Monday, June 30, 2025

KHÁM PHÁ TỈNH SƠN ĐÔNG, TRUNG QUỐC

Sơn Đông (山東) là tỉnh ven biển phía đông của Trung Quốc, là một trong những tỉnh có nền kinh tế hàng đầu, Sơn Đông còn có nền văn hóa đa dạng, du lịch phát triển và giáo dục luôn nằm trong top đầu Trung Quốc. Cùng du học VIMISS tìm hiểu, khám phá tỉnh Sơn Đông Trung Quốc nhé!


Tổng quan về tỉnh Sơn Đông

Sơn Đông nằm ở hạ lưu sông Hoàng Hà, là một tỉnh ven biển ở miền đông Trung Quốc. Giáp với bốn tỉnh Hà Bắc, Hà Nam , An Huy và Giang Tô từ Bắc tới Nam. Địa hình chủ yếu là đồng bằng, trải dài qua 5 hệ thống sông lớn. Sơn Đông bao gồm hai phần: phần nội địa và bán đảo nằm giữa biển Bột Hải và biển Hoàng Hải.

Sơn Đông có diện tích đất liền là 157.100 km2 và diện tích biển liền kề là 170.000 km2. Có dân số chỉ hơn 100 triệu người.Sơn Đông có thẩm quyền đối với 17 thành phố cấp tỉnh và 137 huyện, thành phố cấp huyện hoặc quận. Tỉnh lỵ là Tế Nam.

Dân số thường trú đến cuối năm 2023 là 101,2297 triệu người, các phương ngữ Sơn Đông được chia thành ba cộng đồng quan thoại khác nhau: Quan thoại Hà Bắc-Lục, Quan thoại Trung Nguyên và Quan thoại Giao-Liêu.


Có năm tôn giáo chính ở tỉnh Sơn Đông : Phật giáo, Đạo giáo, Hồi giáo, Công giáo và Tin Lành. Phật giáo và Đạo giáo có lịch sử hơn một nghìn năm ở Sơn Đông. Hồi giáo chủ yếu phát triển sau khi người Hồi giáo di cư đến Sơn Đông vào thế kỷ 13. Công giáo và Kitô giáo lan rộng nhanh chóng chủ yếu sau Chiến tranh nha phiến.

Nhờ có cảng biển, các thành phố Thanh Đảo, Nhật Chiếu, Yên Đài và Uy Hải có thể dễ dàng tiếp cận từ biển. Kinh tế năng động và phát triển nhanh chóng trong những thập kỷ gần đây. Cảng Thanh Đảo là một cảng đa năng lớn và là cảng lớn nhất miền bắc Trung Quốc về thương mại quốc tế và lưu lượng container. Đây là một trung tâm vận chuyển được công nhận ở Đông Bắc Á.

Sơn Đông cũng là một trong những cái nôi của nền văn minh Trung Hoa, Sơn Đông đã tạo nên một lịch sử lừng lẫy và nền văn hóa vang danh từ rất lâu trước khi xuất hiện Khổng Tử (551-479 TCN).


Sơn Đông là nơi mà các ký tự Trung Quốc đầu tiên được tạo ra dưới dạng chữ tượng hình. Cũng là nơi khai sinh ra đồ gốm và lụa Trung Quốc. Đây là nơi có học viện đầu tiên của Trung Quốc về tranh luận triết học. Đoạn Vạn Lý Trường Thành lâu đời nhất cũng như bốn di sản thế giới được UNESCO công nhận, cụ thể là Núi Thái Sơn, Đền và Nghĩa trang Khổng Tử và Biệt thự gia tộc Kong ở Khúc Phụ, Vạn Lý Trường Thành của Tề và đoạn Đại Vận Hà Sơn Đông.

Nhiều triết gia Trung Quốc lỗi lạc, bao gồm Khổng Tử, Tôn Tử (544-496 TCN), Mặc Tử (khoảng 468-391 TCN) và Mạnh Tử (khoảng 372-289 TCN), đều sinh ra ở Sơn Đông, tất cả đều đóng vai trò to lớn trong việc định hình nền văn hóa Tề-Lỗ đặc biệt. Trường phái tư tưởng mang tên Khổng Tử, trụ cột của truyền thống trí thức Trung Quốc, có ảnh hưởng đáng kể trên toàn cầu cho đến ngày nay.

Sơn Đông cũng đã tiếp thu những tinh hoa của các nền văn hóa và nền văn minh khác và phát triển nên nền văn hóa sống động của riêng mình.

Địa điểm du lịch nổi tiếng tại Sơn Đông

Mọt số địa điểm du lịch nổi tiếng thu hút lượng lớn khách du lịch đến Sơn Đông như:

Khu thắng cảnh mùa xuân


Khu thắng cảnh mùa xuân nằm ở trung tâm thành phố Tế Nam, thủ phủ của tỉnh Sơn Đông. Khu thắng cảnh bao gồm: một hào nước, một hồ Đại Minh và ba con suối (Suối Bảo Đồ, Suối Hắc Hổ và Suối Ngũ Long Đàm), bốn công viên (Công viên suối Bảo Đồ, Công viên Huân Thành, Công viên Ngũ Long Đàm, Khu thắng cảnh hồ Đại Minh).

Đây là một điểm thu hút khách du lịch tích hợp cảnh quan thiên nhiên độc đáo. Khu thắng cảnh lấy Suối Bảo Đồ, con suối lớn nhất thế giới, làm cốt lõi. Dòng suối chảy thành sông rồi hòa vào hồ.

Núi Ngàn Phật


Công viên núi Ngàn Phật nằm ở phía nam thành phố Tế Nam. Vì có vô số tượng phật trên núi nên nó được gọi là núi Ngàn Phật, cao 285 mét so với mực nước biển. Đây là một trong ba danh lam thắng cảnh lớn ở Tế Nam cùng với suối Bảo Đồ và hồ Đại Minh.

Thành phố bia quốc tế Thanh Đảo


Nằm ở vị trí đắc địa của Khu du lịch quốc gia 石老人, đây là công viên giải trí cao cấp với chủ đề văn hóa bia và giải trí quy mô lớn. Đây là thành phố bia quốc tế lớn nhất ở châu Á và là nơi tổ chức Lễ hội bia quốc tế Thanh Đảo hàng năm. Bước vào cổng thành phố bia, bạn có thể nhìn thấy những tác phẩm điêu khắc mang tính biểu tượng cao lớn, có quảng trường với hàng ngàn người, là địa điểm thường trực của Lễ hội bia quốc tế. Có một sân khấu ngoài trời và hàng nghìn chỗ ngồi trên bãi cỏ rộng của quảng trường. Các con đường dẫn từ quảng trường đến các quận khác nhau đều được dát đá cẩm thạch nhiều màu sắc.

Vạn Lý Trường Thành


Vạn Lý Trường Thành, được xây dựng lần đầu tiên vào thời Xuân Thu và hoàn thành vào thời Chiến Quốc, trải dài từ bờ sông Hoàng Hà ở phía tây đến bờ biển Hoàng Hải ở phía đông, uốn khúc qua mười ba quận ở Sơn Đông, và dài hơn một ngàn dặm. Vạn Lý Trường Thành là một trong những Vạn Lý Trường Thành được nhiều quốc gia xây dựng trong thời Xuân Thu và Chiến Quốc có nhiều di tích được bảo vệ hơn.

Phố cổ Thanh Châu


Phố cổ Thanh Châu có rất nhiều tòa nhà cổ được bảo tồn tốt từ thời nhà Minh (1368-1644) và nhà Thanh (1644-1911). Nơi đây có các buổi trình diễn thủ công và biểu diễn âm nhạc truyền thống. Thông qua đó bạn có thể tìm hiểu về nghệ thuật dân gian của Sơn Đông và trải nghiệm văn hóa địa phương

Ẩm thực Sơn Đông có gì đặc biệt?

Ẩm thực Sơn Đông là một phần quan trọng của văn hóa ẩm thực Trung Quốc ,là một trong tám nền ẩm thực chính của Trung Quốc , đại diện cho ẩm thực miền Bắc.

Sự khác biệt về địa lý trong tỉnh rất lớn, dẫn đến việc hình thành 2 hệ thống chính: ẩm thực Dao Đông ven biển, ẩm thực Tế Nam nội địa.

Địa hình chủ yếu của Sơn Đông là đồng bằng, đất đai được phù sa bồi đắp, do đó, văn hóa ẩm thực Sơn Đông Trung Quốc nổi bật với các sản phẩm làm từ lúa mì, rau củ quả đa dạng và chất lượng cao. Người Sơn Đông sử dụng nhiều gia vị cho món ăn của mình, đặc biệt là hành và tỏi.

Các món ăn của Sơn Đông chủ yếu thiên về các món chiên, nướng và hấp. Chú trọng màu sắc của món ăn và được trang trí vô cùng bắt mắt .

Một số món ăn nổi bật có thể kể đến như:

Gà hầm Đức Châu


Đây là một đặc sản của vùng Sơn Đông. Gà được hầm với mật ong, thì là, đường và các nguyên liệu khác trong vài giờ. Thịt gà được hầm chín tới, gà vẫn còn được giữ hình dạng nguyên con. Thịt đã mềm, dễ dàng tách khỏi xương.

