Saturday, August 2, 2025

TÂY TẠNG TRUNG QUỐC CÓ GÌ?

Tây Tạng là một trong những khu tự trị của Trung Quốc. Nằm trên cao nguyên Thanh Tạng được mệnh danh là “nóc nhà của thế giới” với độ cao trung bình trên 4.000m so mực nước biển, Tây Tạng vẫn luôn chứa đựng nhiều điều kỳ bí khiến bất cứ ai tìm hiểu cũng muốn đến nơi đây. Cùng du học VIMISS khám phá xem Tây Tạng Trung Quốc có gì nhé!


1. Tổng quan về Tây Tạng

Về vị trí địa lý

Tây Tạng giáp tỉnh Thanh Hải , tỉnh Tứ Xuyên , tỉnh Vân Nam và Khu tự trị Tân Cương ở phía đông và phía bắc, và giáp Myanmar , Ấn Độ , Bhutan , Nepal và các quốc gia khác ở phía tây và nam. Thủ phủ là thành phố Lhasa.

Tây Tạng là một phần của cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng; Cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng có diện tích 2,5 triệu km2, chiếm 1/4 tổng diện tích của Trung Quốc, có độ cao trung bình hơn 4.000 mét so với mực nước biển. Cao nguyên Tây Tạng nằm trong khu vực chính của cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng.

Về kinh tế

Du lịch đã giúp kinh tế Tây Tạng có nhiều bước nhảy vọt

Người Tây Tạng theo truyền thống phụ thuộc vào nông nghiệp để sinh tồn. Tuy nhiên, kể từ những năm 1980, các công việc khác như lái xe taxi và bán lẻ khách sạn đã trở nên khả dụng sau cải cách kinh tế của Trung Quốc .

Ngoài nông nghiệp truyền thống và chăn nuôi, việc khai thác du lịch đã đem lại GDP của khu vực tăng lên đáng kể.

Về khí hậu

Khí hậu của Tây Tạng rất độc đáo, phức tạp và đa dạng do ảnh hưởng của địa hình và hoàn lưu khí quyển. Khí hậu lạnh và khô ở phía Tây Bắc và ấm áp và ẩm ướt ở phía Đông Nam.

Vì vậy, các kiểu khí hậu từ đông nam đến tây bắc là: nhiệt đới, cận nhiệt đới, ôn đới cao nguyên, vùng cận lạnh cao nguyên , vùng băng giá cao nguyên và các kiểu khí hậu khác.

Ở khu vực núi cao và hẻm núi ở phía đông nam Tây Tạng và sườn phía nam của dãy Himalaya, khi địa hình càng lên cao, nhiệt độ càng giảm dần, khí hậu thay đổi theo chiều dọc từ khí hậu nhiệt đới hoặc cận nhiệt đới sang vùng ôn đới, vùng ôn đới lạnh và khí hậu vùng băng giá.

Cao nguyên Tây Tạng rộng lớn và giàu năng lượng, đặc biệt là năng lượng mặt trời, thủy điện và năng lượng địa nhiệt. Tây Tạng có nguồn năng lượng mặt trời dồi dào nhất Trung Quốc . Lhasa được mệnh danh là "Thành phố Ánh nắng" vì nơi đây nhận được hơn 3.000 giờ nắng mỗi năm.

Về tôn giáo

Tây Tạng là thánh địa của Phật giáo Mật Tông, khởi nguồn từ thế kỷ thứ VII sau Công nguyên do Songtsen Gampo, vị Tán phổ (quốc vương) là người đầu tiên đem Phật giáo đến Tây Tạng. Cùng với việc kết hôn cùng công chúa Văn Thành của nhà Đường và công chúa Bhrikuti Devi của Nepal, những người đã mang đến tượng Phật và nhiều kinh sách làm của hồi môn.

Tây Tạng với những sinh hoạt văn hóa kỳ bí

Giữa thế kỷ thứ VII, Songtsen Gampo cho xây dựng cung điện Potala và hai ngôi chùa Đại Chiêu (Jokhang) và Tiểu Chiêu (Ramoche) ở Lhasa. Đây là nơi thờ cúng chính thức, bên cạnh đó người dân có thể đến hành hương, lễ bái. Ngoài ra ông còn cử người sang Ấn Độ học Phật pháp, biên dịch kinh sách.

