Sunday, August 31, 2025

NHÀ THƠ HOÀNG CẦM VÀ VỤ ÁN "VỀ KINH BẮC"

Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Hoàng Cầm, một trong những nhà thơ hàng đầu Việt Nam bị tù đày dưới chế độ cộng sản, đầu tháng 2/2022 tác phẩm Về Kinh Bắc được tái bản và phát hành tại Việt Nam.

Ra mắt tập sách Về Kinh Bắc tại đường sách TPHCM. Ảnh: Nguyễn Thị Mười

BBC News Tiếng Việt phỏng vấn nhà thơ Hoàng Hưng và ông Thái Kế Toại, nguyên là Đại tá công an văn hóa, ông còn được biết đến là nhà thơ Lê Hoài Nguyên, về con người và tác phẩm của nhà thơ lớn Hoàng Cầm.

Câu chuyện chỉ vì lưu giữ bản thảo thơ của Hoàng Cầm chính nhà thơ Hoàng Hưng đã bị bỏ tù cũng được đề cập.

Nhà thơ Hoàng Cầm (phải) và nhà thơ Hoàng Hưng. Ảnh: Nguyễn Đình Toán

BBC: Thưa nhà thơ Hoàng Hưng xin ông cho biết nội dung cuốn sách Về Kinh Bắc và mục đích xuất bản lần này?

Nhà thơ Hoàng Hưng: Nhân 100 năm ngày sinh của nhà thơ Hoàng Câm, gia đình và thân hữu của nhà thơ quyết định xuất bản một ấn phẩm đặc biệt lấy tên là Hoàng Cầm về Kinh Bắc.

Trong đó bao gồm tái bản tập thơ Về Kinh Bắc cùng với một số bài đặc sắc của các nhà thơ, nhà phê bình viết về cuốn Về Kinh Bắc và thơ Hoàng Cầm. Rồi có thêm các tư liệu quý, có thể nói là chưa hoặc ít được biết đến xưa nay liên quan đến việc sáng tác và ra đời Về Kinh Bắc.

Có nhiều minh họa của các họa sĩ nhiều thế hệ và bộ ảnh của nhà nhiếp ảnh Nguyễn Đình Toán chụp về Hoàng Cầm, sinh hoạt của ông với gia đình và thân hữu qua nhiều năm.

BBC:Thi phẩm nào của Hoàng Cầm có sức lay động lớn nhất đối với quý vị? Tại sao?

Nguyên Đại tá Thái Kế Toại: Tôi luôn luôn coi Hoàng Cầm là một trong những nhà thơ lớn nhất trong thi ca hiện đại của ta. Ông có nhiều tác phẩm xuất sắc. Tôi coi hai trường ca của ông, Tiếng hát Quan họ và Về Kinh Bắc, là xuất sắc hơn cả.

Nhà thơ Hoàng Hưng: Nếu mà nói sức lay động lớn thì tác phẩm quá nổi tiếng rồi, ai cũng biết, cả ngoài Bắc hay trong Nam, hồi chưa thống nhất là bài Bên kia sông Đuống.

Có lẽ thi phẩm này cho đến nay tôi vẫn thấy là được nhiều người biết đến nhất. Kể cả ở hải ngoại, trong các trao đổi với bạn bè hải ngoại họ vẫn nhắc đến.

Nhưng tôi thấy nó cũng là tác phẩm mang tính thời sự, nặng tính thời sự. Cho nên, với thời gian ngày càng trôi đi, các cuộc chiến tranh, chiến đấu chống xâm lược... có thể đi vào dĩ vãng, tôi nghĩ rằng, cái còn lại vẫn là tác phẩm Về Kinh Bắc.

Nhà thơ Hoàng Hưng và nhạc si Trần Tiến trong lễ ra mắt sách. Ảnh: Nguyễn Thị Mười.

BBC: Xin ông cho biết thêm về con người Hoàng Cầmvà tác phẩm của ông ?

Nhà thơ Hoàng Hưng: Nhà thơ Hoàng Cầm là một trong những gương mặt sáng giá nhất của văn học hiện đại, riêng về thơ lại càng là gương mặt hàng đầu.

Tài năng của ông rất đa dạng. Trong đó nổi bật nhất là kịch thơ. Ông có rất nhiều kịch thơ ngay từ khi còn trẻ, nổi bật nhất là vở Kiều Loan được nhắc đến rất nhiều. Khó có tác giả nào nói về kịch thơ sánh được với Hoàng Cầm.

Đặc biệt về thơ trữ tình thì ông ấy là nhà thơ hàng đầu. Trước nhất là nghệ thuật của ông ấy đạt được đến mức đến nay thì gần như kinh điển rồi. Khó lòng mà có tập thơ nào nó hoàn chỉnh mà toàn bích, tập trung vào một chủ đề nổi bật như tập Về Kinh Bắc.

Tôi có dịch thơ của một nhà thơ Tây Ban Nha nổi tiếng Federico Garcia Lorca, đã làm bất tử cả vùng quê ông ta là vùng Andalusia, phía nam Tây Ban Nha. Tôi sang đó thì họ đề cao ông lắm, họ coi là biểu tượng văn hóa và họ rất tự hào, thu hút khách du lịch về đó.

Ở Việt Nam chỉ có một người làm được điều tương tự và cũng nổi bật chính là Hoàng Cầm với tập Về Kinh Bắc. Tôi nghĩ là một tác phẩm văn hóa, văn nghệ nói chung thì sức sống lâu dài của nó chính là nó phải mang thông điệp văn hóa như thế, phải đặc sắc, mang dấu ấn của ít nhất một vùng hay một đất nước. Tôi cho là Về Kinh Bắc đạt được cái đó.

BBC: Dường như tập thơ Về Kinh Bắc đã từng được xem xét xuất bản sớm hơn?

Nguyên Đại tá Thái Kế Toại: Vâng. Tập thơ Về Kinh Bắc có số phận rất đặc biệt trong văn học hiện đại Việt Nam. Bởi vì yếu tố thứ nhất nó là một hiện tượng hậu Nhân văn Giai phẩm.

Nếu nói Về Kinh Bắc mà tách rời hậu Nhân văn Giai phẩm người ta không thể hiểu được sâu sắc nội dung cũng như nguyên nhân của sự ra đời của nó.

Hoàng Cầm và các liền chị quan họ. Ảnh tư liệu của Hoàng Hưng.

Đầu 1956, khởi đầu ngọn gió đổi mới về dân chủ của văn học Việt Nam... Cũng giống như Văn Cao, Hoàng Cầm đã có cảm hứng tương đối mạnh mẽ về cái gọi là yếu tố đổi mới, yếu tố mới ở trong cái đòi hỏi của đời sống mới của xã hội Việt Nam mới.

Nhưng với cảm hứng ấy Hoàng Cầm đã bắt đầu báo động những yếu tố tiêu cực của đời sống xã hội, của văn hóa, đã trở lại xuất hiện. Đấy là một trong những lý do, mục tiêu mà những người theo xu hướng cấp tiến của giai đoạn 1956 ấy muốn hướng đến.

Ông ấy (Hoàng Cầm) có nói rằng: "Thấy lý trưởng mới, mặc khăn áo mới đi tuần làng". Cuối cùng thì ông ấy kết luận là: "Tôi mơ ước rồi đây tiếng quê quan họ, sẽ thành trái núi khổng lồ ném xuống biển cồn sóng gió, vòng nhỏ vòng to đến vòng nào nữa, chân mây mở rộng từng mùa". Đấy là nó tiêu biểu cho cái khát vọng dân chủ bắt đầu được thổi lên ban đầu ở cái Nhân văn Giai phẩm.

Thế nhưng đến khi mà sự việc xảy ra Hoàng Cầm cũng là người chịu những cái kết quả của sự trừng phạt. Về Kinh Bắc ra đời trong giai đoạn như thế. Tức là hậu Nhân văn Giai phẩm.

Tức là vào giữa 1958 mọi việc đã xử lý xong rồi. Nhưng riêng những nhân viên, cá nhân của phong trào Nhân văn Giai phẩm đã nhận đầy đủ sự cay đắng, phân biệt đối xử, kể cả có những trường hợp khai trừ hội viên.

Bản thân Hoàng Cầm, ngoài việc gọi là khai trừ Ban chấp hành Hội Nhà văn khóa một, thì ông ấy còn bị treo bút một thời gian.

Hai trang bìa bản thảo tập thơ và lưu bút của Hoàng Cầm. Ảnh tư liệu của Hoàng Hưng.

Sau đại hội Ban Chấp hành khóa một 1957 ông còn được giao một trọng trách là Ủy viên Ban giám đốc, phó Giám đốc Nhà xuất bản Văn học, một cơ quan xuất bản văn học vào loại lớn nhất miền Bắc lúc đấy. Hoàng Cầm sau đấy cũng bị mất luôn chức vụ đấy và ông ấy trở thành một nhân viên của Sở Văn hóa Hà Nội, lương bị giảm, đời sống gia đình khó khăn.

