Tự ngã lai Hoàng Châu,
Dĩ quá tam hàn thực,
Niên niên dục tích xuân,
Xuân khứ bất dung tích.
Kim niên hựu khổ vũ,
Dữ nguyệt thu tiêu sắt.
Ngọa văn hải đường hoa,
Nê ô yến chi tuyết.
Ám trung thâu phụ khứ,
Dạ bán chân hữu lực.
Hà thù bệnh thiểu niên,
Bệnh khởi đầu dĩ bạch.
黄州寒食帖
自我來黃州
已過三寒食
年年欲惜春
春去不容惜
今年又苦雨
兩月秋蕭瑟
臥聞海棠花
泥污燕支雪
闇中偷負去
夜半真有力
何殊病少年
病起鬚已白
Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp
(Dịch thơ: yeuhannom)
Từ ngày tôi đến hoàng châu
Hàn thực ba tết qua mau mất rồi
Tháng ngày chỉ tiếc Xuân thôi
Xuân đi mà chẳng một lời luyến lưu
Năm nay liên tục mưa rào
Hai tháng hiu hắt gió gào Thu phai
Nằm nghe thấy, Hải Đường rơi
Phấn hoa như tuyết lại vùi bùn thâm
Tựa như tên trộm âm thầm
Nửa đêm cưỡng đoạt sức thân chống gì
Khác đâu tuổi trẻ bệnh suy
Đến khi bệnh dậy đầu thì bạc phơ
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.
Theo: yeuhannom



