Monday, November 24, 2025

BỈ NGẠN HOA


Bên bờ Vong Xuyên ngày hôm đó, có một đạo cô vận bạch y, tay cầm phất trần, tóc vấn cao, gương mặt lãnh đạm không thể hiện xúc cảm gì rõ rệt, chỉ đứng lặng nhìn Vong Xuyên tịch mịch chảy xuôi. Miệng đạo cô ngâm bốn câu từ Mộ Ngư Nhi.

Hỏi thế gian, tình ái là chi
Mà sống chết, đời người bi lụy.
Trời Nam, đất Bắc, đôi chim nhạn.
Cổ thụ đã mấy mùa hàn sương…

Đạo cô thấy đám hoa màu đỏ rực bên bờ Vong Xuyên khẽ lay động, bèn bước tới xem sao, hóa ra trong đó có một tiểu ngạ quỷ đang chăm chú nhìn xuống đất, nhặt nhạnh thứ gì không rõ. Đạo cô buông tiếng hỏi, “Ngươi đang làm gì ở chốn này?” Ngạ quỷ đáp, “Ta nhặt cỏ dưới gốc hoa.” Đạo cô nhìn lại, thấy thân hoa mọc thẳng lên từ nền đất, tuyệt không có bất kỳ ngọn cỏ nào mọc chen, vậy mà ngạ quỷ vẫn cần mẫn nhặt, bèn ngạc nhiên, “Ngươi thật phí công, dưới gốc hoa làm gì có cỏ.”


Ngạ quỷ bấy giờ ngừng tay, ngẩng mặt nhìn đạo cô, mỉm cười rồi đáp, “Ngươi không thấy, không có nghĩa là người khác không thấy. Lòng ta thấy cỏ đang xanh lên thì nhặt, ngươi thấy chỉ nền đất đen thì cứ việc bỏ đi. Thấy hay không thấy là do bản thân mình có muốn thấy hay không.” Nói rồi ngạ quỷ lại quay về công việc nhặt cỏ quanh hồ.

Đạo cô dù lòng còn hoài nghi, nhưng nhận ra khi đã bước đến bờ Vong Xuyên, một chân đặt lên Nại Hà Kiều thì hoài nghi hay ngờ vực cũng chẳng còn ý nghĩa. Nói đoạn, đạo cô bước lên cầu, chuẩn bị đi đến Vọng Hương Đài để uống chén canh Mạnh Bà, bất giác lại quay đầu nhìn về phía ngạ quỷ. Bất ngờ mới thấy ngạ quỷ cũng đang đứng ở chân cầu nhìn về phía mình, gật đầu bái biệt.

Cạnh Vọng Hương Đài có Mạnh Bà ngồi nấu canh. Chén canh có năm vị, nấu bằng hỉ nộ ái ố hận của nhân gian, tùy kiếp trước người sống ra sao thì canh sẽ có vị như vậy. Uống canh rồi người sẽ quên mọi việc từng trải trong kiếp rồi, để vào Luân Hồi Xa chuyển kiếp theo phán quyết của Diêm Vương. Đạo cô cầm chén canh, chưa cần đặt lên môi đã cảm nhận được vị đắng tê rần chốn lưỡi, nhưng trước khi uống canh, vẫn không quên hỏi Mạnh Bà một câu, “Loài hoa đỏ rực mọc bên bờ Vong Xuyên, rốt cục là gì, tiểu ngạ quỷ vì sao lại thấy cỏ xanh còn ta lại chẳng thấy?” Mạnh Bà ngẩng mặt nhìn đạo cô, thấy vẻ mặt điềm tĩnh của người này khi uống chén canh rất đắng, cho rằng đây cũng là một nữ tử thú vị, bèn nán lại kể đôi điều.

“Mọc bên bờ Vong Xuyên, gọi là hoa Bỉ Ngạn…”


Khi trời đất còn hỗn mang, Thiên Giới và Ma Giới vẫn còn chiến đấu với nhau không ngưng nghỉ để phân định thắng thua, coi ai mới xứng đáng là kẻ chi phối Nhân Giới, có một vị tướng trên Thiên Đình, tên gọi Vương Hoa. Vương Hoa vốn dĩ là dũng tướng chinh chiến bao trận mạc, lập được nhiều đại công, lại có lòng yêu thương một tiểu tiên nữ tên Phiên Nhi. Hoa vốn nghĩ một khi đã dẹp yên loạn ma, với những công trạng lập được, sẽ sớm xin Đế Thích Thiên cho phép kết duyên cùng Phiên Nhi. Nhưng không ngờ trong một lần yến tiệc, Tiên Tôn, chủ lãnh Tiên Quốc thấy được vẻ đẹp của Phiên Nhi mà đem lòng si mê, đưa ra điều kiện nếu Đế Thích Thiên tặng Phiên Nhi cho mình thì sẽ hết lòng phò trợ đại nghiệp diệt ma.