Vì thế trong bối cảnh bức bối đấy thì Về Kinh Bắc ra đời. Nó ra đời nhưng nó không còn cái tùy hứng, cái thi pháp của cái như là Tiếng hát Quan họ nữa, mà nó ở giai đoạn khác, tâm thế khác.

Về Kinh Bắc chính là một tiếng kêu thân phận ngay sau vụ Nhân văn Giai phẩm. Thứ hai nữa là, ở đấy tiếng kêu của số phận, tiếng kêu của chính chủ thể nhà thơ. Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng Thi, Cây Tam Cúc, Quả Vườn Ổi... là tiếng kêu của số phận và trong đó là sự thất vọng, đau đớn, bất mãn đều có cả.

Vì thế nó không ra đời được và nó chỉ được truyền miệng, truyền tay ở trong số bạn đọc, nhất là học sinh, sinh viên ở Hà Nội trong những năm 1960.

Trong bối cảnh chung như thế, nói chung với tất cả các tác giả trong nhóm Nhân văn Giai phẩm, những người bị nặng, bị treo bút thì thời gian đó đều không công bố được tác phẩm. Đấy là một trong những lý do chung mà Về Kinh Bắc không được xuất bản là vì thế.

Sự kiện liên quan đến anh Hoàng Hưng và ông Hoàng Cầm cuối 1982 đầu 1983, về việc hai người bị bắt. Tôi muốn nói bối cảnh xã hội khi đó rất phức tạp. Thứ nhất là làn sóng vượt biên, xã hội thì đói kém. Ở bên ngoài thì những nhóm văn nghệ sỹ lưu vong hoạt động cũng mạnh, cái việc tấn công vào trong nước cũng mạnh, các văn hóa phẩm phản động, đồi trụy, rồi là các băng video.

Tọa đàm về cuốn Về Kinh Bắc tại Lespace, Hà Nội. Ảnh: Nguyễn Thị Mười.

Rồi là cũng có trường hợp như chỗ ông Trần Nam Tiệp, Võ Văn Ái. Tôi muốn nói bối cảnh dẫn đến cái gọi là cái vụ tại sao người ta phải bắt, phải giữ cái bản thảo Về Kinh Bắc trong khi nó định chuyển ra nước ngoài.

Trong bối cảnh đó, cái nền an ninh của đất nước trong những năm đầu 1980 nó đang phức tạp như thế. Theo tôi có lẽ nguyên nhân cái việc bắt đấy không phải là nội dung của cuốn Về Kinh Bắc. Mà là hiện tượng ngăn việc chuyển một cái bản thảo, mà trước đấy không được xuất bản ra nước ngoài. Và xuất bản ở nước ngoài nó là không có lợi ở trong nước.

Còn trong công tác cán bộ thì mỗi người có nhận thức khác nhau, cho nên sau này đến lúc đổi mới tôi được trực tiếp làm với các bác đó thì tôi cũng thấy là đồng thời với việc giải quyết chế độ chính sách cho những cá nhân tham gia vụ Nhân văn Giai phẩm thì có việc là trả lại giá trị cho những tác phẩm chưa được xuất bản.

Tôi đã chú ý ngay đến Về Kinh Bắc và quãng năm 1989 theo đề nghị của ông Hoàng Cầm tôi đã làm việc với nhà xuất bản Tác phẩm mới, do ông Vũ Tú Nam làm Giám đốc và nhà thơ Xuân Quỳnh là người biên tập.

Chúng tôi cũng định đồng ý cho xuất bản Về Kinh Bắc từ 1989. Nhưng nội bộ nó cũng có những phức tạp, đặc biệt là ở công an địa phương. Người ta kiến nghị là chưa nên xuất bản những tác phẩm như thế, người ta cũng làm căng thẳng... Thế và 1994 thì Về Kinh Bắc đã được ra đời.

Sách Hoàng Cầm Về Kinh Bắc. Ảnh: Nguyễn Thị Mười

Nhà thơ Hoàng Hưng: Sở dĩ có vụ án Về Kinh Bắc thì nó cũng phải xuất phát từ nội dung tập thơ này. Nội dung tập thơ này nó toát lên nỗi buồn, thân phận, có hờn trách gì đó, có cái bất mãn, có sự đổ vỡ về niềm tin. Thì cái đó chính là lý do xuất phát vụ án Về Kinh Bắc.

Trước đó tập thơ này đã lưu truyền cả tới 20 năm rồi. Nhưng mà cái hờn trách cái bất mãn nó chỉ thông qua mối tình chị em. Tiêu biểu nhất là bài Lá Diêu Bông, nói về một người chị hứa với cậu con trai lẽo đẽo theo mình là nếu tìm được Lá Diêu Bông thì lấy làm chồng.

Nhưng thực ra không có cái lá ấy trên đời. Nên cậu trai tin vào lời hứa đó thì cả đời cứ mải mê tìm nhưng làm gì có. Nên cái nỗi thất vọng của người trai này cảm thấy như mình bị lừa.

Từ cái sự thất vọng hờn trách như thế, thì sự suy diễn về chính trị rất dễ xảy ra. Cái sự suy diễn này nó cả về phía tuyên huấn hoặc công an. Nhưng cũng cả phía những nhà ở hải ngoại như anh Toại nhắc đến như ông Võ Văn Ái.

Nhưng chính ông Phạm Duy phổ nhạc bài Cây Tam Cúc, Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi cũng suy diễn như thế. Suy diễn đây là cái lời oán trách đảng, coi như là đảng đưa ra một cái bánh vẽ, tức là chủ nghĩa xã hội.

Nói trắng ra là như vậy, là không có thật để cho nhân dân cứ thế đi tìm mãi. Có thấy đâu, làm gì có cái chủ nghĩa xã hội. Đây chính là lý do đầu tiên dẫn đến vụ án này.

Nguyễn Hà Hùng
Vai trò,Theo: BBC News Tiếng Việt (02/03/2022)



"CHO TÔI XIN MỘT VÉ ĐI TUỔI THƠ"

Tuổi thơ của tôi giống như một thước phim được ghi lại trong não bộ, qua từng mảng ký ức êm đềm, trong trẻo. Để mỗi khi xem lại tôi lại thấy chênh chao…

(ảnh minh họa Pinterest)

Tuổi thơ của tôi là những ngày mùa toát mồ hôi phơi thóc gặp mưa, tụt cả chun quần mà chạy thóc. Đó còn là những đêm trăng sáng, được cùng bố mẹ trải chiếu ra sân nằm nghe kể chuyện. Mo cau mẹ ép, lật phật quạt muỗi. Bố trầm mặc kể bao câu chuyện cổ tích, bắt đầu luôn là “ngày xửa ngày xưa”.

Thế rồi tuổi thơ của tôi thoáng chốc cũng trở thành một “ngày xưa” nào đó trong đời. Một “ngày xưa” trưa hè trốn ngủ đi bắt chuồn chuồn cho cắn rốn, với hy vọng sẽ biết bơi. Một “ngày xưa” cả đám ùa ra đường mà tắm mưa, thấy sấm sét lại co giò mà chạy. Thoang thoảng miền kỷ niệm còn là hương của những trái bàng, trái thị chín chia nhau… Vô cùng giản dị! Vô cùng bình yên!

Một vé về tuổi thơ, tôi sẽ tìm lại tình bạn thật sự. Không vụ lợi, không toan tính, chỉ có sẻ chia, vui đùa. Một vé về tuổi thơ, tôi sẽ tìm lại tình làng nghĩa xóm. Sẵn sàng xắn tay áo giúp nhau chẳng nề hà. Không kín cổng cao tường “đèn nhà ai, nhà ấy rạng”. Một vé về tuổi thơ, tôi sẽ tìm lại hơi ấm gia đình. Không cắm cúi vào điện thoại. Không vội vã kiếm tiền. Không nhồi nhét con học tập, còn tất cả vui buồn thì lại mặc kệ con…

(ảnh minh họa Pinterest)

Tuổi thơ của thế hệ chúng tôi còn là sự sạch sẽ. Đó là môi trường thuần nông, không có công nghiệp góp mặt trên những cánh đồng. Tôi có thể nằm bệt trên cỏ mà chẳng sợ mấy con vi khuẩn, hít hà no không khí chẳng e dè bụi mịn. Cũng có thể vốc nước dưới kênh mà uống khi khát, nhảy xuống sông mà bơi khi nóng, bứt quả dại bên đường mà ăn… Cá dưới nước nhiều đến nỗi đi tắm chơi chơi chúng tôi cũng mò được. Chim trên trời nhiều đến độ đếm mỏi mắt chưa hết đàn. Đêm có tiếng dế, ếch nhái kêu vang… Ngày có ong bay, bướm lượn, chim hót, ve ngân… Vạn vật và con người đều sống thuận hoà với nhau…

Có ai ngờ đến ngày sau, tuổi thơ với tôi lại là một trong những điều quý nhất trong đời nhưng chẳng thể quay lại.

