I. “THẬP THÁNH” THEO XINHUA
1. Chí thánh Khổng Tử / Văn thánh Khổng Tử – 至圣孔子
Khổng Phu Tử hay Khổng Tử (28 tháng 9 năm 551 TCN – 11 tháng 4 năm 479 TCN) là một triết gia và chính trị gia người Trung Quốc, sinh sống vào thời Xuân Thu. Theo truyền thống, ông được xem là nhà hiền triết Trung Quốc mẫu mực nhất. Những lời dạy và triết lý của Khổng Tử đã hình thành nền tảng văn hóa Á Đông. Cho đến ngày nay, tư tưởng của Khổng Tử vẫn tiếp tục duy trì ảnh hướng khắp Trung Quốc cũng như các quốc gia Đông Á khác. Với những đóng góp và sức ảnh hưởng to lớn của mình, ông được tôn là Chí thánh Khổng Tử / Văn thánh Khổng Tử.
2. Á thánh Mạnh Tử – 亚圣孟子
Mạnh Tử (chữ Hán: 孟子; bính âm: Mèng Zǐ) (372 TCN – 289 TCN), sinh vào đời vua Liệt Vương, nhà Chu, nay là thành phố Trâu Thành, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Thời niên thiếu, Mạnh Tử làm môn sinh của Tử Tư, tức là Khổng Cấp, cháu nội của Khổng Tử. Vì vậy, ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ các tư tưởng Khổng giáo. Ông là triết gia Nho giáo Trung Quốc và là người tiếp nối Khổng Tử. Ông được xem là ông tổ thứ hai của Nho giáo và được hậu thế tôn làm “Á thánh Mạnh Tử” (chỉ đứng sau Khổng Tử).
3. Thi thánh Đỗ Phủ – 诗圣杜甫
Đỗ Phủ (712-770), tự Tử Mĩ là nhà thơ nổi bật thời kỳ nhà Đường. Ông quê ở huyện Củng, tỉnh Hà Nam, xuất thân trong gia đình có truyền thống Nho học và thơ ca lâu đời. Lý Bạch, Đỗ Phủ được coi là hai nhà thơ vĩ đại nhất của lịch sử văn học Trung Quốc. Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực, hiện còn 1.500 bài thơ được lưu giữ. Thơ ông là bức tranh hiện thực sinh động và chân xác đến mức được gọi là thi sử (lịch sử bằng thơ). Giọng thơ Đỗ Phủ trầm uất, nghẹn ngào, chan chứa tình yêu nước và tinh thần nhân đạo. Đó cũng là niềm đồng cảm với nhân dân trong khổ nạn. Ông sành tất cả thể loại thơ nhưng đặc biệt thành công ở thể luật thi. Với nhân cách cao thượng, tài năng nghệ thuật trác việt, Đỗ Phủ được mệnh danh là “Thi thánh”.
4. Thảo thánh Trương Húc – 草圣张旭
Một tác phẩm của Trương Húc
Trương Húc (張旭, khoảng 658 – 747), tên chữ Bá Cao (伯高) là người Tô Châu, tỉnh Giang Tô, Trung Quốc. Trong thời Khai Nguyên, đời vua Đường Huyền Tông, Trương Húc làm quan đến Thường thục úy, về sau thăng đến Hữu suất phủ trưởng Sử (右率府長史), nên còn được gọi là Trương trưởng sử. Ông cùng với Hạ Tri Chương, Trương Nhược Hư và Bao Dung được người đương thời liệt vào “Ngô trung tứ sĩ” (Bốn danh sĩ đất Ngô). Ngoài tài thơ, hay rượu, Trương Húc còn là một nhà thư pháp nổi tiếng. Đặc biệt ông giỏi “cuồng thảo” (狂草), là một trong nhiều hình thức viết chữ trong nghệ thuật thư pháp, do vậy ông được người đời sau xưng là “thảo thánh”. Do vậy, ông và Hoài Tố – người cùng thời, được người đời xưng tụng là “cuồng thảo nhị tuyệt” (狂草二絕: hai bậc tuyệt đỉnh về cuồng thảo) và “Điên Trương tuý Tố” (顛張醉素: Trương Húc điên, Hoài Tố say). Tương truyền, ông đã lấy cảm hứng từ những màn múa kiếm của Công Tôn Đại Nương rồi đưa vào phong cách viết đặc biệt của mình.