Đễ Thích Thiên lấy đại cuộc làm trọng, bèn gật đầu đồng ý. Phiên Nhi phận đã định đoạt nhưng lòng vẫn trọn bên Vương Hoa, bèn trái lệnh không gả cho Tiên Tôn, vì nghịch ý trời mà bị đày vào thiên lao. Vương Hoa nghe tin, bèn rời khỏi trận mạc về thiên đình, dùng sức của mình để cướp ngục dẫn Phiên Nhi cùng nhau bỏ trốn, nguyện làm uyên ương không thành tiên.

Bị bẽ mặt và tức giận, Đế Thích Thiên sai thiên binh vạn mã lùng đuổi đôi tình nhân từ thiên đình cho tới địa giới. Vương Hoa biết mình đã phạm phải tội lớn, trên trời dưới đất đều không còn chốn dung thân, bèn quyết cùng Phiên Nhi đồng thuận một phen xuống địa ngục tìm nơi lánh nạn. Cũng vì vậy mà chạy đến bờ Vong Xuyên, dùng phép thuật dung hóa hai người thành một loài hoa trắng, cánh mỏng manh, thân gầy mọc thẳng, trên thân là lá xanh quấn lấy đài hoa mà nâng đỡ, bảo vệ.

Đế Thích Thiên vốn quản việc trời, nhưng âm phủ lại thuộc quyền Diêm La Vương, nên dù có muốn điều binh vận mã đến nơi này cũng không phải phép, bèn coi như không đuổi cùng giết tận. Nhưng cơn bực tức trong lòng Đế Thích Thiên vẫn chưa nguôi ngoai, lại nhận ra Vương Hoa và Phiên Nhi giờ đã dung hòa thành hoa và lá, bèn dùng phép thuật của mình ban ra lời nguyền, rằng hai người muốn đồng sinh đồng tử sẽ cho toại nguyện, cứ giữ hình hài là cây hoa cùng lá xanh, hoa này ngàn năm mới nở một lần, mỗi lần hoa nở sẽ rực rỡ trong một ngàn năm, nhưng lúc đó lá tự khắc tàn, đến khi hoa tàn lá mới thắm xanh, hoa và lá đời đời kiếp kiếp không được tương phùng.


Vì mất đi chiến tướng là Vương Hoa, cộng thêm việc Tiên Tôn không đưa quân trợ giúp, nên cục diện trận chiến Thần-Ma thay đổi, kéo dài thêm cả ngàn năm sau đó, tử thương vô số kể. Câu chuyện về Vương Hoa và Phiên Nhi cũng được lưu truyền, kẻ tử trận nào xuống địa ngục, ngang bờ Vong Xuyên nhìn thấy cành hoa trắng đang nở hay thân cây xanh lá cũng đều oán hận, cho rằng vì mối tình si này mà sinh linh lầm than. Lại thêm nỗi nhung nhớ, sầu bi của Vương Hoa và Phiên Nhi không được tương kiến tích tụ vào hoa, thành ra hoa trắng cũng dần nhuốm màu đỏ máu, tuy rực rỡ nhưng lại đầy tang thương.

Đến khi không thể nhìn thấy trần gian mãi hỗn độn, Đức Phật lên tiếng cùng Tiên Tôn, mong rằng chư tiên phò trợ Đế Thích Thiên dẹp loạn, bình định chúng sanh. Tiên Tôn đến nay cũng đã nhận ra chỉ vì sự đam mê mỹ sắc và cố chấp của bản thân mà gây ra nhiều điều hại, bèn hết lòng chiến đấu chống lại ma quân. Hỗn chiến ma thần vì vậy mà chấm dứt, dù tử thương vô số nhưng cũng đã qua một cơn đại loạn.

Lại nói về đóa hoa đỏ nơi dòng Vong Xuyên.

Đến một ngày Đức Phật xuống địa ngục để thuyết pháp, mong giúp các vong hồn tử sĩ mau về cực lạc. Khi đang bờ Vong Xuyên, Đức Phật chợt thấy đóa hoa đỏ rực, vừa nhung nhớ vừa sầu bi, lòng cũng thấy lạ vì vốn dĩ chốn địa ngục không thể có loài thực vật nào sinh trưởng, bèn bước đến gần để nhìn cho rõ, nhờ vậy mà hiểu được huyền cơ, thấu được nỗi khổ lụy của đôi tình nhân đang hòa hồn hợp thể trong hình dáng hoa.

Đức Phật không nói gì, chỉ lặng lẽ cúi xuống đưa tay rút cả thân hoa lẫn gốc ra khỏi mặt đất rồi cất vào áo mình, tiếp đoạn cứ vậy mà đến thuyết pháp chốn âm ti. Đến khi đã xong việc, Đức Phật trở về nơi tu tập của mình là chốn Cực Lạc, mới lấy thân hoa từ trong áo ra. Kỳ lạ thay đóa hoa đỏ giờ đã thành màu trắng như thuở ban đầu, lúc Đức Phật đặt hoa xuống đất, hoa và lá cùng nở rộ, sắc đẹp thuần khiết, nguyên sơ. Là do khi vào Phật Quốc, là nơi thanh tịnh, cây hoa cũng vì vậy mà bỏ lại hết oán hận, sâu bi chất chứa cả ngàn năm hơn, nhờ đó mà lá hoa tương phùng, ngày ngày nghe lời giảng của Đức Phật mà tịnh tâm tu tập, lòng không còn vương vấn ái tình, tạp niệm. Đức Phật đặt cho cái tên gọi là hoa Mạn Đà La.

Chuyện chưa dừng ở đây, Địa Tạng Vương Bồ Tát, người từng thề rằng địa ngục chưa trống quyết không thành Phật, đi ngang Vong Xuyên, thấy hôm đó nước sông lại có màu rực đỏ. Bồ Tát bấm độn mới biết rằng sau khi Đức Phật lấy gốc hoa đi về Cực Lạc, thì oán khí sầu bi đã rơi lại xuống sông gây ra cớ sự. Bồ Tát cúi người, đưa tay xuống nước, cứ vậy vớt lên một ngụm nước đỏ như máu. Từ trên tay Bồ Tát, bỗng dưng nước lại tụ hình ra đóa hoa cũ, nhưng vẫn còn mang màu đỏ bi thương. Bồ Tát mỉm cười, cho rằng đây cũng là duyên số, ở Cực Lạc đã có hoa Mạn Đà La thì chốn âm ti đóa hoa này từ đây sẽ gọi là Mạn Châu Sa. Bồ Tát đặt hoa lại bên bờ Vong Xuyên, không bao lâu sau, hoa bắt đầu sinh trưởng và làm đỏ rực cả bờ sông.


Cả Mạn Đà La và Mạn Châu Sa đều là mọc bên kia bờ của âm ti và cực lạc, của lằn ranh sự sống và cái chết, vì vậy mà gọi chung bằng tên “Bỉ Ngạn” có nghĩa là “bên kia bờ”. Và từ đó cõi đời này có loài hoa mang tên Bỉ Ngạn, dù là trắng hay đỏ cũng đều là loài hoa ưu tư nhất thế gian.

* * *

Đạo cô nghe xong chuyện kể, đặt chén canh Mạnh Bà lại xuống bàn, cất giọng hỏi xin một ân huệ, “Có thể cho ta bước lại bờ Vong Xuyên, hái một đóa Bỉ Ngạn được không?” Mạnh Bà trầm tư hồi lâu rồi trả lời, “Có thể làm được, nhưng cũng là hoài công.”

Đạo cô quay lại Vong Xuyên, tiểu ngạ quỷ nhìn đạo cô rồi lánh đi nơi khác. Đạo cô hái hoa, giữ trong tay mình, đến khi đưa hoa lên nhìn lại chỉ thấy trong tay là một vũng nước đỏ quạch như máu, hoa đã không biết hóa đi đường nào. Đạo cô lại cúi xuống hái thêm đóa hoa khác, kết quả vẫn chỉ là giữ được một màu nước đỏ trong tay.

“Ta thấy cỏ xanh, người thấy huyết thủy, cũng là tâm chưa tịnh.” Ngạ quỷ nói xong lại cúi đầu nhặt cỏ.

Đạo cô giờ đã có thể uống hết chén canh Mạnh Bà rồi đi về phía Luân Hồi Xa, kết thúc một kiếp sầu bi đã quá dài.

* * *

Ngày tháng trôi đi, tiểu ngạ quỷ vẫn cần mẫn nhặt cỏ, cho đến một hôm, Mạnh Bà đến tìm, chỉ nói vỏn vẹn mấy chữ, “Thời khắc đến rồi.” Ngạ quỷ ngẩng đầu nhìn, người run rẩy không đáp lời, chỉ thấy sau đó vội chuyển mình biến thành một nữ nhânmang nét sầu vương trên gương mặt, rồi cứ vậy đứng dưới chân Nại Hà Kiều ngóng chờ.


Chưa đầy vài khắc sau, có bóng dáng một nam nhân xuất hiện. Nữ nhân lặng lẽ nhìn, nam nhân cũng dừng chân, thấy có người đang nhìn mình bèn gật đầu chào rồi bước đi tiếp, tuyệt không ngoảnh lại nhìn.

“Người đó không nhớ chút gì.” Nữ nhân buông tiếng thở dài, man mác buồn.

“Mạnh Bà Thang chưa bao giờ làm ta thất vọng. Đã xong việc, ngươi còn vương vấn gì không?” Mạnh Bà hỏi. Nữ nhân lắc đầu, rồi cứ vậy lặng lẽ đi theo Mạnh Bà về phía Uổng Tử Thành, chuyện của mấy mươi năm trước hiện về, như chỉ vừa mới hôm qua.

* * *

Nữ nhân tên gọi Nhị Tâm, cùng với nam nhân tên Lưu Khiết là đôi uyên ương mặn nồng. Khi còn bên nhau, có lần Nhị Tâm hỏi Lưu Khiết rằng yêu mình nhiều đến nhường nào, trong lúc cao hứng, Lưu Khiết đã nói nếu lỡ như sau này chết đi, xuống Hoàng Tuyền dù uống canh Mạnh Bà cũng nhất định không quên mối lương duyên này. Nào ngờ chuyện tốt không linh, xấu lại linh, năm đó trên đường lên kinh thành, họ Lưu gặp phải bất trắc, xảy chân người cùng ngựa rơi xuống vực sâu mà bỏ mạng.

Lúc đứng trước mặt Mạnh Bà, Lưu Khiết hỏi trong đau đớn, “Nhân gian hữu tình vì sao Mạnh Bà Thang lại là vong tình thang?” Mạnh Bà không lấy làm lạ trước những câu hỏi của người từng đứng trước mặt mình, nên chỉ lẳng lặng đưa chén canh mời. Lưu Khiết trước khi uống canh vẫn nhất mực cho rằng tình ái của mình là mãnh liệt, dù trải qua vạn kiếp vẫn vẹn khối tình si. Nói rồi uống cạn và vào vòng luân hồi chuyển kiếp.


Kiếp sau của Lưu Khiết sinh vào nhà một vị quan tri huyện, sinh thời đã là người thông mình, hiếu học, sau đó đến năm mười tám đôi mưới thì đỗ đạt Trạng nguyên, áo gấm về làng. Trên đường vinh quy bái tổ, lúc đi ngang một trấn nhỏ, người và ngựa vào một quán nước ven đường dừng chân nghỉ mệt. Chủ quán nước là một đại thẩm đã ngoài tứ thập. Tân trạng nguyên nhìn thấy đại thẩm bưng chén trà ra cho mình, không hiểu sao trong lòng lại có một thứ cảm giác vô cùng kỳ lạ, chẳng biết gọi là gì, chỉ biết có gì đó vấn vương, có gì đó ưu tư, phiền muộn. Nhưng rồi đến cuối cùng cũng chỉ có thể nhìn thêm một lúc rồi bái biệt, chuyện cũng chỉ dừng lại nơi đó. Nào đâu biết được đại thẩm kia chính là Nhị Tâm.

Lại nói về Nhị Tâm, dù tên Nhị Tâm nhưng lòng dạ trước sau như một, từ ngày Lưu Khiết mất đi vẫn giữ vẹn tiết trinh, không muốn gả cho bất kỳ ai khác. Phụ mẫu song thân khuyên giải thế nào cũng không được, thậm chí còn phải ngăn cản Nhị Tâm quyên sinh theo tình nhân. Đến khi đã không thể nói gì thêm được nữa, song thân của Nhị Tâm cũng bỏ mặc, coi như mình không có đứa con gái này. Không muốn ở lại chốn cũ nhớ người xưa, Nhị Tâm đến một trấn nhỏ cách xa nơi cũ rồi mở một quán trà nhỏ, giữ mình sống qua ngày. Duyên kiếp khéo đưa đẩy, nào ngờ lại được gặp hậu kiếp của Lưu Khiết tại nơi đây.