Bây giờ trưởng thành rồi, bạn bè ai cũng lo cơm áo gạo tiền, công việc và cuộc sống riêng. Bây giờ xã hội phát triển rồi, gì cũng thuê được, xóm làng cũng đâu cần nhau câu chào, hay sự giúp đỡ. Bây giờ đủ đầy rồi, gia đình anh chị em có khi chỉ cần gọi điện, kiểm tra camera…

(ảnh minh họa Pinterest)

Tôi cảm thấy nhiều khi mình như kẻ lạc loài hay nhớ lại tuổi thơ và vớt vát tìm kiếm nơi đó dấu ấn của những điều gần như bây giờ đã mất… Có gì đó tiếc nuối, có gì đó mênh mang.

Tuổi thơ của tôi đã trôi xa, nhưng khi nhớ lại vẫn thấy mình thật bé nhỏ. Đôi chân trần trên cỏ, đôi câu hát khờ dại nghêu ngao, và tiếng cười non trẻ vẫn giòn tan vạt nắng…

Vùn vụt thời gian trôi, tuổi thơ tôi vẫn như thước phim quay chậm. Quay tới quay lui, xem đi xem lại… luôn thấy ấm áp ở trong lòng.

Ai cho tôi xin một vé về tuổi thơ?

Hoa Mặt Trời / Theo: nguyenuoc

NGU MỸ NHÂN - THƯ ĐẢN


NGU MỸ NHÂN - THƯ ĐẢN

Phù dung lạc tận thiên hàm thuỷ,
Nhật mộ thương ba khởi.
Bối phi song yến thiếp vân hàn,
Độc hướng tiểu lâu đông bạn ỷ lan khan.
Phù sinh chỉ hợp tôn tiền lão,
Tuyết mãn Trường An đạo.
Cố nhân tảo vãn thướng cao đài,
Ký ngã Giang Nam xuân sắc nhất chi mai.


虞美人 - 舒亶

芙蓉落盡天涵水,
日暮滄波起。
背飛雙燕貼雲寒,
獨向小樓東畔倚闌看。
浮生只合尊前老,
雪滿長安道。
故人早晚上高臺,
寄我江南春色一枝梅。


Ngu mỹ nhân 
(Dịch thơ: Lang Xet Tu)

Ao trời nước ngập hoa sen rụng,
Sóng biếc hoàng hôn động.
Ven mây tung cánh én bay chung,
Lầu nhỏ mé đông ngơ ngẩn tựa hiên trông.
Phù sinh trước chén dần nên cụ,
Tuyết trắng Trường An phủ.
Cố nhân sớm tối vẫn lên đài,
Gửi tặng Giang Nam xuân sắc một cành mai.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Thư Đản 舒亶 (1041-1103) tự Tín Đạo 信道, hiệu Lãn Đường 懶堂, người Từ Khê (nay thuộc Chiết Giang, Trung Quốc). Năm Trị Bình thứ 2 (1065) thi lễ bộ đỗ trạng nguyên, nhận chức Lâm hải uý, sau làm Giám sát ngự sử, cùng Lý Định 李定 hạch Tô Thức 蘇軾 trong vụ Ô đài thi án.

Nguồn: Thi Viện



ĐỒNG MINH HỒI GIÁO BỊ MỸ QUAY LƯNG VÀ ĐỘNG LỰC DẪN ĐẾN CHẾ TẠO VŨ KHÍ HẠT NHÂN (1)

Vào thời Chiến tranh Lạnh, Mỹ đã phát động một trong những chiến dịch tốn kém nhất lịch sử, kéo theo Pakistan trở thành mắt xích không thể thiếu trong chiến lược của Washington ở Afghanistan. Nhưng khi mục tiêu đã hoàn thành, đồng minh này nhanh chóng bị bỏ rơi.

Tổng thống Mỹ Ronald Reagan gặp các lãnh đạo lực lượng Mujahideen ở Nhà Trắng vào năm 1983.

--- Trong lịch sử ngàn năm, phương Tây và thế giới Hồi giáo có lúc đối đầu gay gắt, có lúc cùng hợp tác vì các mục đích riêng. Nhưng phương Tây với sự vượt trội về cơ cấu tổ chức xã hội, phát triển khoa học công nghệ, luôn là bên dường như “nắm đằng chuôi”.

Loạt bài dài kỳ này sẽ điểm lại một số sự kiện phản ánh mối quan hệ hợp tác như vậy, nhưng cuối cùng dẫn đến sự thất vọng từ các quốc gia hoặc cộng đồng Hồi giáo.---

CIA nâng tầm vị thế của Pakistan

Tháng 12/1979, Liên Xô tiến quân vào Afghanistan với mục đích để hỗ trợ chính phủ ở Kabul và dập tắt cuộc nội chiến đang diễn ra.

Tổng thống Mỹ khi đó là Jimmy Carter, tuyên bố hành động này là “mối đe dọa nghiêm trọng nhất kể từ Thế chiến II”, theo tờ New York Times (NYT). Ông Carter nhanh chóng phê chuẩn một chương trình viện trợ quân sự bí mật nhằm hỗ trợ các lực lượng nổi dậy mujahideen, với Pakistan làm cầu nối.

“Chúng tôi xem họ là những chiến binh tự do”, ông Carter sau này vẫn khẳng định, bất chấp những chỉ trích về việc vũ trang cho các nhóm Hồi giáo thánh chiến. Tuyên bố được ông Carter đưa ra vào năm 1998, trong cuộc phỏng vấn của PBS Frontline.

Chiến dịch Cyclone được ông Carter phê chuẩn và do Cơ quan Tình báo Trung ương (CIA) điều hành, trở thành một trong những chiến dịch ngầm tốn kém nhất trong lịch sử nước Mỹ, với hơn 3 tỉ USD ngân sách, chưa kể viện trợ đối ứng từ Ả Rập Saudi. Pakistan dưới thời Tổng thống Zia-ul-Haq, đảm nhận vai trò trung gian điều phối vũ khí, tài chính thông qua cơ quan tình báo ISI.

Trong cuộc xung đột Liên Xô - Afghanistan, Pakistan đóng vai trò là trung tâm hậu cần, trung chuyển vũ khí cho các nhóm Mujahideen.

ISI kiểm soát toàn bộ dòng viện trợ, và trong số 7 nhóm mujahideen được hỗ trợ, 4 nhóm có tư tưởng Hồi giáo cực đoan nhận phần lớn tài trợ. Nhiều người trong CIA từng lo ngại về sự lệch hướng này, nhưng Washington khi đó chỉ quan tâm đến một mục tiêu: phá hỏng kế hoạch của Liên Xô ở Afghanistan.

“Chúng tôi biết đang đi trên dây,” một cựu nhân viên CIA sau này nói, “nhưng Pakistan là con đường duy nhất”.

Nền móng hạt nhân của Pakistan

Trong khi bắt tay với Mỹ trên chiến trường Afghanistan, giới lãnh đạo Pakistan vẫn âm thầm đẩy nhanh chương trình hạt nhân – vốn đã được khởi động từ sau khi Ấn Độ thử bom nguyên tử năm 1974. Thủ tướng Pakistan Zulfikar Ali Bhutto khi đó, người đặt nền móng chính trị cho chương trình, từng tuyên bố: “Nếu Ấn Độ có bom, chúng ta cũng sẽ có bom – dù có phải ăn cỏ”, theo India Today.

Nhưng tham vọng ấy không hề dễ thực hiện. Pakistan khi đó là quốc gia đang phát triển, không có cơ sở hạ tầng công nghệ tiên tiến, lại bị phương Tây nghi ngờ, theo dõi sát sao. Lệnh cấm vận công nghệ hạt nhân quốc tế (NSG) khiến Islamabad không thể nhập khẩu máy móc, linh kiện phục vụ làm giàu uranium.

Chìa khóa nằm ở tiến sĩ Abdul Qadeer Khan, một kỹ sư luyện kim từng làm việc tại tập đoàn URENCO ở Hà Lan – nơi chuyên phát triển máy ly tâm khí dùng để làm giàu uranium. Khan đã bí mật thu thập bản thiết kế và dữ liệu kỹ thuật, sau đó trở về nước năm 1976 và thành lập Trung tâm Nghiên cứu Kahuta – đầu não của chương trình hạt nhân Pakistan.

Cơ sở hạt nhân của Pakistan trong ảnh chụp vệ tinh năm 1998.

Tuy nhiên, việc chế tạo máy ly tâm hoàn chỉnh không hề đơn giản. Pakistan không có công nghệ cao cấp để sản xuất hợp kim đặc biệt (như maraging steel), motor từ tính cực mạnh hay ổ bi siêu nhỏ – tất cả đều cần cho rotor ly tâm quay hàng chục ngàn vòng/phút.