Cá chua ngọt


Cá chép chua ngọt có màu đỏ tươi, bên ngoài có vị ngọt, chua và giòn. Cá chép có vẻ như đang bơi cao hơn, đây là điềm lành ở Trung Quốc.

Hải sâm xào hành lá


Hải sâm là một trong những đặc sản của Sơn Đông. Hành lá có thể giúp khử mùi tanh của hải sâm một cách hiệu quả và tăng thêm hương vị đặc biệt.

Ruột hầm sốt nâu


Lòng heo được luộc sơ qua trong nước, sau đó nhồi hơn mười loại nguyên liệu vào và om với gia vị trên lửa nhỏ, hương vị mềm mại.

Tôm kho dầu


Nguyên liệu chính là tôm lớn từ Vịnh Bột Hải ở Sơn Đông. Tôm được xào với gia vị như nước tương và rượu nấu ăn. Nó có vị tươi, umami, ngọt và mặn.

Đậu phụ Nhất Phẩm


Đậu phụ Nhất Phẩm là món đậu phụ thượng hạng, cao cấp nhất. Người đầu bếp phải chọn ra loại đậu phụ có cốt vừa ăn, thơm và phải dày. Kế đó, các loại nguyên liệu như sò điệp, hải sâm, măng, thịt lợn, rau củ,... được om chín tới, dậy mùi. Sau đó được nhồi vào giữa miếng đậu phụ và thả vào hầm trong nước gà.

Theo: vimiss.vn



"NẾU ĐI HẾT BIỂN...", CÓ NHÌN RA NHAU?

Nơi bên kia của biển, ta thấy được những lời kể thẳng và thật, thoát ly mọi định chế kiểm duyệt và tự kiểm duyệt, về cuộc ly hương của những người con đất Việt: đó không chỉ là sự phân ly về mặt địa lý, còn là và sự ly tán của lòng người.

Ảnh bìa sách: Nhà xuất bản Thời Văn.

Đạo diễn Trần Văn Thủy được công chúng trong và ngoài nước biết đến qua các bộ phim tài liệu ghi dấu ấn như “Chuyện tử tế” và “Hà Nội trong mắt ai”. Ấy vậy, không nhiều người biết ông còn là một tác giả sách được yêu thích với những thiên hồi ký đậm chất văn chương như Chuyện nghề của Thủy hay Trong đống tro tàn. Tuy nhiên tác phẩm gây tiếng vang lớn nhất trong sự nghiệp cầm bút của ông có lẽ là tập ký sự Nếu đi hết biển… do nhà xuất bản Thời Văn tại Mỹ xuất bản lần đầu năm 2003.

Trần Văn Thủy sinh ra và lớn lên ở Nam Định, mảnh đất thuộc về “bên thắng cuộc”. Ông từng được chính quyền cử vào miền Nam từ năm 1966 làm phóng viên chiến trường, trực tiếp tham gia tác nghiệp, quay phim tại các vùng chiến địa. Vì lẽ đó, vị đạo diễn người Nam Định có nhiều năm tận mắt chứng kiến hiện thực của khói lửa binh đao và nỗi niềm núi sông chia cắt.

Từ những trải nghiệm đau đớn ấy, trong Nếu đi hết biển… ông đã đảm nhận vai trò nhà báo, trực tiếp phỏng vấn một số trí thức thuộc cộng đồng người Việt hải ngoại và một học giả người Mỹ về những ký ức lẫn góc nhìn về cuộc chiến, về hoà giải dân tộc, về văn chương và quan điểm chính trị.


Có thể nói, đây là những cuộc trò chuyện có giá trị vì đã tạo nên cuộc đối thoại thẳng thắn, cởi mở, giữa tác giả với những người ở bên kia chiến tuyến một thời, những người đã từng sống trong lòng chế độ “ngụy” trước đây, và bây giờ là những công dân Mỹ. Họ, những người bị ám ảnh bởi cuộc chiến ở nhiều mức độ, nay đã lựa chọn thẳng thắn đối diện với sự thật, đối diện với người phỏng vấn mang xuất thân “kẻ thù” để trải lòng thổ lộ, dù sự thật có phũ phàng và chua chát đến mức nào.

Cuốn sách lấy tựa đề từ một cuộc trò chuyện thời ấu thơ giữa tác giả với người vú nuôi ngày nào, trong một lần ông hỏi bà rằng: “Nếu đi hết biển thì đến đâu hả thím?” Người vú nuôi im lặng một lúc rồi buồn bã đáp: “Đi hết biển, đến đâu thì thím không biết.” Câu nói của người vú nuôi năm ấy đã gây ám ảnh trong tâm thức tác giả suốt nhiều năm liền, khi chứng kiến và nghe tin hàng loạt đồng bào đã chọn lao thân ra biển lớn để tìm kiếm tương lai hy vọng ở bên kia bờ tuyệt vọng.

Những nhân vật mà đạo diễn Thủy phỏng vấn đều đã chọn rời khỏi tổ quốc. Họ đều là những thuyền nhân, những người vượt biên, những người liều mình “đi hết biển” trong khổ đau và sợ hãi. Giờ đây, khi đã “đi hết biển” và định cư ở nước ngoài, họ vẫn mang tấm lòng hướng về quê hương, đất nước, về những đồng bào, người thân vẫn còn ở Việt Nam.

Một điều rất đáng chú ý mà tác giả đề cập, đó là đề xuất cần nhìn nhận lại sự chia rẽ hai miền Nam – Bắc. Đây là vấn đề của ý thức hệ chứ không phải đơn thuần địa lý. Và thực tế, rất nhiều chính khách, sĩ quan hay người dân Việt Nam Cộng hòa, như Nguyễn Cao Kỳ, Cao Văn Viên, Trần Kim Tuyến, v.v. đều là người di cư từ Bắc. Nhiều nhân vật được phỏng vấn cũng có gia đình gốc Bắc. Và rất nhiều những lãnh đạo chính quyền Cộng sản quân phiệt, điển hình là Lê Duẩn, Tôn Đức Thắng lại là người miền Nam và gọi ngày 30/4 là ngày giải phóng.

Những cuộc hội ngộ gia đình sau năm 1975 của những thành viên ở hai bờ chiến tuyến vẫn nhuốm màu cay đắng. Như câu chuyện của bố con Cao Xuân Huy giữa những éo le của lịch sử đã gây xúc động cho nhiều người: Trước năm 1975, cha và con ở hai mặt trận đối đầu. Năm 1975, người cha thuộc bên thắng trận, còn người con ở bên thua cuộc nên bị trừng phạt. Người cha mới chỉ gặp con duy nhất một lần khi mới lọt lòng, nay phải vào thăm con trong nhà tù cải tạo. Và ngay chính tác giả cũng có những người bạn “ngụy” phải xa quê vì những tai ương của lịch sử.

Cuốn sách cho thấy, vấn đề hoà giải bị ngăn trở bởi nhiều yếu tố từ hai phía, cả trong nước và hải ngoại (cụ thể là ở Mỹ). Hai bên đều nghi ngờ, e ngại bên kia sẽ tuyên truyền, khiến cho người trẻ xa rời những “giá trị đích thực của truyền thống văn hoá Việt Nam” theo mỗi bên quan niệm.


Nhưng có những thực tế cay đắng cần nhìn nhận trong cách hành xử đầy cực đoan của mỗi phía. Trong nước, chế độ của người thắng cuộc không chìa tay hoà giải mà còn khiến sự chia rẽ càng sâu sắc bằng một loạt những động thái: trại cải tạo, đổi tiền, kinh tế mới, chế độ khẩu phần, phân biệt đối xử, v.v. Tại nước ngoài vẫn có những người “bị dẫn dắt vào cơn mê lộ của thù hận” không những không cổ vũ mà còn phản đối chuyện hoà giải dân tộc. Những tổ chức chính trị hải ngoại bài xích những người biểu diễn các văn hoá phẩm trong nước.

Nhà văn Trương Vũ phát biểu trong một cuộc phỏng vấn với tác giả – đạo diễn Trần Văn Thủy:

“Một điều khôi hài là báo chí Việt Nam có thể đăng một hình cựu chiến binh miền Bắc trong bộ quân phục của quân đội nhân dân ôm một anh cựu chiến Mỹ trong bộ quân phục của quân đội Mỹ, nhưng không biết bao giờ chúng ta mới thấy một hình ảnh như vậy giữa một anh lính cựu chiến binh Quân đội Nhân dân Việt Nam với một anh cựu chiến binh Quân lực Việt Nam Cộng hoà? Hai bên từng chiến đấu, mà cầm thứ vũ khí đều không phải do chính họ sản xuất.”

Theo tác giả và nhà văn Nguyễn Mộng Giác, hành động biểu diễn lập trường – thể hiện khuynh hướng chính trị – một cách thái quá, là một căn bệnh trầm kha đến từ cả hai phía. Ở cộng đồng hải ngoại cũng tồn tại cả những mặt trận và chiến dịch chống cộng một cách mù quáng.