Tây Tạng có 4 tông phái Mật Tông chính là:
  • Phái Cổ Mật hay Cựu phái (Nyingmapa, Ninh mã phái)
  • Phái Kagyu (Ca-nhĩ-cư phái)
  • Phái Sakya (Tát-ca phái)
  • Phái Hoàng Mạo (Guelugpa, Cách-lỗ phái)
Sinh hoạt tôn giáo nơi đây với nhiều nghi lễ phức tạp và biểu tượng huyền bí, trong đó nổi bật nhất là việc truyền thừa qua hình thức tái sinh của Phật sống.

Tôn giáo là một niềm tin, niềm tự hào của người dân Tây Tạng. Nếu đi du lịch đến đây, bạn nên tìm hiểu về đời sống văn hóa, tôn giáo của người dân như mặc trang phục kín đáo khi đến các tu viện, không chỉ tay hay vỗ đầu bất cứ ai. để biết thêm về cuộc sống đa sắc màu nơi đây.

Về văn hóa


Người dân Tây Tạng có lối sống du mục trên khắp các thảo nguyên. Những ngôi nhà truyền thống ở Tây Tạng rất nhiều màu sắc, bao gồm không chỉ những chiếc lều có thể di chuyển đi bất cứ đâu mà còn cả những ngôi nhà có công trình dân dụng cố định, tháp canh bằng đá, những tòa nhà bằng tre hoặc gỗ và thậm chí cả những ngôi nhà trong hang động.

Sắc màu sặc sỡ tại Tây Tạng

Về ngôn ngữ

Tiếng Tây Tạng được dạy ở một số trường nhưng tại hệ thống giáo dục tiểu học và trung học được dạy chủ yếu bằng tiếng Quan thoại, tiếng Tây Tạng chỉ là ngôn ngữ thứ hai. Kỳ thi tuyển sinh vào các trường đại học là bằng tiếng Trung Quốc.

2. Các địa danh du lịch nổi tiếng Tây Tạng

Cung điện Potala


Cung điện Potala là cung điện mùa đông của Đức Đạt Lai Lạt Ma từ năm 1649 đến năm 1959, đã trở thành bảo tàng kể từ đó và là Di sản Thế giới từ năm 1994. Cung điện được đặt tên theo Núi Potalaka , nơi ở huyền thoại của Bồ tát Quán Thế Âm.

Cung điện Potala lưu trữ 698 bức tranh tường, gần 10.000 cuộn tranh cùng nhiều tác phẩm điêu khắc và một bộ sưu tập tài liệu lịch sử quan trọng.

Nơi đây cũng chứa đựng nhiều hiện vật về Phật giáo như kinh sách Phật giáo, đồ cổ Trung Hoa và những món quà tặng cho các nhân vật tôn giáo bởi các quan chức và hoàng đế.

Chùa Đại Chiêu


Chùa Đại Chiêu là một trong những ngôi chùa Phật giáo Mật Tông Tạng truyền, ở quảng trường Bát Giác thuộc trung tâm phố cổ Lhasa. Đối với người dân Tây Tạng, chùa Đại Chiêu là ngôi đền linh thiêng và quan trọng, là cõi Phật giữa dương thế, là địa hành hương đông đảo nhất tại Lhasa.

Đến đây bạn có thể chiêm ngưỡng những sắc màu văn hóa đa dạng của miền đất chư thiên luôn hiện diện rõ nét, sống động, thu hút mang đậm sắc màu tâm linh huyền bí, cùng những tâm hồn sùng kính hết mực.

Tu viện Tashilhunpo


Tu viện Tashilhunpo Tây Tạng tọa lạc trên sườn phía nam của núi Nyiseri ở phía tây của thành phố Shigatse, thành phố lớn thứ hai ở Tây Tạng.

Tu viện được xây dựng vào năm 1447 bởi Gedun Drub , đệ tử của triết gia Phật giáo nổi tiếng Je Tsongkhapa, sau này được đặt tên là Đức Đạt Lai Lạt Ma thứ nhất. Là tu viện lớn nhất ở khu vực Tsang cũng như là nơi ở truyền thống của các vị Ban Thiền Lạt Ma kế tiếp, dòng tulku cấp cao thứ hai trong truyền thống Gelug của Phật giáo Tây Tạng.