Không lâu sau đó, tiểu trấn xảy ra đại dịch, người chết rất nhiều, Nhị Tâm cũng không may qua đời, nhưng nghĩ lại thì kết thúc sinh mạng lúc này cũng đã là sự giải thoát. Khi đứng trước Mạnh Bà dưới âm ty, Nhị Tâm hỏi chuyện, “Trước đây, có phải có một nam nhân đã từng đứng trước mặt người và nói rằng dù uống Mạnh Bà Thang vẫn nhất quyết không quên ta không?” Mạnh bà gật đầu. Nhị Tâm bấy giờ lại cầu xin, “Vậy, có thể cho ta lưu lại nơi này, chờ đến khi người đó quay lại để hỏi một câu.” Mạnh Bà lắc đầu, “Âm ty không phải nơi muốn đến thì đến, đi thì đi, đúng giờ đúng khắc thì cô hồn phải chuyển kiếp đầu thai. Cứ nán lại đây thì sẽ thành ngạ quỷ, không chốn dung thân, Kết cục là sẽ bị giam cầm trong Uổng Tử Thành vĩnh viễn.

Nhị Tâm suy nghĩ một hồi, đoạn gật đầu đồng ý. Mạnh Bà dắt Nhị Tâm lên gặp Diêm La Vương để được toại nguyện, rồi chỉ một chốc sau đã biến thành tiểu ngạ quỷ. Mạnh Bà dắt ngạ quỷ đến bên bờ Vong Xuyên, bảo rằng hãy nhặt cỏ dưới gốc Bỉ Ngạn hoa. Ngạ quỷ ngoan ngoãn nghe theo rồi làm việc. Thực chất dưới chân Bỉ Ngạn hoa không hề có cỏ, chỉ là trong lòng ngạ quỷ muốn được ở lại nơi đây nên mới thấy cỏ xanh mà ngồi nhặt, chờ đợi đến ngày gặp lại cố nhân.


Thấm thoát đã mấy mươi năm trôi qua, hậu kiếp của Lưu Khiết cũng tạ thế mà đến âm ty trùng phùng.

* * *

“Ngươi nói có một câu muốn hỏi hắn, sao lại thôi?” Trên đường đến Uổng Tử Thành, Mạnh Bà hỏi Nhị Tâm.

“Nhìn ánh mắt của người đó, đã có đáp án.”

“Không tiếc nuối sao?”

“Để làm gì…” Đoạn nghĩ một lúc, lại cầu xin Mạnh Bà lần nữa. “Ta muốn nhờ người đó hái tặng một đóa Bỉ Ngạn, mong Mạnh Bà cho phép.” Mạnh Bà gật đầu phất tay.

Lưu Khiết vẫn còn đang đứng ở bờ Vong Xuyên, chuẩn bị đi lên Nại Hà Kiều, thấy nữ nhân ban nãy lại nhờ mình hái một đóa hoa cũng không nề hà mà làm theo. Khi hái hoa rồi cầm trên tay, bỗng dưng hoa từ đỏ chuyển thành màu trắng, lá cũng nở ra xanh ngắt. Lưu Khiết mỉm cười đưa cho nữ nhân kia, nào ngờ khi truyền tay hoa lại xảy ra dị tượng, lại biến thành một vũng nước đỏ rồi chảy qua kẽ tay và rơi xuống, chưa chạm đất đã biến thành khói sương.

“Có cần ta hái lại đóa khác cho cô nương?” Lưu Khiết hỏi.

Nữ nhân lặng lẽ lắc đầu rồi cáo biệt, lần này về Uổng Tử Thành thì bước vào đó, lòng tịnh không còn vương vấn gì.

Ái tình là gì, đau khổ cả một đời, nhung nhớ cả một đời, chờ đợi cả một kiếp, cuối cùng rồi cũng theo chén canh Mạnh Bà mà tan biến vào hư vô.

Hóa ra ái tình chỉ là mị ảnh, mỗi người nhìn ra một thứ khác nhau tùy vào cái ái tình trong lòng có còn được bao nhiêu, một người đã chẳng nhớ, một kẻ lại chẳng thể nào quên. Như hoa Bỉ Ngạn, trên tay kẻ vô tình thì nở ra trắng ngần, còn trên tay kẻ lụy tình lại biến thành huyết thủy. Cũng vì vậy mà Bỉ Ngạn hoa còn gọi là hoa của những hồi ức đau thương, nếu bỏ được thì về cực lạc, còn nếu không thì mãi mãi giam cầm chốn âm ty.


Nếu có dịp bước đến bờ Vong Xuyên, nhớ hái thử một đóa Bỉ Ngạn, để coi trên tay người là đóa hoa màu trắng hay đỏ như máu.

Bỉ ngạn hoa mọc nơi bờ sinh tử
Ngàn năm hoa nở, ngàn năm hoa tàn
Như kiếp người hợp hợp tan tan
Mạnh Bà Thang liệu có làm quên lãng…

Trích “Biên niên cô đơn” – Nguyễn Ngọc Thạch