Cơ sở Kahuta ban đầu gặp nhiều thất bại, các rotor thường xuyên vỡ tung, hệ thống làm giàu uranium hoạt động chập chờn. Phải mất nhiều năm thử nghiệm, với sự giúp đỡ của một mạng lưới ngầm mua linh kiện từ châu Âu, Nhật Bản, thậm chí Trung Quốc, Pakistan mới từng bước xây dựng được hệ thống ly tâm đủ ổn định để đạt cấp độ làm giàu cao.

Trong suốt thập niên 1980, chương trình vẫn được bảo mật tuyệt đối, nằm ngoài tầm thanh tra quốc tế. Bất chấp sức ép từ Mỹ và phương Tây, Islamabad chọn chiến lược mơ hồ – không xác nhận, không phủ nhận chương trình hạt nhân – nhằm tránh đụng độ trực diện về ngoại giao.

Tuy có dấu hiệu tình báo rò rỉ về tiến độ kỹ thuật, Mỹ được cho là vẫn tạm "làm ngơ" vì không muốn phá vỡ liên minh chiến lược trong cuộc xung đột ở Afghanistan.

Mỹ quay lưng, Pakistan rẽ lối

Tháng 2/1989, Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan. Chỉ vài tháng sau, Mỹ bắt đầu thu hồi viện trợ. Không có kế hoạch tái thiết, Afghanistan rơi vào nội chiến giữa các nhóm mujahideen từng được Mỹ vũ trang. Kabul bị pháo kích tan nát, các phe phái Hồi giáo tranh giành ảnh hưởng.

Pakistan chịu tác động đáng kể của cuộc nội chiến ở Afghanistan còn Mỹ rời đi sau khi Liên Xô rút quân khỏi Afghanistan vào năm 1989. Ảnh: AFP.

Pakistan trở thành nước chịu hậu quả trực tiếp. Gần 4 triệu người tị nạn Afghanistan tràn qua biên giới, làm quá tải các trại tị nạn và phá vỡ cấu trúc xã hội vùng tây bắc. Nhiều nhóm mujahideen cũ từng được ISI bảo trợ nay quay sang chống lại Pakistan, thậm chí mang theo chủ nghĩa cực đoan và gây ra bất ổn sâu rộng.

Giới tướng lĩnh Pakistan cảm thấy bị bỏ rơi. Tướng Mirza Aslam Beg, Tham mưu trưởng quân đội khi đó, nói thẳng: “Chúng tôi đã làm mọi thứ vì Mỹ ở Afghanistan. Nhưng khi cuộc chơi kết thúc, họ quay đi không một lời cảm ơn”, theo Los Angeles Times.

Nỗi thất vọng lên đến đỉnh điểm vào năm 1990, Mỹ áp dụng Tu chính án Pressler – điều khoản bổ sung vào Đạo luật viện trợ nước ngoài của Mỹ. Tu chính án quy định Tổng thống Mỹ chỉ được phép tiếp tục viện trợ kinh tế hoặc quân sự cho Pakistan nếu mỗi năm xác nhận Pakistan không sở hữu vũ khí hạt nhân.

Tu chính án Pressler được đặt theo tên của Thượng nghị sĩ Larry Pressler. Mục đích của tu chính án là ngăn chặn sự phổ biến vũ khí hạt nhân bằng cách gây áp lực lên các quốc gia đang phát triển vũ khí hạt nhân.

Vì không thể xác nhận điều này với Pakistan, Washington buộc phải cắt toàn bộ viện trợ quân sự, bao gồm cả việc chuyển giao các khí tài đã ký hợp đồng từ trước.

Pakistan đặc biệt phẫn nộ vì thương vụ mua 28 chiến đấu cơ F-16 do Lockheed Martin sản xuất, trị giá khoảng 658 triệu USD, đã bị đình chỉ vô thời hạn. Islamabad đã chuyển tiền từ trước, nhưng Mỹ vẫn từ chối bàn giao máy bay, cũng không hoàn tiền.

Một tướng lĩnh Pakistan thời điểm đó nói trong giận dữ: “Người Mỹ nhận tiền, nhưng không giao hàng. Thế giới gọi đó là cấm vận. Chúng tôi gọi đó là lừa dối”, theo Washington Post.

Thương vụ F-16 trở thành biểu tượng cay đắng nhất trong quan hệ Pakistan – Mỹ thập niên 1990. Mãi đến năm 2005, dưới thời Tổng thống George W. Bush, Mỹ mới quyết định hoàn lại khoản tiền này, sau nhiều năm đàm phán căng thẳng với Pakistan.

Chiến lược Pakistan theo đuổi

Không còn niềm tin vào Mỹ, Pakistan tăng tốc chương trình hạt nhân, với mục tiêu mới là chế tạo hoàn chỉnh bom nguyên tử.

Tiến sĩ Abdul Qadeer Khan, cha đẻ của chương trình hạt nhân Paksistan, từng xác nhận mục tiêu làm giàu uranium của Pakistan ở cấp độ vũ khí.

“Chương trình làm giàu uranium ở cấp độ vũ khí, lên tới 90%, sẽ không bị dừng lại, dù Mỹ có gây sức ép ra sao”, ông Khan nói trên truyền hình vào năm 1996, đề cập việc chính quyền Tổng thống Mỹ Bill Clinton muốn giới hạn mức độ làm giàu uranium của Pakistan xuống còn 3%.

Đây được xem là lời khẳng định công khai đầu tiên rằng Pakistan đã tiến rất xa – thậm chí vượt ngưỡng – trong khả năng chế tạo bom nguyên tử.

Pakistan chính thức thử hạt nhân vào năm 1998, kích nổ qua bom có sức công phá 40 kT.

Khi Ấn Độ thử hạt nhân lần thứ hai vào tháng 5/1998, Thủ tướng Pakistan khi đó là Nawaz Sharif chịu áp lực chính trị và quân sự rất lớn. Đáp lại, chỉ 2 tuần sau, Pakistan tiến hành 6 vụ thử hạt nhân tại Chagai, chính thức bước vào danh sách các cường quốc hạt nhân.

Trong phát biểu sau vụ thử, ông Sharif nói: “Chúng tôi không bắt đầu cuộc chạy đua vũ khí này. Nhưng chúng tôi cũng không thể để quốc gia bị đe dọa hay không thể tự đảm bảo an ninh”, theo BBC News.

Phản ứng của Mỹ

Ông Abdul Qadeer Khan (giữa) là "cha đẻ" chương trình hạt nhân của Pakistan.

Washington phản ứng bằng các lệnh cấm vận toàn diện:

• Cắt viện trợ tài chính, nhân đạo và phát triển

• Cấm xuất khẩu thiết bị lưỡng dụng và công nghệ quân sự

• Ngăn chặn hỗ trợ từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), Ngân hàng Thế giới

Tổng thống Mỹ Bill Clinton gọi các vụ thử là “hành động đáng tiếc và nguy hiểm”, nhưng thừa nhận Mỹ “không còn ảnh hưởng đủ mạnh” để ngăn chặn, theo tờ Guardian.

Một cựu quan chức CIA sau này thừa nhận: “Chúng ta đã để mất đồng minh Pakistan từ năm 1989. Không phải vì bom hạt nhân, mà vì niềm tin đã không còn".

Trong giai đoạn Thế chiến 1, Đế quốc Anh từng lôi kéo một thế lực Hồi giáo Ả Rập nổi dậy chống lại đế chế Ottoman, góp phần dẫn đến cục diện cuộc chiến. Anh đưa ra lời hứa về một nhà nước Hồi giáo Ả Rập thống nhất nhưng lời hứa đó cuối cùng không bao giờ trở thành hiện thực. Điều gì đã xảy ra và bối cảnh khi đó như thế nào? Mời độc giả đón đọc bài kỳ 2.


TRÀ ĐẠO: MỘT CÁCH KINH DOANH CỔ Ở NHẬT BẢN

Cổ xưa, truyền thống và tao nhã. Nhưng bây giờ một số văn phòng đang mang đến cho trà đạo Nhật Bản một bước ngoặt hiện đại.

Một bản in ukiyo về nghi thức tại nhà uống trà. Ảnh: Japan Art Collection (JAC) / Alamy Stock

Khi chúng ta nghĩ về một buổi trà đạo Nhật Bản (sadō), nó gợi lên những suy nghĩ về một người phụ nữ lịch sự mặc kimono, ngồi trên chiếu rơm tatami và pha trà bột (matcha), thận trọng làm theo hướng dẫn chi tiết cổ xưa. Theo điều tra dân số năm 2016 của Cục Thống Kê Nhật Bản, 80% người tham gia trà đạo là phụ nữ. Tuy nhiên, ý nghĩ trà đạo được gán cho nữ giới thực ra là một sự phát triển gần đây. Tám trăm năm trước, khi văn hóa uống trà bột lần đầu tiên được du nhập từ Trung Quốc, các nghi thức dùng trà được thực hiện bởi các chiến binh và nhà sư: nói tóm lại là đàn ông.