Tu viện là nơi trưng bày Tượng Phật Jampa bằng đồng cao nhất và lớn nhất thế giới. Phật Jampa trong Phật giáo Tây Tạng là Phật Di Lặc trong Phật giáo Trung Quốc, người cai quản tương lai. Tượng Phật này cao 26,2 mét. Ngồi trên tòa sen cao 3,5 mét, ngài nhìn xuống toàn bộ tu viện. Tượng Phật được trang trí bằng hơn 1.400 đồ trang sức quý giá như ngọc trai, kim cương và san hô. Theo ghi chép, tượng Phật được đúc bởi 110 nghệ nhân trong bốn năm.

Một số lưu ý khi đi du lịch tại Tây Tạng
  • Uống thuốc chống sốc độ cao: Bạn sẽ dễ bị thiếu oxy do càng lên cao, không khí càng loãng, đặc biệt cần lưu ý uống ít nhất 2,5-3 lít nước/ngày để lưu thông khí huyết.
  • Đem bình oxy mini
  • Trang bị đầy đủ kem chống nắng
  • Mặc nhiều lớp quần áo vì nhiệt độ chênh lệch cao
  • Mang các loại thuốc về giảm đau, thuốc mỏi vai cổ, nước muối loãng để nhỏ mũi...
3. Ẩm thực Tây Tạng

Ẩm thực dựa vào nguyên liệu của cuộc sống du mục

Thịt và các sản phẩm từ sữa chiếm phần lớn trong chế độ ăn hàng ngày của người dân sống ở vùng cao nguyên Thanh Hải-Tây Tạng lạnh giá khắc nghiệt, giúp người dân chống chọi với điều kiện khí hậu khắc nghiệt.

Hương vị của món ăn Tây Tạng nhẹ nhàng, ngoại trừ muối, hành và tỏi, nhiều món ăn nhìn chung không sử dụng gia vị cay. Khi nói đến việc ăn thịt, người Tây Tạng có nhiều điều cấm kỵ. Nói chung chỉ ăn thịt bò và thịt cừu. Không ăn thịt ngựa, lừa, la, đặc biệt là thịt chó.

Bơ , trà , tsampa , thịt được mệnh danh là tứ bảo trong chế độ ăn uống của người dân Tây Tạng. Ngoài ra, còn có rượu lúa mạch vùng cao và các sản phẩm từ sữa khác nhau.

Rượu lúa mạch

Rượu lúa mạch vùng cao ở Khu tự trị Tây Tạng được ủ trực tiếp từ lúa mạch vùng cao và có nồng độ cồn thấp. Người Tây Tạng, cả nam lẫn nữ, già trẻ đều thích uống, là thứ không thể thiếu trong các dịp lễ hội.

Trà bơ là đồ uống người Tây Tạng luôn dùng để mời khách

Trà bơ là thức uống không thể thiếu của người Tây Tạng ở Khu tự trị Tây Tạng. Gồm có bơ, muối và trà. Bơ được làm từ ​​sữa bò và sữa dê là ngon nhất. Bơ vàng chiết xuất từ ​​sữa bò vào mùa hè là ngon nhất, còn bơ chiết xuất từ ​​sữa dê có màu trắng tinh khiết.

Du lịch Tây Tạng sẽ đem lại cho bạn hành trình đi trên "chuyến tàu cao nhất thế giới" hay trải nghiệm văn hóa tôn giáo với những trang phục truyền thống đầy sắc màu của người dân bản địa.

Theo: vimiss.vn



Friday, August 1, 2025

NGƯỜI ĐI KHU CHIẾN THƯƠNG NGƯỜI HẬU PHƯƠNG

Năm đó tôi chưa đọc thông viết thạo nhưng tôi biết nước tôi lần đầu có Tổng Thống. Miền Nam khi ấy hào hứng xây dựng cuộc sống mới. Trong làng, những ngôi nhà tranh bị Tây đốt được xây lại, lợp ngói dù vách vẫn là vách đất.


Mỗi nhà được phát treo trên vách một tấm ảnh Tổng Thống Ngô Đình Diệm. Tôi vẫn ấn tượng với hình ảnh một vị tổng thống vừa uy nghi vừa hiền hậu, mặc áo vest, trên mặt có một nốt ruồi. Không khí thanh bình làm mọi người yên tâm trông chờ vào một ngày mai tốt đẹp.