5. Tửu thánh Đỗ Khang – 酒圣杜康
Đỗ Khang còn được gọi là Thiếu Khang, sống vào cuối thời Tây Chu, tương truyền là người phát minh ra cách nấu rượu ở Trung Quốc. Ông được những người nấu rượu, bán rượu thờ là ông tổ của nghề rượu, được nhân dân Trung Quốc tôn xưng là Tửu thần, Tửu thánh. Ông là một trong mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. Trong các sách cổ như Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đời Hán, Bát vật chí của Trương Hoa đời Tấn, Sự vật ký nguyên của Cao Thành đời Tống… đều ghi chép Đỗ Khang là người phát minh ra cách nấu rượu, song không có sách nào ghi rõ lai lịch của ông.
6. Thư thánh Vương Hi Chi – 书圣王羲之
Vương Hi Chi (chữ Hán: 王羲之; 303 – 361[1][2]), tự Dật Thiếu (逸少), hiệu Đạm Trai (澹斋), là nhà thư pháp nổi tiếng thời Đông Tấn trong lịch sử Trung Quốc. Ông là nhà thư pháp nổi tiếng nhất trong lịch sử Trung Quốc. Tương truyền, trước khi thành danh, Vương Hi Chi rất khâm phục bút pháp Công Khải thư của Chương Thảo mà nhiều người cho rằng kỳ diệu nhất khi đó. Ông đi chu du nhiều nơi, gặp các nhà thư pháp nổi tiếng khi đó như Lý Tư, Chung Dao, Trương Sưởng, Trương Chi,… thay đổi dần những hạn chế của mình và tiếp thu những tinh hoa của những người đi trước. Trong số những người đã gặp, ông học được nhiều nhất ở Chung Dao và Trương Chi. Tiếp thu từ Chung Dao – người được coi là ông tổ của cách viết chữ Khải – Vương Hi Chi lược bớt những tồn tại của chữ Lệ, “thêm bớt xương thịt”, nhấn mạnh vào nhuận sắc và “uyển thái nghiên hoa”. Cách viết của Vương Hi Chi đã tạo ra một thể độc lập, khiến mọi người cho rằng thư pháp thời trước ông đều phế bỏ, thư pháp hiện tại do ông sáng lập. Mọi người ca ngợi thư pháp của ông vừa “phiêu nhược phù vân” (tức lơ lửng như mây), lại “kiểu nhược kinh long” (tức mạnh mẽ như rồng), đồng thời cũngcông nhận ông là “nhà hiền triết” của thư pháp.
7. Hoạ thánh Ngô Đạo Tử – 画圣吴道子
Bức họa của Ngô Đạo Tử
Bức hoạ của Ngô Đạo Tử Ngô Đạo Tử (chữ Hán: 吴道子; 685-758) là họa sĩ lớn của Trung Quốc thời nhà Đường, người Dương Cù thuộc huyện Vũ, Hà Nam, Trung Quốc. Sinh ra trong thời thịnh thế của Nhà Đường (618-907), vị họa sĩ này bắt đầu bước đường công danh của mình với vai trò là thợ thủ công bình thường, nhưng dần dần được mệnh danh là “họa thánh.” Với tài năng vang dội, Ngô Đạo Tử được triệu vào hoàng cung để phụng sự cho hoàng đế và còn vẽ hàng trăm bức bích họa cho các tu viện Phật giáo và Đạo giáo. Bức tranh “Tống tử Thiên vương đồ” là tác phẩm hội họa duy nhất của Ngô Đạo Tử còn tồn tại tới ngày nay. Bức tranh miêu tả cảnh Phật Thích ca mâu ni ra đời, được phụ thân Tịnh Phan vương ôm đến thái miếu để chư thần làm lễ. Bức tranh rộng lớn, bút mực thanh thoát, khắc họa nhân vật rất tinh tế. Ngô Đạo Tử đã thay đổi phương pháp cân bằng đường nét, sử dụng phương pháp tương phản: nặng – nhẹ, đậm – nhạt thể hiện, gọi là”thuần thái điều”.
8. Y thánh Trương Trọng Cảnh – 医圣张仲景
Trương Cơ (giản thể: 张机; bính âm: Zhāng Jī, sinh khoảng năm 150, mất khoảng năm 219) tự Trọng Cảnh (tiếng Trung: 仲 景; bính âm: Zhōngjǐng) là một thầy thuốc Trung Quốc hoạt động vào cuối đời Đông Hán. Ông được coi là một trong những nhân vật quan trọng nhất của lịch sử Đông y và là một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc vì những đóng góp mang tính hệ thống về cả lý luận và thực nghiệm.
Tác phẩm quan trọng nhất của ông là “Thương hàn tạp bệnh luận”. Tuy đã thất lạc trong giai đoạn Tam Quốc nhưng sau đó đã được tổng hợp lại thành hai tập sách “Thương hàn luận” và “”Kim quỹ yếu lược“”. Đây là hai trong bốn bộ sách quan trọng nhất của Đông y, đặt nền móng cho liệu pháp Đông y nên các thế hệ sau này kính trọng và gọi ông là “Nhà hiền triết y học”.
9. Dược thánh Tôn Tư Mạc – 药圣孙思邈
Tôn Tư Mạc (581 – 682) được người đời tôn xưng là Dược Vương và Tôn Thiên Y, Ông là ngươi đời Tùy Đường, Kinh Triệu, Hoa Nguyên (nay là Thiểm Tây, Điệu Huyện), là nhà y dược học trứ danh. Cuốn sách “Thiên Kim Yếu Phương” của ông là bộ bách khoa toàn thư y học sớm nhất của Trung Quốc. Cuốn sách có đầy đủ lý thuyết, triệu chứng, đơn thuốc chữa bệnh từ lý thuyết cơ bản đến các chủ đề lâm sàng. Cuốn sách được đánh giá là một kho tàng y học cổ truyền Trung Quốc trị giá hàng nghìn đô la. Vì vậy, người đời sau gọi ông là “Vua thuốc”, “Dược thánh”,… Ngoài ra, ông cũng là người áp dụng khí công trong thuật dưỡng sinh.
10. Trà thánh Lục Vũ – 茶圣陆羽
Lục Vũ (733 – 804), tự là Hồng Tiệm (季疵), xưng Tang Trữ Ông, tên hiệu khác là Cảnh Lăng Tử, Đông Cương Tử, Trà Sơn Ngự Sử. Ông còn có tên khác là Tật, hiệu Quý Tì. Người Cảnh Lăng, Phức Châu thời nhà Đường (nay là thành phố Thiên Môn, tỉnh Hồ Bắc, Trung Quốc). Ông là người có kinh nghiệm sống phong phú, học vấn sâu rộng, có nhiều sáng tạo trong các lĩnh vực Văn học, Lịch sử, Kí kịch, Âm vận, Phương chí, Thư pháp…Tuy nhiên, ảnh hưởng được người đời sau nói đến nhiều nhất của ông lại là nghiên cứu về trà. Ông suốt đời yêu thích trà, đã viết cuốn sách chuyên nghiên cứu về trà là: Trà Kinh đây là bộ sách lý luận Trà học chuyên môn đầu tiên trên thế giới. Lục Vũ được người đời sau tôn lên là Trà thánh, đó là một trong mười vị thánh trong lịch sử Trung Hoa.
II. “THẬP THÁNH” THEO BÌNH CHỌN KHÁC
Ngoài Văn Thánh Khổng Tử, Y Thánh Trương Trọng Cảnh, Thư Thánh Vương Hi Chi, Họa Thánh Ngô Đạo Tử, Thi Thánh Đỗ Phủ, Trà Thánh Lục Vũ, Tửu Thánh Đỗ Khang, người Trung Quốc còn cho rằng “thập thánh” phải gồm những danh nhân
11. Binh thánh Tôn Vũ/ Tôn Tử – 兵圣孙武
Tôn Vũ (545 TCN – 470 TCN) (giản thể: 孙武; phồn thể: 孫武; bính âm: Sūn Wǔ) tên chữ là Trường Khanh, là một danh tướng kiệt xuất của nước Ngô ở cuối thời Xuân Thu, nhờ cuốn binh thư của mình mà được tôn là Tôn Tử, lại bởi hoạt động chủ yếu ở nước Ngô, nên được gọi là Ngô Tôn Tử để phân biệt với Tôn Tẫn (Tề Tôn Tử là người nước Tề ở thời Chiến Quốc). Ông là một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc.
12. Sử thánh Tư Mã Thiên – 史圣司马迁
Tư Mã Thiên (Tiếng Trung: 司马迁) sinh vào khoảng năm 145 trước Công nguyên vào thời nhà Hán (漢朝) (206 TCN–220 SCN). Ông được xem là sử gia đầu tiên và vĩ đại nhất của Trung Hoa với tác phẩm đồ sộ “Sử Ký” (史記) (hay còn gọi là “Thái Sử Công Thư” (tức “Sách của quan Thái Sử)) – một bộ thông sử Trung Quốc viết theo phong cách Thể kỷ truyện.