Etsuko Kato, một nhà nhân chủng học văn hóa, người đã viết về chủ đề này, giải thích rằng sự hiểu biết của phụ nữ về trà đạo là một kỹ năng nâng cao địa vị xã hội của họ.

Kato giải thích sau sự Phục Hưng triều đại Minh Trị năm 1868, những người phụ nữ có học đã chuyển sang trà đạo với hy vọng nâng cao nữ tính và sự tao nhã của họ trước khi kết hôn. Học sinh rèn luyện không ngừng để có được sự hoàn hảo về otemae, tức quá trình pha trà và thực hành nghi thức trà đạo. Khi khách được mời tham dự buổi trà đạo thì sự thành thạo của chủ nhà về nghệ thuật này được thể hiện. Ở thời kỳ mà trách nhiệm của phụ nữ chỉ hoàn toàn trong việc nội trợ thì có một buổi trà đạo thanh lịch là một cách quan trọng để phụ nữ có văn hóa được xã hội thừa nhận.

Các doanh nhân như các samurai ở thời ngày nay, chiến đấu chống lại sự căng thẳng trong công việc". Nguồn hình ảnh,Makoto Motomiya

Với vị thế xã hội của phụ nữ ở nơi làm việc tăng tiến hơn, đã có sự sụt giảm đáng kể trong việc tham gia vào trà đạo. Theo điều tra dân số nói trên, phần lớn phụ nữ học việc này nay đều đã 50 tuổi trở lên. Một truyền thống văn hóa không có thế hệ trẻ để truyền lại cũng là một điềm báo đáng lo ngại khác về nhân khẩu học đang già đi ở Nhật Bản.

Nhưng đang có một sự hồi sinh mới đây của nghệ thuật cổ xưa này. Một làn sóng mới, được cập nhật hóa để phản ánh xã hội hiện đại, đã lặng lẽ hình thành trong mười năm qua.

Các chiến binh cầm kiếm và các doanh nhân thời hiện đại

Kyūtō-Ryū là một loại trà đạo mới được thiết lập năm 2010. 'Kyūtō' có nghĩa là phòng bếp nhỏ hoặc một nồi nước nóng và phản ánh địa điểm chọn - là căng tin văn phòng. Khái niệm của nó chỉ đơn giản là cách dùng trà của nhân viên văn phòng luôn bận rộn." Người đứng đầu phong trào này là bà Hankyu Tanida, người đã làm việc trong một văn phòng hơn 20 năm. Cuộc tiếp cận đầu tiên của bà với trà đạo là qua bộ truyện tranh trẻ em "Hyougemono" (một người ngớ ngẩn, hoặc, một vật thể có hình dạng ngộ nghĩnh) của Yoshihiro Yamada. Lấy bối cảnh thời kỳ Sengoku bị chiến tranh tàn phá, bộ truyện tranh manga được ưa thích này mô tả các chiến binh đam mê trà đạo.

"Trước khi đọc 'manga', tôi luôn nghĩ rằng nghi thức trà đạo là một sự kiện nhàm chán, trong đó các phụ nữ ăn diện uống trà," Tanida nói. "Tuy nhiên, ngay cả trong thời kỳ chiến tranh samurai đau khổ, nơi người ta có thể đối mặt với cái chết bất cứ ngày nào, các chiến binh, để giảm căng thẳng và lấy lại sức mạnh tinh thần, đã tham gia vào trà đạo. Theo cách sống của những nhà kinh doanh ngày, tôi thấy họ đang chiến đấu chống lại những căng thẳng trong công việc.

Một buổi tụ tập trà đạo được tổ chức tại một cửa hàng đồ cổ ở Osaka. Nguồn hình ảnh,Kiyoe Akechi

Khi bắt đầu nghiên cứu các nghi lễ dùng trà, Tanida quyết định ghé thăm phòng trà nổi tiếng "Taian" ở Kyoto, nơi được cho là sáng tạo ra nhân vật lịch sử được ca ngợi và bậc thầy về trà, Sen no Rikyū, người có ảnh hưởng sâu sắc đến trà đạo Nhật Bản trong thời kỳ Azuchi-Momoyama.

"Tôi nghe nói đó là một phòng nhỏ vừa 2 tấm chiếu vuông tatami," Tanida kể. "Tuy nhiên, bằng cách nào đó, nó đã mở rộng ra ngoài ranh giới thực thể của nó và đi vào không gian. Tất nhiên là tôi đã có kỳ vọng cao. Nhưng khi tôi thực sự trông thấy nó, tôi nghĩ nó nhỏ. Nhỏ quá. Nó chỉ bằng phòng bếp văn phòng chúng tôi. Khi tôi tưởng tượng mình đang dùng trà bột 'matcha' trong bếp văn phòng, có vẻ ngớ ngẩn đến mức tôi không thể ngừng cười."

Điều mà Tanida nghĩ là cách dùng trà nên là tự do." Các phòng trà được yêu cầu phải rộng 4 tấm tatami (khoảng 6 m2); tuy nhiên, các chiến binh ở thời kỳ đó thích được ngồi o ép trong một diện tích chỉ bằng nửa thế. "Đó là lúc tôi nhận ra rằng buổi trà đạo không phải chỉ là việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy tắc. Mà sự quyến rũ của nó thể hiện khi ta phá vỡ một số trong số quy tắc đó." Khi bà trở lại làm việc, Tanida đã mời hai đồng nghiệp của mình tham gia vào một buổi trà đạo trong phòng giải lao của văn phòng. Đây cũng chính là bếp nhỏ nơi bà pha trà cho sếp hoặc hâm nóng hộp bentō bữa trưa trong lò vi sóng. Tuy nhiên, một khi ngồi theo kiểu Nhật trên sàn nhà, căn phòng có vẻ biến đổi, và nó đưa chủ trà và khách đến một thế giới khác. Đó là sự khởi đầu của trà đạo Kyūtō-Ryū.

Một làn sóng mới của các cuộc tụ tập văn phòng

Kytō-Ryū, trà đạo ở bếp nhỏ, được tiến hành trong giờ nghỉ trưa, và Tanida tin rằng có ba lợi ích chính cho làn sóng trà đạo mới của mình.

Trước tiên, trong 2 gram bột cho một loại trà được gọi là "nhạt" có khoảng 64mg caffeine, tương đương với một tách cà phê. Tác dụng kích thích của nó thường được sử dụng để giúp chống buồn ngủ vào buổi chiều ở văn phòng. "Các chiến binh sẽ uống trà bột maccha trước khi lâm trận để lên tinh thần," Tanida giải thích.

Một lý do khác là khía cạnh xã hội của nó. Trong một buổi trà đạo, những người tham gia hòa trộn bất kể chức vụ công việc. Một trong những quy tắc trong Kyūtō-Ryū là cởi bỏ mọi thẻ tên và chức danh treo quanh cổ trước khi tụ tập. Theo Tanida, điều này phản ánh phong tục của các nghi lễ lịch sử, trong đó các samurai để gươm vào một nơi, gươm là biểu tượng cho danh tính của họ, trước khi cùng dùng trà. "Thông qua việc tụ tập dùng trà này," Tanida nói, "các chiến binh samurai sẽ thẳng thắn thảo luận về vũ khí và chiến lược, bất kể đẳng cấp và danh hiệu. Nhiều người đã sử dụng các nghi lễ này như là cơ hội giao thiệp để phát triển sự nghiệp của họ."

Và cuối cùng, tại các cuộc tụ họp Kyūtō-Ryū của riêng họ, những người tham gia sử dụng các đồ dùng khác thường mà theo truyền thống có lẽ là không "phải phép". Thay vào đó, họ sử dụng bất cứ thứ gì xung quanh họ để tạo ra một không khí đặc biệt, độc đáo cho văn phòng của họ.

Chén trà Hàn Quốc được sử dụng rộng rãi ở Nhật Bản trong triều đại Joseon của Hàn Quốc. Theo tinh thần đó, một tách cà phê được sử dụng trong các nghi thức uống trà ngày nay. Nguồn hình ảnh,Junichi Kondo

Theo truyền thống, chén trà để rót trà bột vào là một công cụ rất được chú ý. Thông thường, chủ trà sẽ mang ra những chiếc chén có giá hàng trăm nghìn yen (trên 1.000 bảng Anh). Nhưng tại các cuộc tụ họp Kyūtō-Ryū, những người tham gia sử dụng những tách cà phê cũ có nét quyến rũ riêng. Biên lai chi phí được ghim vào tủ lạnh đóng vai trò như kakejiku, tức một băng giấy thể hiện tình cảm của buổi trà đạo ngày hôm đó.

Tanida nói, "thông qua triết lý trà Wabi của Rikyū, chúng tôi tìm kiếm vẻ đẹp của đồ cũ và cái đơn giản, hơn là cái lộng lẫy. Điều quan trọng là thể hiện được trái tim của đồ dùng mà ta sử dụng để dùng trà. Trong một tách cà phê bị nứt và ố, tôi thấy những nỗ lực của các đồng nghiệp. Khi bạn chia sẻ câu chuyện đó với khách của mình thì bạn với họ sẽ là một."