Trung thu năm ấy, Quận có mở một cuộc thi hát cho học sinh tiểu học. Tôi được trường chọn làm thí sinh tham gia cuộc thi. Cậu tôi mà cũng là ông bầu của tôi tập cho tôi hát bài Chiều Mưa Biên Giới của nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Tôi chưa hiểu lắm về lời ca. Những chữ như “khu chiến, hậu phương, sa trường, khanh tướng…” lần đầu trong đời tôi được biết. Nhưng với sự kiên trì của cậu và “tài năng” của cháu, tôi đã thuộc lòng bài hát và đoạt giải ba. Thực ra hồi đó trẻ em rất nhút nhát đâu biết hát hò gì và đâu phải nhà nào cũng có ông cậu biết đàn mandolin như cậu tôi, nên tôi đã ăn may.

Nhưng cũng từ đó tôi rất thích những ca khúc của Nguyễn Văn Đông. Ở miền Nam thuở ấy, nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông rất nổi tiếng. Tuy nhiên người ta ngưỡng mộ ông vì ông là tác giả ca khúc Chiều Mưa Biên Giới chứ ít ai biết ông là Đại Tá trong quân đội Việt Nam Cộng Hòa. Có lẽ vì người ta chưa bao giờ nhìn thấy hình ảnh ông mang lon đại tá, ngồi xe jeep, mà chỉ thấy hình ông ngồi bên ba lô nón sắt như một anh lính bình thường. Chắc ông chẳng cao sang gì vì nhạc ông hay nhắc tới “nhà tranh”:

“Ngồi ngắm mấy nóc chòi canh
Mơ rằng đây mái nhà tranh”


(Phiên Gác Đêm Xuân)


hay

“Nơi xưa quê nghèo
Nhà tranh nát tiêu điều
Tình xưa khôn hàn gắn”


(Về Mái Nhà Xưa).

Một hôm, bọn học trò chúng tôi kinh hoàng nghe tin vị Tổng Thống mà chúng tôi thường suy tôn là “Ngô tổng Thống, Ngô Tổng Thống muôn năm” đã bị bắn chết. Mẹ tôi khóc. Mẹ tôi rất kính trọng Tổng Thống.

Sau một thời gian ngắn ngủi yên bình, miền Nam Việt Nam lại bước vào một giai đoạn bất ổn và đối mặt với một cuộc chiến tàn khốc. Một lớp nhà văn nhà thơ trẻ sôi nổi, thao thức với thời cuộc thay thế cho các văn thi sĩ của thế hệ trước như Đinh Hùng, Vũ Hoàng Chương, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Phiến… viết lên những bi kịch nóng hổi của chiến tranh.

Những ca khúc êm ái như Chiều Tím, Ngàn Năm Mây Bay, Hoa Xoan Bên Thềm Cũ, Phố Chiều… bị lực lượng các nhạc sĩ trẻ lấn át bằng những ca khúc rất gần với súng đạn. Nỗi đau đớn về chết chóc, chia lìa, tuyệt vọng trong ca khúc của Trúc Phương, Nhật Ngân, Trầm Tử Thiêng, Trịnh Công Sơn… hiện diện khắp nơi

Lạ thay, nhạc sĩ đại tá Nguyễn Văn Đông trước sao, sau vậy. Ca khúc của ông luôn chan chứa tình yêu nước nhưng không bi lụy mà rất bình tĩnh, hy vọng vào một ngày mai tươi sáng.

“Còn đây đêm cuối cùng
Nhìn em muốn nói chuyện người Kinh Kha
Ngại khơi nước mắt, nhạt nhòa môi em
Người đi giúp núi sông…
Hàng hàng lớp lớp chưa về
Người người nối tiếp câu thề
Giành lấy quê hương.”


(Khúc Tình Ca Hàng Hàng Lớp Lớp)


Có lẽ chính vì nét hiền lành, giản dị trong ý nhạc mà người hát hay nhất nhạc của Nguyễn Văn Đông là giọng ca trong sáng Hà Thanh. Tuy nhiên không phải dễ để hát ca khúc Nguyễn Văn Đông, bởi nhạc của ông rất đặc biệt khi luôn đẩy lên các nốt cao. Khánh Ly, Lệ Thu, Lê Uyên giọng trầm không hợp chút nào. Thái Thanh giọng cao nhưng lảnh lót, điêu luyện quá, không xong. Thanh Tuyền, Hoàng Oanh, theo ý riêng của tôi quá mộc mạc. Mà nhạc Nguyễn Văn Đông tuy giản dị nhưng… sang. (thời đó không ai gọi nhạc Nguyễn Văn Đông là nhạc sến)

Chỉ có giọng Hà Thanh vừa dịu dàng, hiền hậu lại cao và… sang rất hợp với tâm tình của tác giả, một người vừa lãng mạn vừa… nghiêm chỉnh:

Bao ước mơ giữa khung trời phiêu lãng,
Chờ mùa Xuân tươi sáng, nhưng mùa thắm chưa sang
Anh đến đây, rồi anh như bóng mây,
Chốn phương trời ấm lạnh hòa chung mái nhà tranh


(Mấy Dặm Sơn Khê)

Là một đại tá nhưng Nguyễn Văn Đông chưa một lời hô hào “nhắm thẳng quân thù mà bắn”.

Thật cảm động khi nghe ông trăn trở:

“Mong sao nước Việt đời đời
Anh dũng oai hùng chen chân thế giới”


(Hải Ngoại Thương Ca)

Vậy mà ông đã bị cầm tù mười năm. Ông chỉ được ra tù khi xác thân tàn tạ, chờ chết.

Ông từng kể lại, trên bước đường lê lết trở về mái nhà xưa, không ai nhìn ra ông già rách rưới tiều tụy kia chính là nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông. Có lẽ vì nghĩ mình không còn sống được lâu, ông muốn được chết ở quê nhà và không làm thủ tục ra đi theo diện HO.

Nhạc sĩ Nguyễn Văn Đông năm 1964

Nguyễn Văn Đông mất năm 2018. Hôm đưa tang ông, có một người nào đó mang kèn đến thổi “Chiều mưa biên giới anh đi về đâu….” và trong dòng người tiễn đưa, các đồng đội, các cựu binh xuất thân từ trường Thiếu Sinh Quân nghiêm chỉnh đưa tay lên trán chào vĩnh biệt cố đại tá.

Nguyễn Văn Đông, người hiền của miền Nam Việt Nam đã ra đi, vĩnh biệt mọi người, vĩnh biệt người vợ hiền và ngôi nhà cũ kỹ có treo tấm bảng “Tiệm Bánh Mì Nhiên Hương”.

“Chiều nay thấy hoa cười chợt nhớ một người
Chạnh lòng tôi khơi bao niềm nhớ”


Mong ông yên nghỉ nơi “xa xăm phương trời ấy”

Huyền Chiêu , tháng Sáu 2020
Theo: Sài Gòn Thập Cẩm



XUÂN DU ĐỒ - BIỆN VINH


Xuân du đồ - Biện Vinh

Du ty bách xích đãng không khoát,
Thiên thượng hữu nhân lạc bạch phát.
Nhân sinh hành lạc cập thiếu niên,
"Kim lũ" nhất thanh bôi bách phạt.
Phiên phiên lưỡng kỵ xuất quách đông,
Đào hoa như vũ xuy đông phong.
Nguyện thiến du ty bán tây nhật,
Bất giao tiện nhập Hàm Trì trung.


春遊圖 - 卞榮

遊絲百尺盪空闊,
天上有人落白髮。
人生行樂及少年,
金縷一聲杯百罰。
翩翩兩騎出郭東,
桃花如雨吹東風。
願倩游絲絆西日,
不教便入咸池中。


Bức tranh chơi xuân 
(Dịch thơ: phanlang)

Tơ trăm thước trời cao bay vấn vít
Như tóc ai rụng trắng khắp không gian
Tuổi thiếu niên đời người tìm vui thích
Một trăm ly bài "Kim lũ" đầy tràn
Ra thành đông hai ngựa phi nhẹ nhõm
Gió xuân bay hoa đào rụng như mưa
Mặt trời tây xin tơ vây buộc chặt
Giữ đừng cho xuống tắm dưới ao xưa


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Biện Vinh 卞榮 (1418-1487) tự Bá Hoa 伯華, người Giang Âm, Giang Tô, học giả đời Minh, đỗ tiến sĩ năm Chính Thống thứ 10 (1445), làm quan đến Hộ bộ lang trung. Ông giỏi thơ và hoạ, người đời gọi là Biện lang trung hoạ.

Nguồn: Thi Viện

BẬC THẦY QUỶ CỐC TỬ KHUYÊN

Đây là 5 công thức được gọi là "nghệ thuật hùng biện" của Quỷ Cốc Tử - bậc thầy triết học Trung Hoa.


Trong cuộc sống, giao tiếp là một phần không thể tránh khỏi. Tuy nhiên, nhiều người không có năng khiếu giao tiếp với người khác. Để đạt được mục đích này, chúng ta có thể dựa vào năm "công thức bất bại" do nhà hiền triết cổ đại Quỷ Cốc Tử để lại. Thông qua những câu tục ngữ thông thái này, chúng ta có thể xử lý giao tiếp giữa các cá nhân một cách dễ dàng.

1. Giao tiếp với người giàu: bắt đầu bằng sự thanh lịch

Khi giao tiếp với người giàu có, chúng ta nên bắt đầu bằng những chủ đề tao nhã. Người giàu thường trải qua những thăng trầm của cuộc sống và họ khao khát sự thỏa mãn về mặt tinh thần. Bằng cách nói về những chủ đề cao cả như nghệ thuật, hội hoạ, âm nhạc..., đặc biệt là đối với những người giàu mới nổi, chúng ta có thể thu hút sự quan tâm của họ và xây dựng mối quan hệ sâu sắc hơn.

2. Giao tiếp với người nghèo: Bắt đầu với những mối quan tâm cơ bản của họ

Khi giao tiếp với người nghèo, điều quan trọng là phải bắt đầu từ mối quan tâm cơ bản của họ. Có nhiều loại người nghèo, bao gồm cả những người trí thức đột nhiên rơi vào cảnh nghèo đói và những người thiếu văn hóa và năng lực. Bất kể người nghèo là người như thế nào, vấn đề cuối cùng đều liên quan đến sự an toàn cơ bản trong cuộc sống. Vì vậy, chúng ta cần bắt đầu từ góc độ sở thích, những đề tài bình thường trong cuộc sống hơn là lý tưởng và ước mơ để giao tiếp khả thi hơn.


3. Giao tiếp với người thông minh: Hãy cố gắng để tỏ ra thông minh hơn

Khi giao tiếp với những người thông minh, chúng ta nên rèn luyện bản thân để trở nên thông minh hơn. Người thông minh có xu hướng nhìn thấu mọi việc và có phần khinh thường những người kém cỏi hơn mình. Bằng cách nâng cao chiều sâu kiến thức và sự minh mẫn của trí óc, chúng ta có thể giành được sự tôn trọng của người khác và thiết lập các mối quan hệ giao tiếp tốt hơn.

4. Giao tiếp với những người thiếu hiểu biết: Hãy giữ cho cuộc nói chuyện đơn giản và trực tiếp

Khi nói chuyện với những người thiếu hiểu biết hơn mình, hãy nói một cách đơn giản và trực tiếp. Những người như vậy có khả năng hiểu hạn chế, và những từ ngữ quá phức tạp hoặc cách nói lòng vòng có thể khiến họ mất kiên nhẫn. Ngoài ra, bạn nên thể hiện thái độ cứng rắn của mình để đối phương có cảm giác e dè tự nhiên, giúp cuộc giao tiếp trở nên trôi chảy hơn.


5. Giao tiếp với những người có năng lực: Đừng vòng vo

Khi giao tiếp với những người có năng lực cao, bạn đừng bao giờ vòng vo. Những người này thường ngay thẳng và không thích những lời nịnh hót. Vì vậy, hãy thẳng thắn khi giao tiếp và đừng né tránh vấn đề. Sự trung thực như vậy sẽ giành được sự tôn trọng của đối phương và thiết lập một mối quan hệ thực tế hơn.

Kết luận

Trong giao tiếp giữa các cá nhân, nghệ thuật hùng biện là một kỹ năng quan trọng. Bằng cách học năm mẹo ghi nhớ của Quỷ Cốc Tử, chúng ta có thể ứng xử tốt hơn với nhiều kiểu người khác nhau và đạt được kết quả tốt hơn trong các mối quan hệ và mang lại cho bạn nhiều cơ hội hơn.

Trang Đào / Theo: Sohu