Không chỉ là bộ thông sử đầu tiên được biết đến ở Trung Quốc cổ đại, “Sử ký” còn đóng vai trò như một khuôn mẫu cho việc ghi chép chính sử của các triều đại Trung Quốc tiếp theo và trên toàn vùng văn hóa chữ Hán (gồm cả các quốc gia Hàn Quốc, Việt Nam, Nhật Bản) mãi đến tận thế kỉ 20.
13. Võ thánh Quan Vũ – 武圣关羽
Quan Vũ (chữ Hán: 關羽, bính âm: Guān Yǔ, 158?–220), hay còn gọi là Quan Công, tự Vân Trường (雲長), là một vị tướng nổi tiếng thời kỳ cuối nhà Đông Hán và thời Tam Quốc ở Trung Quốc.
Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng Quan Công (關公) đã được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy, tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng,… và sau này là phim ảnh, với những chiến tích (cả có thật lẫn hư cấu) và phẩm chất đạo đức được đề cao.
Hơn 500 năm sau khi chết, vào năm 782, Quan Vũ được Đường Đức Tông đưa vào Võ miếu, nơi thờ cúng các danh tướng trong lịch sử; sau đó lại được các hoàng đế nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh phong tước, phong đế, được thờ cúng ở nhiều nơi. Nhờ Thanh Thái Tổ là người hâm mộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa,[6] vào thế kỷ 17 ông được các hoàng đế nhà Thanh (1636–1912) tôn vinh là Võ thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cũng là vị võ tướng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc có 1 điện thờ riêng tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng tài năng và tận trung nhất qua các triều đại), và phần lớn các võ miếu ở các làng xã Trung Quốc đều có tượng thờ ông với hình mẫu là mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố.
14. Mưu thánh Trương Lương – 谋圣张良
Là một trong những nhân vật lịch sử của Trung Quốc được biết đến nhiều nhất ở khu vực Đông Á, hình tượng Quan Công (關公) đã được thần thánh hóa trong các câu chuyện dân gian, bắt đầu từ thời kỳ nhà Tùy, tiểu thuyết hóa trong Tam quốc diễn nghĩa của La Quán Trung, được khắc họa trong các dạng hình nghệ thuật như kịch, chèo, tuồng,… và sau này là phim ảnh, với những chiến tích (cả có thật lẫn hư cấu) và phẩm chất đạo đức được đề cao.
Hơn 500 năm sau khi chết, vào năm 782, Quan Vũ được Đường Đức Tông đưa vào Võ miếu, nơi thờ cúng các danh tướng trong lịch sử; sau đó lại được các hoàng đế nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, nhà Thanh phong tước, phong đế, được thờ cúng ở nhiều nơi. Nhờ Thanh Thái Tổ là người hâm mộ tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa,[6] vào thế kỷ 17 ông được các hoàng đế nhà Thanh (1636–1912) tôn vinh là Võ thánh, một trong Mười vị thánh trong lịch sử Trung Quốc. Ông cũng là vị võ tướng duy nhất trong lịch sử Trung Quốc có 1 điện thờ riêng tại Đế vương miếu (được nhà Minh, nhà Thanh xây dựng, trong đó thờ những vị quan văn, võ tướng tài năng và tận trung nhất qua các triều đại), và phần lớn các võ miếu ở các làng xã Trung Quốc đều có tượng thờ ông với hình mẫu là mặt đỏ, râu dài, tay cầm cây thanh long yển nguyệt đao và/hoặc cưỡi ngựa xích thố.
14. Mưu thánh Trương Lương – 谋圣张良
Trương Lương (chữ Hán: 張良; trước 250 TCN – 186 TCN), biểu tự Tử Phòng (子房), là danh thần khai quốc nổi tiếng thời nhà Hán.
Ông cùng với Hàn Tín, Tiêu Hà được người đời xưng tụng là Hán sơ Tam kiệt (漢初三傑), đóng vai trò quan trọng giúp Lưu Bang đánh đổ nhà Tần và thắng Hạng Vũ trong chiến tranh Hán Sở sáng lập ra nhà Hán trong lịch sử Trung Quốc.
Ông thường được xếp vào hàng ngũ 10 đại quân sư kiệt xuất nhất trong lịch sử phong kiến Trung Quốc, đứng thứ 4 sau Khương Tử Nha, Tôn Tử, Tôn Tẫn và đứng trên các bậc quân sư kiệt xuất khác như Gia Cát Lượng, Lưu Bá Ôn. Vì thế, hậu nhân gọi ông là Mưu thánh (謀聖).
Theo: Tiếng Trung Nguyên Khôi