Một điều ta có thể nhận thấy, từ trong thực tế cũng như từ trong từng trang viết và trang kể trước mặt, rằng hoà giải dân tộc không chỉ là câu chuyện của chính quyền và người dân, mà còn là giữa những người dân thường với nhau. Cuốn sách này chính là đại biểu cho nỗ lực của một nhóm trí thức đã suy ngẫm, đã nhìn nhận về con người trong ánh nhìn rộng rãi và cởi mở hơn. Nhiều trong số họ đã bị cầm tù trước khi đến Mỹ, đã từng mang nỗi căm hận với kẻ thắng trận, nhưng vẫn biết phân biệt rạch ròi người dân và chính quyền.

Để có được sự hoà giải cần có lòng can đảm dám nhìn thẳng và nói thẳng về sự thật của cuộc chiến huynh đệ tương tàn phi nghĩa và đau thương, và cần có sự bao dung chấp nhận quan điểm đa dạng của mỗi người, mỗi hoàn cảnh. Quan trọng nhất vẫn là sự sẵn lòng giúp đỡ nhau làm những người tử tế. Thực tế đã chứng minh rằng: rất nhiều con người ở hai phía sau bao biến cố vẫn giữ trọn vẹn nhân cách và luôn sẵn lòng hoà giải.

Bên cạnh câu chuyện về đường hòa giải vẫn còn nhiều gian truân phía trước, tác phẩm cũng bàn về tính độc lập của nhà văn trong việc tự do biểu đạt quan điểm, chính kiến của mình. Từ những khảo sát và phỏng vấn nghiêm túc, đạo diễn Thủy đã cho thấy, thực ra ở cả hai phía đều chịu áp lực từ những lực lượng kiểm duyệt. Nhưng những rào cản ấy chưa bao giờ là thành trì không thể vượt qua, như nhà văn Hoàng Khởi Phong, vốn là sĩ quan của Việt Nam Cộng hòa phát biểu:

“Tự do hay không là chính ở người viết, hãy cứ nhìn thật sâu vào cõi lòng mình, không è dè, không huý kỵ và phải viết cho thật hay, thật tới. Đừng bao giờ viết mà lúc nào cũng nơm nớp có ông chính uỷ ngồi chễm trệ trước mặt hay ông cộng đồng lấp ló ở phía sau. Nếu ở trong nước thì chẳng thà im lặng không sáng tác như Văn Cao, còn hơn là viết ngàn bài ca ‘cúng cụ’. Còn ở hải ngoại thì không bị một ai dí súng vào màng tang bắt viết thì hà cớ gì mà phải vừa viết vừa cảnh giác đề phòng cộng đồng biểu tình chống đối.”

Dẹp bỏ những thành trì quan điểm cùng những chính sách kiểm duyệt đầy định kiến cũng chính là cánh cổng đưa đến sự hòa giải, như ý kiến mà nhà văn Nguyễn Thị Hoàng Bắc nêu lên. Rằng, chính quyền hiện tại cần xóa bỏ cách gọi miệt thị “ngụy”, còn những người hải ngoại cần chấp nhận một thực tế là nước Việt Nam trên bản đồ thế giới ngày nay đã khác xưa rất nhiều.

Những cá nhân mang quan điểm cực đoan trong cộng đồng người Việt hải ngoại cũng dựng nên một cái khung đóng sẵn cho chính họ, cũng hô vang những khẩu hiệu đầy gai góc và nghi kỵ khi nói đến những vấn đề nhạy cảm cả trong đời sống chính trị lẫn văn chương.

Đó là biểu hiện của việc chống cộng một cách mù quáng, không khác tình huống các cây viết trong nước trước đây thường bị buộc phải nói xấu miền Nam, rằng miền Nam không làm nên trò trống gì, để được duyệt là có lập trường và có “tính đảng”. Cả hai bên họ đều mắc phải chứng định nghĩa “quốc gia” theo sự yêu ghét của cá nhân hay của cộng đồng cùng ý thức chính trị với họ.

Đến đây, hình ảnh biển cả một lần nữa trở lại với chúng ta, với bóng dáng của đạo diễn Thủy đang nỗ lực cất bước: đi hết biển, cũng là vượt qua đại dương của định kiến, của hận thù, của sự hẹp hòi dai dẳng và cũ kĩ. Nơi bên kia của biển, ta thấy được những lời kể, những chia sẻ thẳng và thật, thoát ly mọi định chế kiểm duyệt và tự kiểm duyệt, về sự ly hương của những người con đất Việt, nhưng không chỉ là sự phân ly về mặt địa lý, còn là sự ly tán của lòng người.


Đâu đó, trên một bãi vắng, biển đã đi hết, thuyền đã buông neo, lửng lơ trong tâm thức người đọc có thể là những dòng suy niệm đầy băn khoăn, trăn trở của tác giả, rằng:

“Nếu đi hết biển, qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi thì cuối cùng lại trở về quê mình, làng mình. Tôi không biết trong lịch sử thịnh, suy của đất nước tôi, có thời điểm nào, hoàn cảnh nào dẫn đến sự ly tán lòng người sâu thẳm, dẫn đến việc hàng triệu người chạy ra biển ly hương bất cần mạng sống đến thế không. Nhưng tôi biết rất rõ, không ít người việt xa xứ qua các đại dương và các châu lục, đi mãi, đi mãi mà cuối cùng không thể trở về quê mình làng mình được…”

Đoan Trang
Theo: luatkhoa.com

NHẤT HỘC CHÂU - MAI PHI


NHẤT HỘC CHÂU - MAI PHI

Liễu diệp nga mi cửu bất miêu,
Tàn trang hoà lệ ố hồng tiêu.
Trường Môn tự thị vô sơ tẩy,
Hà tất trân châu úy tịch liêu.


一斛珠 - 梅妃

柳葉蛾眉久不描
殘妝和淚污紅綃
長門自是無梳洗
何必珍珠慰寂寥


Một hộc châu 
(Dịch thơ: Lê Nam Thắng)

Chẳng tô mày liễu đã lâu
Áo xưa nay đã hoen màu lệ rơi
Trường Môn bụi phủ khắp nơi
Ngọc châu sao đổi được đời cô đơn

Mai Phi vốn được vua sủng ái nhưng sau khi Dương Quý Phi vào cung và được sủng ái thì rất ghen tuông, vì vậy dù rất thương Mai Phi quan hệ giữa vua và nàng chỉ là lén lút. Một lần nghĩ thương Mai Phi, vua bí mật tặng nàng 10 đấu ngọc. Nàng không nhận mà làm bài này gửi vua. Vua đặt tên cho bài này là "Nhất hộc châu" (1 hộc bằng 10 đấu).


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Mai Phi (?-755) là một phi tần được sủng ái của Đường Huyền Tông. Bà tên thật là Giang Thái Tần (江采蘋), sinh ra ở Mai Hoa thôn được Cao Lực Sĩ tuyển vào hậu cung phục vụ nhà vua. Thái Tần có sắc dáng mảnh dẻ xinh đẹp, lại thông thạo văn thơ, cầm kỳ thi hoạ, Huyền Tông vừa trông thấy lập tức mê mẩn, ngày đêm triệu hạnh. Bà đặc biệt yêu thích hoa mai nên vua ban hiệu là Mai Phi.

Mai Phi cũng giỏi ca múa, bà đã tự sáng tác một điệu vũ tên "Kinh Hồng" rồi biểu diễn trước mặt Huyền Tông. Mai Phi thân hình mảnh khảnh, vũ đạo lại uyển chuyển khiến Huyền Tông rất thích.

Sử sách không ghi rõ năm sinh lẫn năm nhập cung của bà, chỉ biết bà nhập cung sớm hơn quý phi họ Dương của vua Huyền Tông. Sau này, Võ Huệ Phi - một ái phi khác của vua qua đời vì bệnh, vua ngày đêm tiếc thương, chẳng buồn đi lại chốn hậu cung, chỉ lo lập đài Tập Linh cầu siêu cúng vái cho vong hồn Huệ Phi được sớm siêu thăng. Một ngày nọ, Cao Lực Sĩ phát hiện vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành của Thọ Vương Phi Dương Ngọc Hoàn, vợ của hoàng tử thứ 18 Thọ Vương Lý Mạo (con trai của Huyền Tông và Huệ Phi), bèn lén mật tấu với vua. Nhìn thấy dung nhan quốc sắc thiên hương của con dâu, vua liền quên ngay Huệ Phi đã mất mà sắc lập Dương Ngọc Hoàn làm Quý Phi, sủng ái không ai bằng.

Có được Dương Quý Phi, Huyền Tông càng không màng đến hậu cung có hơn ba ngàn giai lệ. Từ đó Mai Phi bị thất sủng. Một lần, có sứ thần dâng lên đôi trân châu, nhà vua chợt nhớ Mai Phi, lén gọi người hầu đem đến tặng bà. Mai Phi buồn rầu không nhận gửi trả lại cùng với 1 bài thơ này.

Về sau, năm 755, An Lộc Sơn khởi loạn, Huyền Tông phải rời kinh đô chỉ mang theo Dương Quý Phi, bỏ lại Mai Phi bị giết trong cơn binh lửa.

Nguồn: Thi Viện

ĐÀ ĐIỂU CÓ THẬT SỰ VÙI ĐẦU VÀO CÁT KHI GẶP NGUY HIỂM?

Ý tưởng đà điểu vùi đầu khi chúng cảm thấy bị đe dọa được cho là xuất phát từ nhà tự nhiên học La Mã Pliny the Elder khoảng 2.000 năm trước. Nhưng điều đó có thực sự đúng không?


Trong nhiều thế kỷ, người ta đã tin rằng khi đối mặt với nguy hiểm, đà điểu sẽ vùi đầu vào cát để ẩn nấp. Hình ảnh sống động này đã dẫn đến cụm từ phổ biến "vùi đầu vào cát - bury your head in the sand" ngụ ý tránh né vấn đề thay vì đối mặt.

Theo một số tài liệu, nhà tự nhiên học La Mã Pliny the Elder, cũng được biết đến với tên Gaius Plinius Secundus, có thể là người đầu tiên phổ biến niềm tin rằng đà điểu giấu đầu khi gặp nguy hiểm. Trong bộ sách nổi tiếng của ông, "The Natural History" – một trong những bộ bách khoa toàn thư sớm nhất về thế giới tự nhiên, Pliny đã mô tả đà điểu như một sinh vật khổng lồ sở hữu một hành vi ngớ ngẩn, đó là chúng tưởng rằng chỉ cần giấu đầu thì có thể ẩn nấp toàn thân. Ông viết: "Chúng có đặc tính kỳ diệu là có thể tiêu hóa mọi chất mà không phân biệt, nhưng sự ngu ngốc của chúng cũng không kém phần đáng chú ý; Vì mặc dù phần còn lại của cơ thể họ rất lớn, nhưng chúng lại tưởng rằng khi đẩy đầu và cổ vào một bụi cây, toàn bộ cơ thể của chúng sẽ được che giấu".


Mô tả của Pliny về đà điểu đã vô tình hình thành một hình ảnh cố định trong tâm trí nhiều thế hệ, khiến con người tin rằng loài chim khổng lồ này thực sự sẽ "vùi đầu vào cát" để tránh né kẻ thù. Thế nhưng, niềm tin này hoàn toàn sai lầm.

Trên thực tế, đà điểu không bao giờ vùi đầu vào cát để trốn tránh nguy hiểm. Chúng là loài chim rất nhanh nhẹn, với tốc độ tối đa lên đến 70 km/h (43 dặm/giờ) - được ghi nhận là loài chim chạy nhanh nhất trên thế giới, theo Sở thú Quốc gia Smithsonian. Đà điểu không cần vùi đầu vào cát bởi chúng có khả năng chạy thoát thân rất hiệu quả nhờ vào tốc độ vượt trội và bản năng nhạy bén trước các mối nguy hiểm từ những loài săn mồi tự nhiên như báo, sư tử và linh cẩu.


Một trong những hành vi có thể đã dẫn đến sự hiểu lầm này là cách đà điểu chăm sóc trứng. Khác với nhiều loài chim khác, đà điểu không làm tổ trên cây mà đào những hố nông trên cát hoặc đất để đẻ trứng. Cả chim bố và chim mẹ đều xoay trứng nhiều lần trong ngày để giữ nhiệt độ ổn định. Từ xa, hành động này có thể khiến chúng ta lầm tưởng rằng đà điểu đang "vùi đầu vào cát".

Ngoài ra, đà điểu thường cúi đầu thấp để tìm kiếm thức ăn. Chúng ăn các loại thực vật, hạt cỏ, và thậm chí cả động vật nhỏ như chuột, ếch, và côn trùng. Khi cúi đầu sát mặt đất trong quá trình kiếm ăn, đà điểu có thể trông như đang chôn đầu trong đất cát, dễ dẫn đến sự ngộ nhận.


Nếu không thể thoát khỏi nguy hiểm, đà điểu có thể áp dụng chiến thuật phòng thủ khác. Chúng sẽ nằm rất thấp, ép sát thân mình xuống đất, kéo dài cổ ra để hòa lẫn vào địa hình. Điều này giúp chúng trông giống như một tảng đá hay bụi cây, giúp tránh sự chú ý của kẻ săn mồi. Ngoài ra, theo một số nghiên cứu, đà điểu trưởng thành còn sử dụng đôi cánh để tung bụi mù nhằm đánh lạc hướng kẻ thù và bảo vệ gà con.

Đáng ngạc nhiên hơn, đà điểu còn sở hữu khả năng tự vệ mạnh mẽ, với cú đá có thể gây chết người. Được biết, một cú đá của đà điểu có thể đủ sức giết chết cả một con sư tử - kẻ săn mồi hùng mạnh của châu Phi.

Đức Khương / Theo: thanhnienviet

Sunday, June 29, 2025

TỈNH PHÚC KIẾN - HÀNH TRÌNH KHÁM PHÁ MIỀN DI SẢN

Phúc Kiến (福建 Fújiàn) là một tỉnh nằm ở ven Biển Đông nam của đại lục Trung Quốc. Phúc Kiến là một tỉnh có nền kinh tế đang liên, cuộc sống sôi động và giàu giá trị văn hóa. Cùng du học VIMISS khám phá Phúc Kiến để tham gia vào hành trình khám phá miền di sản đầy thú vị này nhé!


1. Tổng quan về tỉnh Phúc Kiến

Về vị trí: Tỉnh Phúc Kiến , thường gọi là Mân, là một tỉnh ven biển phía đông nam, với thành phố Phúc Châu là thủ phủ. Phúc Kiến giáp tỉnh Chiết Giang ở phía bắc , tỉnh Giang Tây ở phía tây , tỉnh Quảng Đông ở phía tây nam và giáp Đài Loan qua eo biển Đài Loan ở phía đông.

Thủ phủ Phúc Châu

Về địa lý: Chiều rộng tối đa từ đông sang tây là 480 km, chiều rộng tối đa từ bắc xuống nam là 530 km, diện tích đất liền là 124.000 km2. Đặc điểm địa lý của Phúc Kiến là “gần núi, gần biển”. Phúc Kiến là vùng núi, 90% diện tích đất của tỉnh là đồi núi, phần lớn diện tích miền núi này được bao phủ bởi rừng, khiến tỷ lệ che phủ rừng của Phúc Kiến đạt 62,96%, đứng đầu cả nước. Đường bờ biển lục địa của Phúc Kiến đứng thứ hai trong cả nước về chiều dài. Phúc Kiến nằm ở trung tâm giao thông của Biển Hoa Đông và Biển Đông nên là điểm khởi đầu của Con đường tơ lụa trên biển, đồng thời cũng là trung tâm phân phối thương mại hàng hải. Không giống như những nơi khác ở Trung Quốc, nền văn minh dọc bờ biển Phúc Kiến là nền văn minh hàng hải, trong khi khu vực Khách Gia ở nội địa là nền văn minh nông nghiệp.

Kinh tế Phúc Kiến đứng thứ 8 cả nước

Về kinh tế: Phúc Kiến là một trong những tỉnh có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất và tổng kinh tế của tỉnh này đứng thứ tám cả nước vào năm 2019 . Các ngành trọng điểm trong kinh tế Phúc Kiến gồm có: nông nghiệp, lâm nghiệp, chăn nuôi, thủy sản và các ngành công nghiệp.

Về dân số: Dân số thường trú sẽ là 41,83 triệu người vào cuối năm 2023. Trong số dân thường trú của tỉnh Phúc Kiến, dân tộc chính là người Hán. Trong số các dân tộc thiểu số: Dân tộc Tê chiếm 45,87% dân số dân tộc thiểu số tỉnh Phúc Kiến; dân tộc Hồi chiếm 14,56% dân số dân tộc thiểu số ở tỉnh Phúc Kiến; dân số Cao Sơn chiếm khoảng 10,55% dân số Cao Sơn trên đất liền. Các tôn giáo chính ở Phúc Kiến là tín ngưỡng dân gian Trung Quốc , Đạo giáo và Phật giáo .

Về ngôn ngữ: Có bảy loại phương ngữ tiếng Trung chính trên khắp đất nước và Phúc Kiến có năm loại trong số đó — phương ngữ Mân , phương ngữ Khách Gia , phương ngữ Cám , phương ngữ Ngô và phương ngữ Quan Thoại . Sự hình thành các phương ngữ chủ yếu là do sự phân chia xã hội, sự di cư của người dân, sự hội nhập dân tộc và sự cô lập về mặt địa lý.

Người dân Phúc Châu mang tượng thần diễu hành trên đường phố, cầu mong mưa thuận gió hoà

Về văn hóa: Văn hóa Phúc Kiến có lịch sử lâu đời. Văn hóa Đàm Thạch Sơn cách đây 5.000 năm được kết hợp với văn hóa đồng bằng miền Trung để phát triển các nền văn hóa khu vực như văn hóa thủ đô Phúc Kiến , văn hóa miền Nam Phúc Kiến và văn hóa miền Tây Phúc Kiến. Người Phúc Kiến có mối liên kết không thể tách rời với loài rắn. Từ hàng nghìn năm nay, rắn đã ảnh hưởng sâu sắc đến tín ngưỡng tôn giáo, phong tục dân gian và văn hóa tâm linh của người dân Phúc Kiến, hình thành nên tục thờ rắn độc đáo.