Cuộc chơi thoải mái

Lúc đầu, chỉ có 3 người tham gia thực hành nghi lễ trà văn phòng Kyūtō-Ryū. Và bây giờ thông qua bạn bè chung và sự quan tâm chung, phong cách trà đạo mới này đã lan sang các bếp nhỏ ở văn phòng khác. Trong quá khứ có những tiệc uống trà thực hiện ở New York và London, xa hàng ngàn dặm. Ngày nay, nhóm sử dụng các nhà ga bỏ hoang ở nông thôn, hoặc các câu lạc bộ đổ nát gần thị trấn onsen (suối nước nóng) cũ để gặp gỡ làm nghi lễ trà đạo. Khoảng 120 nghi lễ trà đã được tổ chức, với hơn 2400 người tham gia.

Một người tham gia cầm một chiếc chén cô đã sử dụng từ thời thơ ấu. Hình vẽ hoài cổ trên chén mang đến cảm giác luyến tiếc quá khứ. Nguồn hình ảnh,Sakiko Kishimoto

Giáo sư Hiroshi Yamaguchi, người đứng đầu các nghiên cứu truyền thông toàn cầu tại Đại Học Komazawa ở Tokyo, tin rằng "bằng cách bỏ qua những lề lối truyền thống, Kyūtō-Ryū đã thành công trong việc biến bản chất của việc tụ tập dùng trà thành một sự bắt chước hài hước, một thứ gì đó vui vẻ thoải mái như một trò chơi." Bản thân Yamag Yamaguchi đã tham gia với tư cách là khách mời năm 2013, rồi trở thành thành viên quản lý của nhóm.

"Điều kiện xung quanh việc dùng trà đạo đã thay đổi mạnh mẽ trong vài thập kỷ qua," Yamag Yamaguchi giải thích. "Sau bong bóng hậu chiến của Nhật Bản, các 'nhà cung cấp trà', giáo viên dạy trà đạo và nhà sản xuất chén trà đã chiếm lợi thế, vì có nhu cầu về các bài học và chén trà đắt tiền. Tuy nhiên, khi mà giá trị cảm nhận của các đồ dùng uống trà giảm xuống, động lực sức mạnh chuyển từ nhà cung cấp sang người tiêu dùng, tức là những người tham gia uống trà. Trà đạo phải chuyển biến sao cho những người tham gia thích nó, nếu không nhu cầu làm theo truyền thống sẽ ngày càng giảm đi."

Tại các cuộc tụ tập Kyūtō-Ryū, những người mới và người theo chủ nghĩa truyền thống hòa trộn như khách mời, và chia sẻ các cách thưởng thức trà của riêng họ.

"Thông qua các buổi dùng trà, chúng tôi hy vọng rằng ngày càng có nhiều người quan tâm đến trà đạo. Ở Nhật Bản, dùng trà bột matcha được coi là trà hảo hạng. Tôi hy vọng một ngày nào đó nó sẽ trở thành một lựa chọn khác thay cho cà phê tại nơi làm việc," Tanida nói.

Yuko Komura / BBC Future
Theo: BBC Tiếng Việt (20/11/2019)
Link tiếng Anh:

Saturday, August 30, 2025

ĐỐI ĐẦU MỸ - IRAN KHIẾN THẾ GIỚI "NÍN THỞ"

Ánh lửa bùng lên trên boong chiến hạm USS Vincennes khi hai quả SM‑2 lao vút vào bầu trời, khép lại giây phút ngỡ ngàng nhất trong lịch sử hải quân Mỹ. Thảm kịch đó mở ra một vòng xoáy đối đầu nghẹt thở giữa Mỹ và Iran.

Ảnh minh họa thảm kịch tàu chiến Mỹ bắn rơi máy bay chở khách Iran năm 1988. Ảnh: DM MFA

Đòn “chí mạng” gây thảm kịch trên vịnh Ba Tư

Theo trang Britannica, tháng 7/1988, khu vực vịnh Ba Tư căng như dây đàn. Cuộc chiến Iran-Iraq biến nơi đây thành vùng nước “tử thần”, nơi các tàu chở dầu trở thành mục tiêu trong trò chơi sinh tử giữa hai quốc gia. Mỹ, quyết bảo vệ tuyến vận tải dầu mỏ huyết mạch, đã điều các chiến hạm đến tuần tra khu vực. Trong số đó có tàu tuần dương USS Vincennes, do Đại tá William C. Rogers III chỉ huy. Đây là vị sĩ quan nổi tiếng với lối hành xử cứng rắn, sẵn sàng nổ súng trước khi đặt câu hỏi.

Bất chấp lệnh giới hạn hành động, Đại tá Rogers vẫn hạ quyết tâm đuổi cùng diệt tận một tàu pháo Iran. Nhưng thay vì chiến thắng, ông tạo ra một thảm kịch.

Lúc 10h47 sáng 3/7, chuyến bay Iran Air 655 – một chiếc Airbus A300 – cất cánh từ thành phố Bandar-e Abbas, miền nam Iran hướng về thành phố Dubai thuộc Các Tiểu vương quốc Ả Rập Thống nhất. Máy bay dân sự này chở 290 người, bao gồm 66 trẻ em.

Trên màn hình radar của tàu chiến Vincennes, máy bay dân sự bị nhầm thành chiến đấu cơ F-14 Tomcat của Iran.

Cuộc gọi cảnh báo phát ra. Không lời hồi đáp. Sự hỗn loạn lan rộng trong phòng điều khiển. Và vào lúc 10h54, hai quả tên lửa SM-2 bay vút lên trời, xé toạc thân máy bay dân sự. Không một ai sống sót.

Thảm họa không chỉ cướp đi mạng sống của 290 người, mà còn thổi bùng một làn sóng phẫn nộ tại Iran. Dù Washington khẳng định đây là một “tai nạn khủng khiếp”, Tehran xem đó là bằng chứng rõ rệt cho sự ngạo mạn và thù địch cố hữu của Mỹ. Vụ việc trở thành vết nứt khởi đầu cho mối quan hệ thù địch kéo dài hơn ba thập kỷ.

Một tên lửa được phóng từ tàu chiến Vincennes. Ảnh: CN Travel

Những thỏa thuận trong bóng tối

Theo PBS, những năm sau thảm kịch máy bay Iran Air 655 là chuỗi ngày căng như dây đàn, mở màn bằng một vụ bê bối làm rúng động cả Washington: Vụ bê bối Iran–Contra.

Contra là một lực lượng vũ trang nổi dậy, hoạt động tại Nicaragua từ thập niên 80. Khi đó, chính quyền cánh tả do Mặt trận Sandinista lãnh đạo nắm quyền ở Nicaragua, có xu hướng đối nghịch Mỹ, khiến Washington lo ngại.

Chính quyền Mỹ giao nhiệm vụ cho CIA vũ trang, huấn luyện và tài trợ ngầm cho Contra trong suốt thập niên 80 để chống đối chính phủ Nicaragua. Năm 1982, quốc hội Mỹ thông qua tu chính án Boland, cấm CIA và Bộ Quốc phòng nước này dùng ngân sách chính thức để hỗ trợ Contra.

Khi Quốc hội Mỹ cấm tài trợ cho lực lượng Contra ở Nicaragua, Tổng thống Mỹ khi đó, ông Ronald Reagan, vẫn ra lệnh cho cố vấn an ninh quốc gia Robert McFarlane: “Hãy làm bất cứ điều gì để giữ họ tồn tại”.

Mệnh lệnh đó đã mở đường cho một mạng lưới ngầm gồm buôn bán vũ khí với đối thủ, trao đổi con tin và rửa tiền quy mô toàn cầu. Năm 1985, Iran, lúc đó đang trong cuộc chiến với Iraq và bị Mỹ cấm vận, âm thầm thỏa thuận để mua hơn 1.500 tên lửa từ Washington. Đổi lại, Tehran phải tác động tới các nhóm thân Iran ở Lebanon để thả một số con tin Mỹ.

Hơn 1.500 tên lửa sau đó được chuyển đến Iran, nhưng chỉ 3 con tin được thả, và 3 người khác nhanh chóng bị bắt thay thế.

Tệ hơn, lợi nhuận từ vụ buôn bán được chuyển sang tài trợ trái phép cho Contra, với bàn tay điều phối của Trung tá Oliver North. Khi vụ việc bị phanh phui năm 1986, niềm tin vào chính quyền ông Reagan sụp đổ. Dù không bị kết tội trực tiếp, hình ảnh Tổng thống bị hoen ố: chỉ 14% dân Mỹ tin rằng ông Reagan không đổi vũ khí lấy con tin.

Với Tehran, vụ Iran-Contra là bằng chứng: Mỹ không đáng tin. Còn với Washington, nó củng cố ám ảnh về một Iran đầy toan tính.

Cùng lúc đó, chương trình hạt nhân của Iran trở thành tâm điểm. Các lệnh trừng phạt dồn dập tới từ Mỹ, Liên Hợp Quốc và Liên minh châu Âu. Nhưng rồi, năm 2015, một cửa sổ ngoại giao hé mở: Thỏa thuận hạt nhân JCPOA ra đời. Được ca ngợi là thắng lợi lịch sử, thỏa thuận buộc Iran thu hẹp chương trình hạt nhân và chấp nhận thanh tra gắt gao, đổi lấy việc dỡ bỏ trừng phạt.

Cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan. Ảnh: Ronald Reagan Library

Từ hy vọng đến đòn thù

Sự lạc quan mong manh từ JCPOA nhanh chóng tan biến. Theo ABC News, năm 2018, Tổng thống Donald Trump đơn phương rút Mỹ khỏi thỏa thuận JCPOA, gọi đó là “thỏa thuận tồi tệ”. Ông Trump lập luận rằng JCPOA cho Iran quá nhiều lợi ích mà không đủ ràng buộc, và ông tái áp đặt các lệnh trừng phạt kinh tế khắc nghiệt trong chiến dịch “áp lực tối đa”. Quyết định này, bất chấp sự phản đối từ các đồng minh như Pháp, Đức và Anh, đã làm leo thang căng thẳng. Iran đáp trả bằng cách dần rút khỏi các cam kết JCPOA, tăng cường làm giàu uranium và khiến thế giới lo ngại về nguy cơ chạy đua hạt nhân.

Căng thẳng đạt đỉnh vào tháng 1/2020 với vụ ám sát tướng Qasem Soleimani, chỉ huy Lực lượng Quds của Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran.

Theo CNBC, ông Soleimani, được coi là nhân vật quyền lực thứ hai ở Iran sau lãnh tụ Tối cao Ayatollah Ali Khamenei, là bộ óc đằng sau mạng lưới ủy nhiệm của Iran trên khắp Trung Đông, từ Iraq đến Syria, Lebanon, Yemen và Afghanistan.

Ông Soleimani bị hạ sát trong một cuộc không kích của Mỹ tại Baghdad (Iraq), một động thái mà các nhà phân tích gọi là “thay đổi cuộc chơi”. Michael Knights, một chuyên gia về vùng Vịnh, mô tả cái chết của ông Soleimani là một cú sốc đối với Iran.

Iran thề trả thù, và các nhóm ủy nhiệm được Iran hậu thuẫn tăng cường các cuộc tấn công vào các căn cứ và cơ sở ngoại giao của Mỹ ở Trung Đông, bao gồm cả vụ tấn công vào Đại sứ quán Mỹ tại Baghdad.

Cái chết của ông Soleimani làm trầm trọng thêm mối quan hệ vốn đã mong manh. Theo CNBC, việc Mỹ rút khỏi JCPOA và các lệnh trừng phạt khắc nghiệt đã làm suy yếu nền kinh tế Iran, nhưng Tehran vẫn tiếp tục mở rộng ảnh hưởng khu vực thông qua các nhóm ủy nhiệm. Iran cũng tuyên bố không còn tuân thủ các hạn chế hạt nhân của JCPOA, và đến năm 2023, Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA) báo cáo rằng Iran đã làm giàu uranium đến mức gần cấp độ vũ khí tại cơ sở Fordow, làm dấy lên lo ngại toàn cầu.

Tướng Qasem Soleimani, chỉ huy Lực lượng Quds của Vệ binh Cách mạng Hồi giáo Iran. Ảnh: AFP

Thất bại đàm phán và tấn công cơ sở hạt nhân

Dưới thời Tổng thống Joe Biden, nỗ lực khôi phục JCPOA đã thất bại. Theo ABC News, vào cuối nhiệm kỳ của ông Biden - năm 2024, một phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Mỹ thừa nhận rằng các cuộc đàm phán với Iran “còn rất xa”.

Căng thẳng tiếp tục leo thang, với các cuộc tấn công qua lại giữa Israel và Iran, bao gồm các cuộc không kích của Israel vào các cơ sở hạt nhân Iran.

Đỉnh điểm là vào ngày 21/6 năm 2025, khi Mỹ tiến hành các cuộc không kích vào 3 cơ sở hạt nhân của Iran tại Fordow, Natanz và Isfahan, sử dụng hơn một chục quả bom xuyên hầm GBU-57. Theo CNN, Tổng thống Trump tuyên bố các cuộc tấn công đã “hoàn toàn và triệt để phá hủy” chương trình hạt nhân của Iran, với Bộ trưởng Quốc phòng Pete Hegseth lặp lại rằng các cơ sở đã bị “xóa sổ”.

Tuy nhiên, theo The Conversation và CNN, các đánh giá tình báo sơ bộ của Cơ quan Tình báo Quốc phòng (DIA) lại vẽ ra một bức tranh khác. Các cuộc không kích đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho các cơ sở trên mặt đất, nhưng các thành phần cốt lõi của chương trình hạt nhân Iran - như máy ly tâm và kho dự trữ uranium làm giàu - vẫn còn nguyên vẹn. Một nguồn tin cho biết Iran có thể đã chuyển uranium làm giàu ra khỏi các địa điểm trước khi bị tấn công.

DIA ước tính rằng các cuộc tấn công chỉ làm chương trình hạt nhân của Iran thụt lùi vài tháng, trái ngược với tuyên bố của ông Trump rằng nó đã bị đẩy lùi hàng thập kỷ. Các chuyên gia như Jeffrey Lewis từ Viện Middlebury (Mỹ) đồng ý rằng các cơ sở ngầm quan trọng, đặc biệt là tại Fordow và Isfahan, vẫn có khả năng phục hồi nhanh chóng.

Theo The Conversation, Nhà Trắng bác bỏ đánh giá của DIA, gọi đó là “sai lầm hoàn toàn” và cáo buộc các rò rỉ tình báo là nỗ lực làm mất uy tín của ông Trump. Trong khi đó, các nhà lập pháp Dân chủ bày tỏ nghi ngờ về tính trung thực của chính quyền, đặc biệt sau khi các cuộc họp giao ban mật với Quốc hội bị hủy bỏ mà không có lời giải thích. Sự nghi ngờ lẫn nhau này phản ánh một vấn đề lớn hơn: Sự chính trị hóa thông tin tình báo, làm xói mòn niềm tin và cản trở khả năng đưa ra quyết định sáng suốt về an ninh Trung Đông.

Oanh tạc cơ B-2 (giữa) được Không quân Mỹ sử dụng trong chiến dịch ném bom cơ sở hạt nhân Iran vào tháng 6/2025. Ảnh: Reuters

Không lối thoát?

Hành trình từ thảm kịch Iran Air 655 đến các cuộc không kích năm 2025 là câu chuyện về những cơ hội bị bỏ lỡ và sự thù địch dai dẳng. Mỗi sự kiện - từ vụ bê bối Iran-Contra, rút khỏi JCPOA, ám sát tướng Soleimani, đến các cuộc tấn công hạt nhân - đều làm sâu thêm hố ngăn cách giữa Mỹ và Iran. JCPOA từng mang lại hy vọng về một giải pháp ngoại giao, nhưng sự sụp đổ của nó và các hành động thù địch sau đó đã đẩy hai quốc gia vào một vòng xoáy xung đột dường như không có hồi kết.

Theo The Conversation, việc đánh giá tác động lâu dài của các cuộc không kích năm 2025 là một “bí ẩn” không thể giải đáp hoàn toàn, vì không ai có thể dự đoán cách Iran sẽ thích nghi. Trong khi ông Trump tuyên bố chiến thắng, các nhà phân tích cảnh báo rằng chương trình hạt nhân của Iran, với các cơ sở bí mật và khả năng phục hồi, vẫn là một mối bận tâm lớn.

Mối quan hệ Mỹ-Iran vẫn là một câu đố hóc búa, bị bủa vây bởi những hiểu lầm, tham vọng và sự không tin tưởng. Khi cả hai bên tiếp tục các động thái quân sự và ngoại giao, thế giới vẫn nín thở, chờ đợi liệu một ngày nào đó, một giải pháp hòa bình có thể phá vỡ vòng xoáy bế tắc này, hay liệu căng thẳng sẽ tiếp tục leo thang, đẩy khu vực vào một cuộc xung đột lớn hơn.

Theo Nguyễn Thái - (t/h) (Người đưa tin)

THỊ TẬT - GIÁC HẢI THIỀN SƯ


Thị tật - Giác Hải Thiền Sư

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì,
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ.
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn,
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì.


