng lọ phủ men trắng (ảnh 1). Điều thú vị là chú thích chiếc bình này được ghi bằng Trung văn như sau: 三阳开泰长颈扁肚瓶 (Tam dương khai thái trường cảnh biển đỗ bình), nghĩa là “bình thân dẹt, cổ cao (trang trí) tam dương khai thái”. Không có con dê hay con cừu nào được vẽ trên chiếc bình này, thay vào đó là ba hình tròn màu đỏ, tựa ba vầng mặt trời được bố trí cân đối quanh thân bình. Tôi hỏi ông Sào Hải Thanh, thợ làm gốm lừng danh Cảnh Đức Trấn, là người hướng dẫn tôi đi tham quan hôm đó: “Sao chữ ‘dương’ ở đây không viết là 羊 mà viết là 阳 và sao tôi không thấy con dê nào trên chiếc bình này?”. Ông Sào trả lời: “Tam dương khai thái ở đây nghĩa là ‘ba vầng mặt trời báo hiệu thời vận hanh thông’. Còn hình tượng ba con dê thường thấy trên gốm sứ chỉ là cách ‘mượn hình diễn ý’ mà thôi. Tam dương khai thái viết như thế này mới đúng”.
Bình sứ Trung Quốc 三阳开泰长颈扁肚瓶 (Tam dương khai thái trường cảnh biển đỗ bình) tại Bảo tàng Gốm sứ Cảnh Đức Trấn. Ảnh: Trần Đức Anh Sơn.

Chữ 阳 là chữ 陽 viết giản thể, có nhiều nét nghĩa, trong đó có một nét nghĩa là “mặt trời”. Vậy là điển tích Tam dương khai thái đã được người Trung Quốc diễn dịch khác với những gì mà người Việt từng nghĩ.

T.Đ.A.S.
Link tham khảo: