Thursday, November 27, 2025

NHÂN LỄ TẠ ƠN Ở HOA KỲ, BÀN VỀ LAO ĐỘNG, KHỔ ĐAU VÀ CỨU RỖI

Lễ Tạ ơn (Thanksgiving) của người Mỹ bắt đầu từ năm 1621 để cảm tạ Trời Đất bởi dân di cư Âu châu mới sang vùng Bắc Mỹ, mong có đời sống mới nhiều tốt đẹp hơn. Ở giai đoạn đầu khi di dân Anh quốc sang vùng đất này, gà tây hoang dã là nguồn thực phẩm dễ kiếm và nhiều thịt.


Truyền thống gà tây cho ngày lễ

Khi Alexander Hamilton, một nhà sáng lập nước Mỹ, tuyên bố, "Không một công dân Mỹ nào từ chối ăn thịt gà tây vào ngày lễ Tạ ơn" thì con chim to lớn này đã trở thành con vật lễ nghi cho truyền thống Tạ ơn hằng năm vào ngày thứ Năm cuối tháng 11.

Thịt gà tây, nếu ai đã ăn qua, thực sự chẳng ngon lành tí nào. Nó lạt lẽo và rất là dễ ngán. Thành ra, người Mỹ nấu gà tây trong dịp này chẳng qua là một cái cớ để cho cả nhà cùng nhau lục đục, nấu nướng cho vui. Đây cũng giống như truyền thống nấu bánh tét, bánh chưng ở quê ta nhân dịp Tết đến, xuân về. Cái vui ở nơi nấu nướng mới là quan trọng hơn là hương vị thức ăn.

Ở xứ Cờ Hoa này, đối với dân di cư mới sang, ai ai cũng tối mặt, tối ngày lao động. Vì thế, ai cũng mong làm sao để biến công ăn việc làm như là một niềm vui, như là một cơ hội giải thoát ra khỏi sự nhàm chán trong cuộc sống.

Từ đó, ý nghĩa của cuộc sống nằm ở nghệ thuật biến lao động sinh nhai như là chuyện nấu nướng cho mâm cơm gia đình.

Từ Lao động đến Công việc

Điều huyền bí cuộc đời nằm ở chỗ chúng ta biết cách biến lao động (labor) thành công việc (work).

Ở cái thuở khi văn minh Tây phương chưa đi vào con đường hiện đại, con người hình như không có lao động và không bị lao khổ. Khi tôi lớn lên những năm 1960-70 giữa ruộng đồng miền Trung Việt, nhìn nghe dân gặt lúa hò vấn đáp giữa cánh đồng lúa chín, tôi cảm thấy người ta dung hòa và dâng hiến chính mình, cả ý thức và thân xác, vào công việc như là một sinh hoạt tôn giáo và tâm linh.

Mỗi tác hành cho công việc không làm lao tổn hay tiêu hao năng lực thể chất và tinh thần như là lao động ngày nay. Công việc đồng áng giữa thiên nhiên của người xưa không nhằm mục đích để xong việc mà nghỉ ngơi – mà chính trong công việc là sự nghỉ ngơi và giải trí.

Thuở đó, công việc chính là hành động nuôi nấng và dung dưỡng sự trở nên và sáng thành của thiên nhiên, của tạo hóa, cho mình, cho người, cho đời và cho Trời Đất.

Không thời biểu, không ngày giờ, thứ Hai, thứ Ba hay cuối tuần, thứ Bảy, Chủ nhật. Tất cả thời gian và ngày giờ được biến hóa và tan hòa vào công việc – như là hành động nấu nướng con gà tây cho chính mình và cho gia đình trong yêu thương.

Làm việc chính là giải nghiệp và cầu nguyện

Công việc, từ đó, là một sự góp tay trong nguyện cầu để thực tế được trở thành trong ý niệm của ta và của Trời Đất theo quy luật thiên nhiên.

Khi ta làm việc ta không cảm thấy "bị lao động," mà trái lại, làm việc là góp tay với Tạo Hóa để cho thế giới – và chính ta - được chuyển mình và tiến hóa về cái Đẹp, cái Đúng. Trong công việc ta hiện thân ra tính thể – working is being – mà bản chất con người trong ta sẽ quyết định cách thức làm việc và phẩm chất cho kết quả và thể tướng nơi sự vật tác thành.

Công việc là chuyện mở đường, chuyện thắp đuốc để khơi sáng ngọn đèn tâm thức – để biết mình là gì và qua đó để biết rõ hơn bản chất thiên nhiên, vũ trụ, thế gian qua những trở lực mà công việc gặp phải và vượt qua. Tùy vào xung tác từ ta mà thế giới phản lực ngược lại như thế nào. Đây là cả một nghệ thuật giao hưởng giữa cá nhân và thế giới.

Mỗi người khi theo đuổi công việc (worker) trở nên một nghệ sĩ nhằm chuyển hóa tính chất tiêu cực nơi kẻ lao tác (laborer) bằng nội dung tôn giáo ở sự việc. Họ trở nên một đạo sĩ dấn thân trong ý chí yêu thương thế gian này trước những trở lực của khó khăn và đau mệt thân thể (pain) mà không hề bị suy thoái xuống thành khổ đau (suffering).

Trong các trường phái tôn giáo bí truyền, công phu tu luyện chính là công việc – và được gọi đúng tên như vậy, the Work. Công việc là cơ hội và phương tiện tu học, để thử thách, để chuyển hóa cho tâm thức mình và cho thế gian – nhà Phật gọi là "giải nghiệp." Công việc chính là hành trang thư pháp (calligraphy), là nghi thức trà đạo, mà trong đó mục tiêu cho công việc chính là công việc chính nó.

Làm việc như vẽ tranh

Tầm quan trọng không phải là làm cái gì mà làm như thế nào. Điều này giải thích được lý do vì sao mà các trí thức khi về già lại càng muốn trở thành họa sĩ.

Niềm hạnh phúc trong khi vẽ tranh chính là sự hưng phấn từ cái Đẹp qua cử chỉ thân thể. Đây là một niềm cám dỗ nghệ thuật lạ lùng mà hầu hết những nhà văn hóa đều sẽ phải trải qua khi tuổi đã luống chiều. Vì sao vậy?

Ý chí sáng tạo và tác hành trong sự Thật nay đã biến thành một sự rút lui ra khỏi thế gian phức tạp nhằm nung ấm chính mình bằng ý chí đi tìm cái Đẹp đơn giản trong tranh. Nhưng điều này ít ai nghiệm ra và lý giải cho tri thức.

Người vẽ tranh khi về già chỉ cảm nhận được một nỗi vui sâu sắc và đơn giản khi vẽ – và chỉ có thế, họ không cần gì khác hơn. Khi lớn tuổi, kẻ trí thức, khi vẽ tranh, trở thành trẻ thơ lần nữa: Họ mang tinh thần tôn giáo hồn nhiên trong công việc như là đứa trẻ chơi đùa giữa ruộng nước bùn lầy.

Nhưng chính trong bùn lầy của đời sống và công việc mà biểu tượng Đạo lý cuộc đời được hiện thân. Người làm công việc khác với người lao động. Họ nhận thức ra tính cách biểu dấu (symbolic nature) cho sự việc và quy luật vật chất. Khi làm việc, hắn xây căn nhà hữu thể – the house of being – cho mình.

Khi căn nhà hoàn tất, hắn bước vào căn nhà – nói theo Harry Remde trong tiểu luận The House as Center – như là đi vào một biểu tượng của chính mình (When he enters this house, he enters a symbol of himself).

Nguồn hình ảnh,Getty ImagesChụp lại hình ảnh,Tổng thống Bill Clinton hoan hỉ nhận món quà Lễ Tạ ơn là một con gà tây từ Liên đoàn Gà tây Quốc gia vào năm 1996

Lao động, vô gia cư, khổ đau

Chính người làm việc tự tay xây căn nhà hữu thể, làm biểu tượng cho mình. Đó là hiện thân cái ta qua công việc. Ta phải ở trong căn nhà hữu thể này để được an trú, bởi vì nếu không thì chính ta sẽ trở thành vô gia cư.

Người làm việc là người ở trong nhà của mình; còn người lao động là người vô gia cư, hắn bị mất đi tính biểu tượng trong công việc – và hữu thể của hắn bị cuốn trôi theo nghiệp thức nơi chủ đích lao động. Đó là căn nguyên của khổ đau.

Khi con người có nghề, hắn sẽ bị nghiệp lôi kéo. Nhưng khi con người chỉ có việc làm như là công phu tu luyện – the Work – thì hắn sẽ được giải nghiệp. Người làm việc tìm ra được tinh hoa thế gian qua tác hành trong căn nhà hữu thể.

Mọi khó khăn, thô lậu trần thế sẽ trở thành than củi cho lò lửa luyện kim tinh thần như là trong bếp cơm ấm cúng giữa góc căn nhà, bạn cười to vang trong nhiệt độ lò lửa than hồng.

Khi tôn giáo và lễ nghi thay cho công việc

Khi công việc đã bị thoái hóa xuống tầm mức lao động thì hiện tượng tôn giáo duy hình thức và lễ nghi xuất hiện. Khi mà cái lễ, cái nghi nay không còn là của con người thường nhật trong công việc hằng ngày thì hắn phải tìm đến tôn giáo để khôi phục lại cho mình căn nhà tinh thần này.

Thượng đế từ đó bị khách quan và nhân thể hóa; thần linh đi về cõi khác; nhân cách con người bị hớp hồn vào hình thức trống rỗng. Hình thức cũng không còn mang ý nghĩa biểu tượng Đạo lý – mặc dù tôn giáo nặng hình thức nghi lễ là một nỗ lực phục hồi đạo lý trong lao động.

Cái Ta – ở nơi con người lao động – bị cái nghiệp trong mục tiêu thế gian cuốn trôi. Và tôn giáo là nơi đến cho những kẻ vô gia cư. Thánh nhạc, lời kinh trở nên niềm cứu độ tình trạng vô gia cư này của những con người có đầy nghề nghiệp.

Không ngạc nhiên gì mà nỗi khổ lớn nhất của con người thị thành khắp nơi là sự nhàm chán (boredom) và bệnh xuống tinh thần, trầm cảm (depression). Con người ngày nay càng bận rộn bao nhiêu họ càng cảm thấy trống rỗng và xuống tinh thần bấy nhiêu vì họ không tìm ra được ý nghĩa và hứng thú trong lao động.

Đây là bản án chung thân cho nhân loại bây giờ: Tất cả chúng ta đều là những kẻ nô lệ lao động cho thân xác, cho tự ngã. Ta chỉ mong sao được thoát ly ra khỏi tình trạng bận rộn quần quật bất tận vì nghề nghiệp.

Hãy nhìn tới khối nhân công lao động vô hồn trong các xưởng sản xuất khổng lồ từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, đến Việt Nam, Nhật Bản. Đó là những khối nhân loại nô lệ thời đại.

Karl Marx từ thế kỷ 19 đã nhìn thấy vấn đề này và muốn đưa con người lao động ra khỏi cái mà Marx gọi là "vương quốc thiết yếu" (kingdom of necessity) để đến với "cõi tự do" (realm of freedom)(*).

Nhưng Marx lại cho sai thang thuốc. Thay vì cá nhân phải tự chuyển hóa trong công việc của mình, Marx muốn biến người cộng sản mang cơn đau đẻ cho sự chuyển bụng (labor) lịch sử bằng lao động cách mạng. Nhưng bài học này đã xong rồi.

Chuyển hóa là cứu rỗi

Maurice Nicoll, triết gia Anh, trong cuốn The Mark (Chủ đích) bàn về Tân Ước, viết, "Không ai có thể thoát ra khỏi chính mình ngoại trừ họ có một nơi nào đó để đi đến." Nicoll nói thêm, "Cá nhân không thể thay đổi mình ngoại trừ hắn đã có cái gì mới để mà vươn tới."

Con người không biết sống và lao động để làm gì, không biết đi về đâu, không biết bước đi trên mặt đất này theo hướng nào. Nó cũng giống như là người bắn cung mà tên bị hụt mục tiêu (missing the Mark). Con người khi hắn bước đi trên trái đất này bằng thái độ với công việc như thế nào sẽ quyết định mức tiến hóa cho mình.

Nicoll dùng chương Sáng thế ký (Genesis) trong Cựu Ước, câu chuyện của Lot, để giảng luận về ý nghĩa của muối. Khi Lot và vợ con khi đi đến thành phố Sodom(**), nơi rất sa đọa thân xác, có kẻ khuyên họ nên rời thành phố gấp trước khi nó bị ông Trời tiêu hủy. Nhưng Lot chần chừ.

Đến khi thiên thần hiện ra khuyên là ông ta và vợ con nên trốn "lên núi" (cõi cao) và đừng có "nhìn lui" (ám ảnh bởi quá khứ) thì mới thoát nạn – "Hãy để cho kẻ chết chôn chính họ" (Matthew 13) – Lot không dám lên núi mà chỉ muốn trốn vào thành phố nhỏ tên là Zoar. "Zoar" theo phương ngữ Trung Đông có nghĩa là "nhỏ nhặt, ti tiện". Sau đó, Sodom bị ông Trời tiêu hủy.

Nhưng vợ Lot, đứng đằng sau, quay nhìn lui lại Sodom và bà đã bị biến thành một cột muối. Lot sau đó trốn lên hang núi và loạn luân với hai con gái của mình để sinh ra thêm một thế hệ mới. "Cột muối" ở đây biểu tượng cho sự đông cứng, của sự chết, không còn khả năng sinh sản – và cũng mang ý nghĩa cứu rỗi, chuyển hóa.(***)

Nguồn hình ảnh,Getty ImagesChụp lại hình ảnh,Hình ảnh một gia đình Mỹ với món gà tây trong Lễ Tạ ơn hồi thập niên 1960

Chàng Lot trong mỗi chúng ta

Lot là mẫu người bình thường trong mỗi chúng ta vốn chỉ biết trốn chạy vào cái nhỏ nhặt để quên đi mục tiêu to lớn của cuộc đời: Chuyển hóa chính mình.

Từ trong "Zoar" – tức là vì cái nhỏ nhặt, ti tiện – mà ta tự gia tăng, quan trọng hóa chính mình qua say mê và ái dục – như là Lot bị hai đứa con gái phục rượu cho say để mà loạn luân trong hang núi.

Khi bạn rắc muối lên thịt gà tây, khi bạn nhai và nuốt vào bụng, muối sẽ giúp chuyển hóa thức ăn thành ra máu huyết, tức là Tinh Thần. Nếu không có muối, gà tây vẫn là gà tây khi ăn vào bao tử, ta sẽ bị bội thực, như là Lot loạn luân với con gái khi không còn vợ vì con gái muốn có con nối tiếp chính mình.

Thành ra bạn thấy đó: Mọi chuyện, mọi thứ trên đời – kể cả thân xác của chúng ta – đều là của biểu tượng cho một ý nghĩa huyền bí. Hãy nhìn cuộc đời cứ như là chuyện nấu nướng con gà tây – con vật tượng trưng cho ngu dốt, vụng về – trong dịp Thanksgiving này.

Trong tinh thần ơn nghĩa, trong cung cách ngôn từ, nơi hình thức, thái độ và tư cách của những người tham dự trong bếp núc mới là cái chính – chứ không phải là thịt con gà tây khi nấu xong.

Không ai nghĩ rằng khi cả nhà cùng nhau nướng gà tây thì đó là "lao động" cả – mặc dù công việc cũng rất là mất công và mệt nhọc.

Vì đây là lúc mà chúng ta thấy cái lớn, cái ân đức trong tình nghĩa gia đình, trong công việc bếp núc bình thường – thay vì như thường nhật, chúng ta vẫn có thói quen chạy trốn vào cái bé nhỏ, vay mượn cái hẹp hòi, chật chội thay cho mục tiêu lớn của cuộc đời.

Cho một văn minh tinh thần mới

Như Simon Weil, nữ triết gia Pháp, có lần đã nhận xét, "Công tác của thời đại chúng ta là kiến tạo một nền văn minh khai sinh trên nền móng tinh thần của công việc" để giải quyết vấn nạn khổ đau cho dân lao động.

Tức là ở điều mà Jean K.Martine nói: Mỗi con người qua công việc, đang sống một cuộc đời hai mặt. Một mặt từ thế giới hiển nhiên; mặt kia nằm trong bí ẩn, chờ đợi.

Theo đó thì tất cả những tác hành cho cuộc sống hằng ngày tạo ra một sự rung động tương ứng ở cõi vô hình – và chỉ khi nào sự rung cảm ở hai cõi hữu và vô này được đồng nhịp thì con người mới thực sự được hạnh phúc.

Mong các bạn Mỹ gốc Việt hãy vui thú để cùng nấu nướng và chia sẻ với gia đình con gà tây thứ Năm tuần này. Chỉ có trong tình yêu nối liền cái hữu của thức ăn với cõi vô hình của tấm lòng chân tình biết đến ơn nghĩa với người thân và cuộc đời, với Trời Đất, thì bạn mới tìm ra hạnh phúc.

Happy Thanksgiving! Chúc bạn sức khỏe và bình an!

  • Nguyễn Hữu Liêm là tác giả nhiều sách và tiểu luận triết học hiện sống ở San Jose, California.
---

(*) Tư bản luận, Vol 3.

(**) Tên thị trấn Sodom – thành phố nhiều cư dân đồng tính nam – là ngữ gốc của từ sodomy.

(***) Tân Ước – Matthew 5:13: "Bạn là muối của địa cầu." Từ salt (muối) cùng ngữ gốc với saliva (nước miếng)salvation (cứu rỗi). Sal là chuyển hóa. Nước miếng và muối giúp chuyển hóa thức ăn thành máu (tinh thần). "Cứu rỗi" chính là sự chuyển hóa cái thô lậu sang năng lực tinh thần thanh thoát.Nguyễn Hữu Liêm

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ San Jose, California, Hoa Kỳ
Theo: BBC Tiếng Việt (26/11/2025)