2. Các địa điểm du lịch nổi tiếng tại Phúc Kiến

Tài nguyên du lịch Phúc Kiến rất phong phú và độc đáo. Tỉnh Phúc Kiến là tỉnh thứ hai trong cả nước mà mọi thành phố cấp tỉnh đều có điểm du lịch cấp quốc gia 5A. Cùng VIMISS khám phá những địa danh nổi tiếng nơi đây nhé!

Thổ lâu Nam Kinh


Thổ Lâu là một loại nhà cộng đồng độc đáo của người Khách Gia chủ yếu sống ở các vùng núi của Phúc Kiến và Quảng Đông ở Trung Quốc. Lịch sử của nó có thể bắt đầu từ thế kỷ 11, tức là hơn 1.000 năm trước . "Thổ" có nghĩa là đất và "Lâu" có nghĩa là nhà . Thổ Lâu theo nghĩa đen được gọi là Ngôi nhà bằng đất. Đất là vật liệu chính để xây dựng phần thân của những ngôi nhà này, do đó có tên như vậy. Thổ Lâu thường có kích thước khổng lồ và cao 3 ~ 5 tầng, được bao quanh bởi một bức tường bùn hình chữ nhật, hình tròn hoặc hình dạng khác với một sân chung ở giữa.

Thổ lâu Vĩnh Định


Thổ lâu Vĩnh Định là cụm Thổ lâu (nhà đất của người Khách Gia) rộng rãi ở quận Vĩnh Định, thành phố Long Nham, Phúc Kiến, Trung Quốc. Đây là một trong những khu vực Thổ lâuchính của Thổ lâu Phúc Kiến, được liệt kê là cụm Di sản Thế giới của UNESCO vào năm 2008.

Bãi bồi Hạ Phố


Bãi bồi Hạ Phố ở tỉnh Phúc Kiến được coi là bờ biển đẹp nhất Trung Quốc và được giới nhiếp ảnh đánh giá là một trong 10 địa điểm chụp ảnh đẹp nhất trong nước. Trên vùng đất cổ kính và xinh đẹp này có diện tích 1.489 km2, biển xanh ngọc lam tràn ngập sắc màu, bãi bồi được lát vàng, những ngọn núi xếp tầng được phủ xanh ngọc lục bảo, đá đỏ hiện ra lờ mờ, giống như một viên ngọc trai sáng khảm dọc theo bờ biển Hoa Đông. Bình minh hay hoàng hôn rực rỡ trên biển trên bầu trời đều là những cảnh đẹp tuyệt vời mà bạn có thể thưởng thức tại Hạ Phố, Phúc Kiến.

Đảo Cổ Lãng Tự - Khu vườn trên biển với gần 1000 tòa nhà quốc tế


Với cảnh quan thiên nhiên tuyệt đẹp, kiến ​​trúc theo phong cách thuộc địa và nhiều bảo tàng thú vị, Đảo Cổ Lãng Tự thu hút vô số du khách đến đây mỗi năm. Vào ngày 8 tháng 7 năm 2017, Đảo Cổ Lãng Tự đã được UNESCO công nhận là Di sản Thế giới và hiện là Di sản Thế giới thứ 52 tại Trung Quốc. Ngay cả Cổ Lãng Tự cũng còn khá trẻ so với các di sản khác tại Trung Quốc . Tuy nhiên, trong hơn 100 năm, 931 công trình xây dựng với nhiều phong cách, thời kỳ và nền văn hóa khác nhau đã tạo nên nét đặc trưng của địa điểm độc đáo này và hoàn toàn thể hiện được những đặc điểm bao gồm, đa văn hóa, tốt đẹp của Cổ Lãng Tự cũng như sự kết hợp hài hòa giữa khái niệm cư dân hiện đại và văn hóa truyền thống địa phương. Với cảnh quan lãng mạn và linh hoạt như vậy, Đảo Cổ Lãng Tự đã giành được danh tiếng là " Triển lãm Kiến trúc Thế giới ".

Núi Vũ Di (Vũ Y Sơn) - Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới


Núi Vũ Di, hay Vũ Di Sơn (武夷山) nằm ở tỉnh Phúc Kiến . Nơi đây được công nhận là Di sản Văn hóa và Thiên nhiên Thế giới vào năm 1999 vì nền văn hóa phong phú trong hàng ngàn năm, cảnh quan Đan Hà đa dạng và khoảng 5000 loài động vật cũng như 2527 loại thực vật. Ngoài ra, nơi đây còn được công bố là Khu du lịch AAAAA Quốc gia và từ lâu đã trở thành một địa điểm mê hoặc để tham quan và nghỉ dưỡng mùa hè. Núi Vũ Di cũng là một ngọn núi nổi tiếng của ba tôn giáo (Nho giáo, Phật giáo và Đạo giáo) ở Trung Quốc.

Văn hóa và lịch sử của Phúc Kiến không bị chôn vùi dưới lòng đất mà được đồng hóa vào cuộc sống địa phương. Thông qua du lịch bạn sẽ khám phá được những nét văn hóa đặc trưng mà không có trải nghiệm thực tế nào có thể đem lại.

3. Ẩm thực Phúc Kiến có đặc trưng gì?

Ẩm thực Phúc Kiến còn được gọi là ẩm thực Mân là một trong những nền ẩm thực bản địa của Trung Quốc bắt nguồn từ phong cách nấu ăn của tỉnh Phúc Kiến, đáng chú ý nhất là từ thủ phủ Phúc Châu.

Nếu có dịp đến Phúc Kiến, bạn hãy thưởng thức các món ăn địa phương nhé, một số món ăn đặc trưng được nhiều người yêu thích như:

Phật nhảy tường


Món Phật nhảy tường có tên gọi lạ là một đặc sản của Trung Quốc có nguồn gốc từ tỉnh Phúc Kiến, và món ăn này ban đầu được làm vào thời nhà Thanh. Quá trình nấu món súp xa hoa này rất phức tạp vì phải mất khoảng ba ngày để chế biến, và công thức nấu ăn yêu cầu hơn 30 nguyên liệu như vây cá mập, gà, vịt, lòng, gân, giăm bông, mề, bào ngư, hải sâm, trứng chim bồ câu, nấm, sò điệp, măng...

Nguyên liệu thô được nấu thành các món ăn riêng biệt, khác nhau để tăng hương vị độc đáo của chúng. Các món ăn sau đó được xếp lớp trong một chiếc bình đất sét với súp và rượu. Lá sen được sử dụng để niêm phong bình, và cuối cùng bình được đặt trên lửa để đun nóng.

Thịt heo cuộn om nước vải


Đây là một món ăn truyền thống của Trung Quốc có nguồn gốc từ Phúc Kiến. Nguyên liệu gồm thịt lợn, vải thiều, nước tương, giấm gạo, rượu gạo, dầu thực vật, bột ngô, hành lá và muối. Thịt lợn được làm mềm, cắt thành khối vuông, lăn qua bột ngô và chiên ngập trong dầu nóng cho đến khi vàng nâu.

Nước ép vải được trộn với nước tương, nước, rượu gạo, giấm và muối. Hành lá được xào trong dầu và trộn với hỗn hợp nước sốt vải, om thịt lợn đến khi mềm.

Bánh kếp đậu phộng


Bánh kếp đậu phộng là một loại món ăn vặt đường phố thường thấy ở Phúc Kiến. Những chiếc bánh kếp dày này được nhồi với hỗn hợp đậu phộng nghiền và đường. Bột bánh thường được chế biến với hỗn hợp bột gạo và bột mì, nước cốt dừa, trứng, đường, men, baking soda và một chút muối.

Sau khi chế biến xong, bánh kếp được phủ đậu phộng và đường, sau đó gấp đôi lại và dùng. Các loại nhân khác cũng có sẵn, chẳng hạn như đậu đỏ nghiền và dừa nạo. Bánh kếp được dùng vào bữa sáng, luôn nóng hổi.

Cơm chiên Phúc Kiến


Cơm chiên Phúc Kiến là một món cơm phổ biến của Trung Quốc có nguồn gốc từ tỉnh Phúc Kiến. Để chế biến món này, đầu tiên, cơm và trứng được xào chung với nhau, sau đó rưới lên trên một lớp nước sốt đặc làm từ thịt, nấm khô, hải sản và rau.

Bánh bao tiêu


Bánh bao tiêu là một món ăn đường phố được cho là có nguồn gốc từ Phúc Châu, Phúc Kiến. Món ăn nhẹ này bao gồm một chiếc bánh được nhồi với hành lá thái lát và thịt băm hoặc thái nhỏ.

Trứng tráng hàu


Trứng tráng hàu có nguồn gốc từ thành phố Triều Châu (Triều Châu) và vùng Phúc Kiến ở Trung Quốc. Món ăn bao gồm những con hàu nhỏ được thêm vào hỗn hợp bột khoai tây và trứng.

Theo: vimiss.vn



NGƯỜI THƯỢNG Ở TÂY NGUYÊN - KỲ 2: NHỮNG NGƯỜI GIỮ RỪNG SỐ 1

Trong kỳ 1, độc giả đã có cái nhìn sơ lược về tổ chức làng, luật tục và cách vận hành của luật tục trong đời sống của người Thượng. Bên cạnh cách tổ chức đời sống và luật tục, thần linh là một thế lực siêu nhiên đối với người Thượng.

Người Thượng ở biên giới Việt Nam – Cambodia nămm 1973. Ảnh: Jacques Teyssier.

Trong phần này, chúng ta sẽ bước vào thế giới tín ngưỡng của người Thượng trong cách họ đối xử với rừng và đất đai. Nếu thoạt nhìn, người ta sẽ dễ cho rằng đó là những điều mê tín dị đoan, khó hiểu. Tuy nhiên, ẩn đằng sau những điều khó hiểu này là một triết lý để sống bền chặt với thiên nhiên.

Phần cuối của bài này sẽ đưa ra những hiểu biết cơ bản về quyền đất đai của người Thượng – cũng chính là vấn đề lớn nhất ở Tây Nguyên ngày nay.

Bền chặt với thiên nhiên

Người Thượng theo tín ngưỡng đa thần giáo. Họ thờ nhiều thần. Họ tin thần có ở khắp mọi nơi. Khi cầu xin, người Ba-na, Ê-đê hay Gia-rai gọi các thần là Yang, đọc là Giàng.

Người Ba-na tôn thờ nhiều vị đẳng thần như Đấng Nam tạo hoá, Đấng Nữ tạo hoá, Thần sấm sét, Thần lúa, Thần nước, Thần núi… Có những thần thì gắn với tên của các loài thú như Ông Cọp, Voi, Cóc hay như Thần cây, Thần ghè… Lại còn có các hung thần hại người thì cần phải xua đuổi.

Không chỉ tôn thờ các vị thần, người Thượng còn có tục lệ kết nghĩa với các thần. Những người đã kết nghĩa thì phải kiêng cữ nhiều điều. Nếu kết nghĩa với thần lúa thì không được nhổ lúa. Kết nghĩa với thần thú vật nào thì không được ăn thịt thú ấy. Kết nghĩa với thần cây nào thì phải giữ gìn loài cây ấy.

Người Thượng không phải đụng đâu là cũng có thể lập làng. Hễ việc gì kinh động đến núi rừng, đất đai thì họ phải hỏi ý của các thần, khi nào thần đồng ý thì mới được làm. Để biết thần có đồng ý hay không thì họ quan sát các dấu hiệu của tự nhiên như đường chim bay, xác chết của thú rừng hay bằng nhiều cách khác nhau được truyền lại từ đời trước để đoán ý của các thần.

Ví dụ như trong khi đi tìm đất để lập làng. Tối hôm trước đó, người chủ làng Ba-na nằm chiêm bao thấy được điều tốt thì sáng hôm sau mới cùng những người khác đi kiếm đất. Trên đường đi họ nghe tiếng, nhìn đường bay của chim để tìm ra vùng đất phù hợp, ví dụ như nghe tiếng chim bên trái hay bên phải là điếm tốt; hay đường chim bay từ sau ra trước người đứng là tốt, ngược lại là xấu. Đến lúc tìm được khu đất thì họ xin ý kiến của các thần. Họ dùng cây rào xung quanh khu đất. Người chủ làng bỏ năm hạt gạo ra giữa khu đất rồi khấn vái xin các thần báo cho điềm tốt hay xấu. Cả nhóm bỏ ra một nơi khác để ngồi chờ trong vài tiếng đồng hồ. Nếu sau khi quay lại, năm hạt gạo vẫn còn nguyên hay mất đi một, hai hột thì là điềm tốt. Còn nếu mất đi ba, bốn hột hay mất hết thì là điềm rất xấu vì làng mà lập ở đấy thì sẽ bị giặc giã, dịch bệnh, cháy nhà… Kế tiếp họ xin keo pơgang, nếu keo cũng tốt thì họ về báo tin để lập làng.

Phát rừng để làm rẫy cũng thế. Nếu trong lúc phát rừng mà tiếng chim hoặc mang (một loài hươu) kêu thì rất xấu vì chắc thần không cho muốn làm chỗ đó.[1]

Đối với thú rừng thì họ cũng rất tôn trọng, khi một người thợ săn Gia-rai bắn một thú rừng, anh ta phải tạ lỗi: “Xin chư vị tha lỗi vì con phải có cái ăn”.

Trong các loài dã thú thì hổ là động vật linh thiêng. Kể cả những thợ săn Jrai chuyên nghiệp cũng bị cấm tấn công hổ vì họ đã xin sự chở che của Thần rừng cũng chính là Thần hổ nên tấn công hổ là điều cấm kỵ.

Nếu người thợ săn buộc phải giết hổ trong lúc đi săn thì họ phải ngay lập tức làm lễ tang cho hổ để thanh minh cho vụ việc chỉ là ngộ sát, bằng không chính anh ta sẽ làm mồi cho hổ. Lễ tang phải có bốn nhân chứng, hai đại diện cho người thợ săn, hai đại diện cho hổ. Lễ cúng là một ghè rượu và một con lợn; các con trâu đền mạng làm bằng thân chuối để tượng trưng hoặc chiêng nặn bằng đất sét, rồi đọc lời khấn như sau:

“Hôm qua, hôm kia, người này đã giết mày. Bây giờ nó đền nợ. Sự vụ thế là xong. Hãy ở yên, đừng giận chúng tôi. Chúng tôi đã mang tất cả những gì cần để đền bù, đủ số lượng; đừng tấn công chúng tôi, cả con cháu chúng tôi nữa”.[2]

Một góc làng của người Thượng vào những năm 50 của thế kỷ trước. Ảnh: chưa rõ nguồn.

Luật tục Gia-rai vùng Cheo-reo (Plei-ku) quy định việc xúc phạm thần nhà khi chặt một số loại cây như sau:

“Nó nói với môi còn hoẵng và miệng con bê
Nó đòi đào gốc cây tung
Trốc gốc cây thần
Lật gốc cây gạo (*)
Nó nói xấu anh em…
Vì thế mà lều vựa, nhà cửa
Gùi, sọt đề bị đổ vỡ
Vì thế mà bệnh lậu lan đến tận hiên nhà
Bệnh dịch tràn vào tận buôn.”
[3]
—–
(*): Cây tung, cây thần, cây gạo,… là những cây thiêng liêng của người Gia-rai. Đòi đào gốc các cây đó là xúc phạm đến thần linh.

Như vậy, dù sở hữu đất đai nhưng không có nghĩa họ có toàn quyền khai thác rừng hay giết hại muông thú. Tín ngưỡng đa thần của người Thượng đặt ra các giới hạn trong cách cư xử với thiên nhiên. Do vậy mà lối sống của người Thượng là một đời sống rất nguyên tắc để duy trì một trật tự hòa thuận với thiên nhiên. Nhà nghiên cứu người Pháp J. Dournes cho rằng các mối quan hệ này [giữa thần linh, con người và thiên nhiên] như một sợi dây bền chặt. Người nào làm đứt các mối quan hệ hài hòa này, cuộc sống sẽ bị đe doạ.

Không hề lãng phí cũng chẳng tàn phá

Người Ba-na cũng tin vào số mạng, họ gọi đó là “ai” hay “Pun ai”; “ai to” có nghĩa là người đó có mạng lớn, của cải sẽ tự tìm đến; “ai nhỏ” là kẻ yếu, khó mà được giàu sang. Cho nên người Ba-na không bao giờ cất nhà quá to, phát một đám rẫy quá rộng, trước đến nay ông cha làm như thế nào thì tuân theo như thế ấy.

Người Thượng không đụng đến các loại cây công nghiệp cho đến khi người Pháp thành lập các đồn điền ở Tây Nguyên.

Làm rẫy là nghề chính của người Thượng. Bao nhiêu đời người Thượng vẫn đốt rừng làm rẫy. Họ chọn một khu đất rồi xin thần linh để phát rẫy. Không chỉ làm rẫy, họ còn biết trồng lúa và trồng cây hoa màu.

Không có máy móc, chỉ có nông cụ đơn sơ nên cách làm rẫy của họ cũng rất đơn giản. Khi trồng lúa họ cũng không xới đất lên như người Việt hay làm. Họ dùng một cái que chọc lỗ, bỏ hạt lúa vào rồi chờ ngày thu hoạch. Người Thượng thông thường bắt đầu phát rẫy vào tháng Hai hay tháng Ba đến tháng Chín thì mới gặt lúa, tức mỗi năm chỉ làm một vụ lúa.

Canh tác ở đám rẫy một thời gian nhất định thì phải bỏ để chuyển sang nơi khác vì đất ở đó đã bạc màu. Ví dụ như đất ở sườn Trường Sơn do đất dốc và xấu, mỗi rẫy chỉ làm được một đến hai năm. Ở những nơi đất tốt hơn thì có thể trồng liên tiếp từ ba đến sáu năm.

Một người Thượng đi rẫy với gùi mang các nông cụ, ảnh chụp năm 1931. Ảnh: W. Robert Moore/National Geographic Society/Corbis

Nhưng không vì thế mà ta cho rằng người Thượng du canh du cư giống như dân du mục là một sai lầm. Cách thức này gọi là luân khoảnh để trả rẫy về với rừng trong vài ba năm thì họ mượn lại từ rừng.

Bằng chứng rõ ràng nhất là người Thượng không du canh du cư vì mỗi lần dời đi rất tốn kém và phức tạp. Họ phải bỏ hết nhà cũ kể cả nhà rông đã tốn rất nhiều công sức để làm. Hoạ hoằn lắm như gặp dịch bệnh, lũ lụt hay cướp bóc thì người Thượng mới tìm đất lập làng mới.

Theo nhà văn Nguyên Ngọc, mỗi làng của người Thượng thường có năm loại rừng thì mới thành làng.

Thứ nhất là mảnh rừng làm nơi cư trú. Ở đó, họ dựng nhà rông, ăn ở, cử hành các nghi lễ, xử án, v.v.

Thứ hai là rừng để làm rẫy, được phân chia cho các gia đình. Chủ làng người Mạ khi chia đất sẽ thông báo cho cả làng tập trung đến, tổ chức lễ cúng thần linh rồi chia đất. Những phần đất thuộc một khu rừng thường được chia từ trên xuống dưới để đảm bảo đất nhà ai cũng như nhau, không có người được đất tốt, người khác thì được đất xấu.[4]

Thứ ba là rừng sinh hoạt là mảnh rừng mà con người đến để tìm gỗ, lấy mật, hái trái rừng.

Thứ tư là khu vực nghĩa trang, nơi những người chết trở về với rừng.

Thứ năm là rừng thiêng tức là nơi ở của các thần linh, rừng đầu nguồn, giữ nước, sự sống của làng.

Sự phân chia này hết sức quan trọng, thể hiện văn hoá bản địa về đất đai của người Thượng mà đến thời Việt Nam Cộng hòa Đệ nhị đã thừa nhận sự phân chia này và củng cố bằng các chính sách của chính quyền.

Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng người Thượng không có thói quen tích trữ, những gì họ làm ra đều đủ dùng cho nhu cầu của mình nên rất khó có chuyện tàn phá rừng.

Nền văn minh của người Thượng là một nền văn minh thảo mộc mà J. Dournes nói rõ: “Không hề lãng phí cũng chẳng tàn phá, đúng vừa đủ để sinh tồn, bên cạnh và cùng các giống loài khác”.[5]

Quyền sở hữu đất đai

Trò chuyện với chúng tôi, giáo sư Phan Đăng Nhật nhận xét rằng xã hội của người Thượng chưa có giai cấp nên chưa sinh ra sự bóc lột, họ không mua bán mà chỉ trao đổi với nhau. Họ coi trọng những người giàu có. Người giàu được xem là những người làm rẫy giỏi.

Theo giáo sư Nhật, người Thượng đã xem trọng tư hữu nhưng không có sự tích tụ tài sản hay hình thành nhóm thoát ly khỏi lao động. Người Thượng không xem rừng là gia sản riêng của gia đình, rừng là của Yang, tức là của thần linh. Làng vay mượn rừng của thần linh để lập làng, làm rẫy, và làm nơi sinh hoạt.

Mỗi làng có đất của riêng mình với sự chứng giám của thần linh. Họ khẳng định quyền sở hữu vùng đất ấy để tránh sự xâm chiếm của các làng khác. Họ dùng cây cối, con suối, tảng đá để đánh dấu đất đai của làng, người Ba-na gọi là Toring, người Pa-kô gọi là Curang, người Xê-đăng gọi là Cheam-Bang…

Mỗi buôn đều có người trông nom về đất đai, người Ê-đê gọi là Polăn, người Srê, Mạ gọi là Tom-Bri, người Chu-ru gọi là Po-Ea… Những người này nắm quyền về đất đai, những ai muốn có rẫy, mượn hay chuyển nhượng đều phải có sự cho phép của những người này.

Đây cũng là những nguời phân chia đất đai cho các gia đình theo chu kỳ luân canh. Khi đất đã chia cho các gia đình thì hộ đó có quyền sử dụng, không ai được xâm phạm. Ngay cả trong thời gian hưu canh, đất rừng vẫn thuộc hộ được phân chia.

Luật tục của người Ê-đê quy định quyền sở hữu đất đai của họ rất rõ ràng:
“Đất này là của bà xưa ông cũ để lại, điều đó người ta đã truyền miệng lại cho nhau (đời này đến đời khác). Nếu có tù trưởng nhà giàu nào đó muốn chiếm đoạt là không thể được.”[6]

Nếu người chủ đất (người chủ làng) mất thì đất đai được kế thừa như sau:

“Mất cậu, để lại cho cháu.
Mất bà, để lại cho cháu.
Mất người này, để lại cho người kia.
Không ai dám chiếm lấy.
Không ai dám giành lấy mà chia cắt, chiếm lấy bằng được.”
[7]

Và người Ê-đê rất kiên quyết với những người chiếm đất của họ:
“Đất đai hắn chiếm, sông suối hắn đoạt; đất đai của tù trưởng nhà giàu, hắn giành lấy.
Rừng cây, hắn xí; đất đai hắn choán; rừng tê giác, rừng voi, hắn cũng lấn chiếm.
Hắn là kẻ to gan lớn mật, dám vượt cả núi cao.
Như vậy có việc phải xét xử giữa người ta với hắn.”

Luật tục của người Gia-rai vùng Cheo Reo (Pleiku) quy định tội chiếm đoạt rẫy của người khác:

“Nó đứng đó, tỏ vẻ doạ dẫm
Nó muốn chiếm đoạt từ rẫy
đến rừng của người khác
Bởi nó ghen ghét người ta
Những người có thóc đầy vựa, ngô đầy giàn
Nó không bị ghẻ
Nhưng lại lấy quả mơneng xát vào (*)
Nó không bị mụn nhọt
Nhưng lại lấy một mũi nhọn chích vào
Nó không phạm tội
Những lại sinh ra tội lỗi(**)
Nó lên cò súng
Nó đổ nhựa cây
Nó vẽ lên sợi dây chuyền(***)
Bởi thế, phải đưa nó ra xét xử”
[8]
—-
(*) một loại quả rừng dùng để chữa ghẻ.
(**) Nó không phải là tội phạm nhưng vì chiếm rẫy nên trở thành tội phạm.
(***) Nó làm dấu của nó lên rẫy người khác để chiếm đoạt).

Nhờ tôn trọng quyền sở hữu về đất đai, mỗi làng trong hàng nghìn ngôi làng ở Tây Nguyên bảo vệ được mảnh rừng, mảnh đất mà họ vay mượn từ thiên nhiên cho cuộc sống của mình.

Luật tục Raglai đặt ra những điều sau để bảo vệ môi trường và nguồn nước:

“Cấm làm nhà, làm dơ bẩn nơi nguồn nước, mạch nước ngầm.
Chỉ được dùng nước (suối, sông, hồ) ở một phía.
Uống nước hai bờ là giành giật với ông bà
Cấm đàn bà trẻ con tắm nước suối, nước sông.
Cấm săn bắt quá mức.
Cấm săn bắt và mang thịt thú rừng.
Cấm phát thông ranh rẫy.
Nghiêm cấm làm lửa cháy rừng.
Cấm đụng chạm đến cây to, cây nhiều tuổi.
Không được làm nhà nơi thùng, trãng, bãi, ao.
Không được làm rẫy nơi có người chết không được chôn cất đàng hoàng
Cấm tự ý du cư đến nơi rừng sống, đất mới.”
[9]

Trước khi người Pháp đến, triều đình vẫn tôn trọng chế độ đất đai theo phong tục riêng của các bộ lạc, hằng năm thu một số thuế nhất định, vài năm một lần các tù trưởng đến kinh đô để cống nạp sản vật.[10]

Đất đai và rừng là cuộc sống của người Thượng. Quyền sở hữu về đất đai, rừng cây của họ đã có từ rất lâu. Toàn bộ đời sống của một người Thượng không thể không có rừng.

Mất đất, người Thượng không còn là họ nữa: không còn không gian sống, luật tục bị vi phạm, tín ngưỡng không toàn vẹn, dân làng mất đoàn kết hay như nhà nghiên cứu Tây Nguyên J. Dournes đã nói là “trở thành điên loạn”.

Mời độc giả đón đọc bài viết tiếp theo về những biến đổi trong đời sống của người Thượng khi người Pháp đô hộ xứ Đông Dương.

Trần Long Vi
Theo: luatkhoa.com
Còn tiếp:


TỤC VI THIỀM CÚ - VŨ XƯƠNG KỸ


TỤC VI THIỀM CÚ
(VŨ XƯƠNG KỸ)

Bi mạc bi hề sinh biệt ly,
Đăng sơn lâm thuỷ tống tương quy.
Vũ Xương vô hạn tân tài liễu,
Bất kiến dương hoa phác diện phi.

Chú thích:

- Vũ Xương Kỹ, là tên tác giả nửa sau bài này, chỉ có nghĩa là người kỹ nữ đất Vũ Xương, thân thế không rõ.

- Vũ Xương, tên đất, đời Đường thuộc Ngạc châu, nay thuộc huyện Vũ Xương, tỉnh Hồ Bắc.


續韋蟾句 - 武昌妓

悲莫悲兮生別離
登山臨水送將歸
武昌無限新栽柳
不見楊花扑面飛


Viết tiếp câu của Vi Thiềm 
(Dịch thơ: Nguyễn Minh)

Trong sinh ly tuy buồn mà chẳng
Ly biệt xong đăng núi xuống thuyền
Vũ Xuơng dương liễu khắp miền
Mà không tơ liễu tô duyên mặt người


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vi Thiềm tự Ẩn Quế 隱珪, đỗ tiến sĩ năm 853, làm quan tới Thượng thư tả thừa, từng giữ chức Ngạc Châu quan sát sứ. Khi Vi rời Ngạc Châu nhận nhiệm vụ mới, các quan chức ở Ngạc Châu mở tiệc tiễn. Trong tiệc, Vi lấy giấy viết một bài tứ tuyệt tựa là "Văn tuyển" mới có hai câu, và thỉnh cầu quan khách tiếp cho hai câu sau. Một kỹ nữ giúp vui bữa tiệc đó, do không rõ thân thế nên gọi là Vũ Xương kỹ, đã xin phép được ứng khẩu ra hai câu cuối, không ngờ tuyệt vời đến nỗi cử toạ đều khâm phục, không ai không khen là hay.

Nguồn: Thi Viện

5 MÓN MỨT CỔ TRUYỀN CỦA NGƯỜI MIỀN NAM

Miền Nam có vô vàn những loại trái cây và từ đó cũng có 101 loại mứt. Mứt mãng cầu xiêm vị ngọt thanh, mứt dừa Bến Tre nức tiếng xa gần, mứt me chua chua, cay cay...


Mứt, hạt dưa là món ăn truyền thống dùng để mời khách quý đến thăm nhà mỗi độ xuân về. Trong mâm cỗ đón khách của người miền Nam cho dù là đơn giản hay cầu kỳ thì vẫn không thể thiếu món mứt cổ truyền.


Xin giới thiệu đến bạn 5 món mứt cổ truyền của người miền Nam là: mứt hạt sen, mứt gừng, mứt me, mứt mãng cầu và mứt dừa.

1. Mứt hạt sen

Hương sen thanh tao, vị sen ngọt mà thanh đạm là một món ăn rất thích hợp cho ngày tết cổ truyền. Mứt hạt sen đối với người dân Việt Nam là một món mứt quen thuộc thì đối với người miền Nam lại càng quá đỗi thân thiết bởi những cánh đồng sen bát ngát của miệt sông nước dường như đã ăn sâu bám rễ vào tâm hồn người người Nam từ thuở khai hoang.


Mứt hạt sen là một món ăn bình dị và rất dễ làm. Tuy nhiên, vì là món ngon đãi khách quý thăm nhà, người chế biến nó phải dụng tâm và bỏ nhiều công sức chăm chút cho món ăn. Hạt sen phải là hạt sen thật to, căng tràn đem sấy khô rồi ngâm nước vài giờ cho nở ra. Sau đó trần hạt sen qua nước sôi để hạt sen có độ mềm vừa phải.


Quá trình này phải diễn ra hai lần để hạt sen chín kỹ rồi lại ngâm vào nước lạnh để hạt sen có độ dai nhất định. Quá trình làm mứt sau đó mới bắt đầu. Đường để làm mứt hạt sen phải là đường cát trắng phau, sên chậm mà kỹ. Lửa nhỏ vừa phải cho đường thấm dần đều vào hạt sen, lại phải đảo đều tay và cẩn trọng để hạt sen không bị bung nát. Để có món mứt hạt sen ngon, thông thường người làm mứt còn rắc thêm vào nước hoa bưởi để hạt sen thơm và thanh hơn.

Mứt hạt sen ngon phải là món mứt có độ ngọt vừa phải, ăn trong miệng vừa ngọt lại thanh. Hạt sen bùi bùi, ngọt mà không ngấy.

2. Mứt gừng

Mứt gừng có vị cay, ấm, mùi thơm lại tốt cho sức khỏe. Trong không khí se se của tiết xuân, một dĩa mứt gừng cay bên ly trà ấm thực sự là một hương vị thanh tao dễ tìm.

Mứt gừng có nhiều loại, phổ biến nhất là mứt gừng khô và mứt gừng dẻo. Người có tuổi thích món mứt gừng khô với vị cay nồng kích thích. Trẻ em lại thích mứt gừng dẻo, không quá ngọt, lại cay vừa phải chỉ đủ âm ấm người.


Mứt gừng ngon phải đảm bảo tiêu chuẩn cay mà không đắng, người làm mứt gừng phải chăm chút từ khâu chọn gừng để sao cho gừng không bị già, có nhiều sợi xơ, rồi đến khâu sên đường đều tay sao cho lớp đường trên bề mặt thật mỏng mà vị ngọt còn thấm nồng vào bên trong.


Mứt gừng giúp làm ấm, lại dễ tiêu hóa. Ngày tết với thực đơn thức ăn phong phú thì món mứt gừng thực sự là sự lựa chọn không thể bỏ qua của mọi gia đình.

3. Mứt me

Ngày tết các loại mứt luôn là món quà có mặt ở tất cả các gia đình. Trong các loại mứt như mứt bí, sen, táo, nho... thì mứt me có vị chua chua ngọt ngọt và thơm rất hấp dẫn.
Me được chọn làm mứt là loại me ván già nhưng còn xanh (chưa chín), trái to ngang hoặc me đũa, trái dài, mắt thẳng, cơm dày. Loại me ươn, me mật không làm được vì mứt nhão, thâm đen, ít ngon.


Làm mứt me thật công phu. Me hái trên cây xuống hay mua về cắt bớt cuống, chỉ chừa lại cỡ đốt tay. Me bỏ vỏ, ngâm kỹ cho bớt chua, sau đó lại tách hạt thật khéo cho me không bị nát. Khi nào nếm bớt chua, vớt me vảy ráo nước, tiến hành rim. Thông thường, cứ 3 kg me tươi bóc vỏ phải dùng đến 1,5 kg đường cát.


Ðường càng trắng, me rim càng đẹp, càng ngon. Công đoạn này đòi hỏi phải khéo tay và tính kiên nhẫn, nếu nóng ruột là hỏng ngay. Mứt me đạt yêu cầu hải có màu vàng trong, bóng mướt, bọc giấy kính trông rất tươi mắt. Như vậy, thời gian tính từ khi làm đến khi có mứt ăn mất hết cả tuần.

Mứt me cũng được người sành điệu xếp vào hàng của quý. Ngày Tết, món mứt me bày ra thết đãi bà con, bạn bè, hấp dẫn vô cùng.

4. Mứt dừa

Đối với người miền Nam mà nói, mứt dừa dường như là món mứt quen thuộc nhất bởi xứ dừa phương Nam tự nhiên mà trù phú. Mứt dừa phải làm từ dừa chuyển từ Bến Tre lên. Không chỉ ở Bến Tre mới có dừa, nhưng với mứt dừa làm từ trái dừa trồng trên đất cù lao màu mỡ của Bến Tre thì chất lượng mứt không đâu sánh bằng.


Trong sản xuất mứt dừa truyền thống, công đoạn sên mứt là khâu cực nhất và tinh tế nhất. Do đó, người đứng sên mứt phải có tay nghề, sức lực dẻo dai. Đứng bên lò sên mứt nóng hầm hập từ lửa hồng than miểng gáo, người thợ sên mứt với hai chiếc đũa lớn, phải khuấy mứt cho đều trong thau, thao tác liên tục nhiều giờ để cho ra thành phẩm là miếng mứt dừa trắng phau đẹp mắt, không bị vàng cho quá lửa.


Ngoài mứt dừa truyền thống, người dân Sài Gòn còn biến hóa món mứt dừa thành nhiều món ngon khác như mứt dừa tắt ngọt ngọt chua chua, mứt dừa dứa vừa thơm lại xanh, mứt dừa dẻo dai dai hay món mứt dừa bún thơm thơm mùi lá dứa, mùi cà phê, ca cao, càng ăn càng ghiền.

5. Mứt mãng cầu

Mứt mãng cầu tương đối dễ làm, khi ăn có mùi chua ngọt dễ ăn, đỡ ngán. Sau khi làm xong, mứt mãng cầu được gói trong những miếng giấy màu xanh đỏ nhìn rất đẹp mắt.
Người Sài Gòn chọn mãng cầu xiêm của miền Tây để làm mứt, vì vùng đất ưu ái cho giống mãng cầu có vị ngọt thanh. Làm mứt thì chọn trái còn tươi và to, dày cơm, mãng cầu xiêm sẽ cho món mứt có độ dai vừa phải.


Sau khi sên, những miếng mãng cầu tươi ngâm đường, thành phần dinh dưỡng của mứt có thay đổi ít nhiều so với trái mãng cầu tươi. Lượng đường trong mứt mãng cầu khá cao, tùy thuộc vào lượng đường cát đã thêm vào mứt và độ ngọt của mãng cầu. Đây không chỉ là một món ngon đãi khách mà còn là một món ăn giàu dinh dưỡng.

Khiếu Nguyệt / Theo: afamily