示疾 - 覺海禪師

春來花蝶善知時
花蝶應須共應期
花蝶本來皆是幻
莫須花蝶向心持


Dạy khi có bệnh
(Dịch thơ: Ngô Tất Tố)

Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,
Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ.
Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo,
Thây hoa mặc bướm để lòng chi.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Giác Hải thiền sư 覺海禪師 họ Nguyễn 阮, người hương Hải Thanh, cùng quê với Thiền sư Không Lộ. Năm sinh, năm mất và tên thật đều chưa rõ. Lúc trẻ làm nghề đánh cá, thường coi thuyền là nhà, lênh đênh trên sông nước, ngao du khắp đó đây. Năm 25 tuổi, bỏ nghề đánh cá đến chùa Hà Trạch, rồi kế thừa sư Không Lộ, trở thành một nhà sư trong thế hệ thứ mười dòng thiền Quan Bích.

Cũng như Từ Đạo Hạnh và Không Lộ, Giác Hải là một nhà sư để lại nhiều truyền thuyết kỳ lạ. Nhưng điều có thể biết chắc là các vua nhà Lý đều tỏ lòng kính trọng ông. Vua Lý Nhân Tông (1072-1128) rất tin phục, xem như bậc thầy. Vua từng làm thơ ca ngợi ông và mỗi khi ra chơi Hải Thanh, bao giờ cũng vào chùa thăm ông trước.

Đến đời Lý Thần Tông (1128-1137), nhiều lần vua triệu vào cung, song ông đều lấy cớ già yếu để từ chối.

Nguồn: Thi Viện



NHỮNG DI SẢN THẾ GIỚI MỚI CỦA UNESCO

Mỗi di sản được UNESCO công nhận không chỉ mang giá trị lịch sử, nghệ thuật mà còn kể những câu chuyện sâu sắc về bản sắc, ký ức và tinh thần nhân loại.


UNESCO vừa công bố danh sách Di sản Thế giới mới trong năm 2025, lựa chọn từ hàng chục hồ sơ khắp toàn cầu. Từ những chứng tích tàn khốc của chế độ Khmer Đỏ ở Campuchia, nghệ thuật khắc đá cổ hàng chục nghìn năm tuổi tại Australia cho đến thành quách quân sự ở Ấn Độ, mỗi di tích đều mang giá trị đặc biệt về lịch sử, văn hóa hoặc tự nhiên.

Yên Tử – Vĩnh Nghiêm – Côn Sơn – Kiếp Bạc (Việt Nam)
  • Loại hình: Văn hóa - Di sản liên tỉnh
  • Địa điểm: Quần thể gần 20 di tích trải dài 3 tỉnh, tổng diện tích lõi 525 ha

Quần thể di tích và cảnh quan Yên Tử - Vĩnh Nghiêm - Côn Sơn - Kiếp Bạc vừa được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới, trở thành di sản thế giới thứ 9 của Việt Nam. Đây là di sản liên tỉnh đầu tiên của cả nước, trải dài qua 3 tỉnh, thành phố gồm Quảng Ninh, Bắc Ninh và Hải Phòng.

Khu di tích gồm 20 điểm tiêu biểu, gắn liền với Thiền phái Trúc Lâm – dòng Phật giáo mang đậm bản sắc Việt do Phật hoàng Trần Nhân Tông sáng lập vào thế kỷ XIII. Từ hàng trăm năm nay, khu vực này đã trở thành trung tâm hành hương Phật giáo lớn, kết hợp hài hòa giữa giá trị tôn giáo, triết lý sống và cảnh quan tự nhiên linh thiêng.

Việc được vinh danh không chỉ góp phần nâng cao vị thế quốc tế cho di tích, mà còn thúc đẩy phát triển du lịch văn hóa - tâm linh một cách bền vững, đi đôi với yêu cầu nâng cao công tác bảo tồn và quản lý di sản.

Các địa điểm tra tấn của Khmer Đỏ (Campuchia)
  • Loại hình: Văn hóa – Tưởng niệm lịch sử
  • Địa điểm: 3 địa điểm, gồm nhà tù Tuol Sleng (S‑21), cánh đồng chết Choeung Ek và trại giam M‑13

Choeung Ek, cách thủ đô Phnom Penh khoảng 15 km, từng là nơi Khmer Đỏ hành quyết và chôn tập thể hàng nghìn người. Địa danh này được biết đến rộng rãi qua bộ phim Cánh đồng chết (1984), dựa trên câu chuyện thật của phóng viên Dith Pran (New York Times) và nhà báo Sydney Schanberg.

Việc công nhận diễn ra đúng dịp 50 năm ngày Khmer Đỏ lên nắm quyền (1975), chế độ đã cướp đi sinh mạng của khoảng 1,7 triệu người Campuchia. Thủ tướng Campuchia Hun Manet gọi đây là dấu mốc nhắc nhở về việc bảo vệ hòa bình.

Theo giới chuyên gia, việc ghi danh không chỉ mang giá trị tưởng niệm, mà còn góp phần giáo dục thế hệ trẻ về tội ác lịch sử và hàn gắn những tổn thương chưa lành của đất nước.

Murujuga Cultural Landscape (Australia)
  • Loại hình: Di sản văn hóa
  • Địa điểm: Bán đảo Burrup, Australia

Bán đảo Burrup ở Tây Australia là nơi lưu giữ hơn một triệu hình khắc đá cổ (petroglyphs) có niên đại tới 50.000 năm. Đây là một trong những bộ sưu tập nghệ thuật khắc đá phong phú nhất hành tinh, kho tư liệu sống động phản ánh thế giới quan, môi trường và đời sống tinh thần của các cộng đồng thổ dân bản địa.

UNESCO ghi nhận Murujuga như một biểu tượng của "sự sáng tạo thiên tài", đồng thời ca ngợi vai trò tiên phong của cộng đồng địa phương trong bảo tồn di sản giữa vùng công nghiệp hóa cao.

Maratha Military Landscapes (Ấn Độ)
  • Loại hình: Di sản văn hóa
  • Địa điểm: Gồm 12 pháo đài trải khắp bang Maharashtra, Ấn Độ

Với 12 pháo đài trải dài khắp bang Maharashtra, quần thể Maratha Military Landscapes là minh chứng nổi bật cho kỹ thuật phòng thủ và kiến trúc quân sự dưới thời vương triều Maratha (thế kỷ XVII-XIX). Các công trình như Raigad hay Panhala được xây dựng hài hòa với địa hình núi đồi, thể hiện tư duy chiến lược vượt thời đại.

Đây là di sản thế giới thứ 44 của Ấn Độ, tiếp tục khẳng định vị thế của quốc gia này như một cường quốc di sản toàn cầu. Đồng thời, việc ghi danh cũng mở ra hướng phát triển cho du lịch lịch sử – quân sự, gắn với giáo dục quốc phòng và lòng tự hào dân tộc.

The Archaeological Ensemble of 17th Century Port Royal (Jamaica)
  • Loại hình: Di sản văn hóa
  • Địa điểm: Cửa vịnh Kingston, cách trung tâm thủ đô Kingston chỉ khoảng 15 km. Ngày nay, phần lớn Port Royal đã bị nhấn chìm dưới biển sau trận động đất năm 1692

Được mệnh danh là "thủ đô hải tặc vùng Caribbean" vào thế kỷ 17, Port Royal (Jamaica) từng là trung tâm thương mại, giao thương và cướp biển khét tiếng. Tuy nhiên, sau trận động đất kinh hoàng năm 1692, phần lớn thành phố bị nhấn chìm dưới đáy biển. Ngày nay, những tàn tích còn lại cả trên đất liền lẫn dưới nước trở thành minh chứng sống động cho một thời kỳ hỗn loạn, thuộc địa hóa và văn hóa biển đặc trưng của khu vực.

Port Royal là một trong số ít di sản thế giới có phần lớn diện tích nằm dưới mặt nước, đánh dấu bước đi quan trọng của UNESCO trong việc mở rộng phạm vi công nhận các di tích khảo cổ học dưới nước – một lĩnh vực còn ít được khai thác. Việc ghi danh Port Royal không chỉ góp phần bảo tồn một trang sử đặc biệt, mà còn mở ra cơ hội phát triển du lịch văn hóa – biển đảo cho vùng Caribbean trong chiến lược mới về du lịch di sản toàn cầu.

Domus de Janas (Sardegna, Italy)
  • Loại hình: Di sản văn hóa
  • Địa điểm: Đảo Sardegna (Sardinia), miền nam Italy

Là quần thể mộ đá thời Đồ đá mới (khoảng năm 4.000–3.000 TCN), Domus de Janas – nghĩa là “ngôi nhà của các nàng tiên” – được đục trực tiếp vào vách đá khắp đảo Sardegna. Với cấu trúc mô phỏng không gian sống của con người, các ngôi mộ này không chỉ thể hiện trình độ kỹ thuật đáng kinh ngạc của người tiền sử, mà còn phản ánh niềm tin sâu sắc về sự hiện diện của linh hồn sau cái chết.

Di sản này mở ra góc nhìn mới về tín ngưỡng tang lễ thời tiền sử châu Âu, cho thấy mối liên hệ tâm linh bền chặt giữa con người cổ đại và thế giới vô hình – một nền văn minh ít được biết đến nhưng giàu chiều sâu văn hóa.

Năm 2025, UNESCO công nhận mới 26 di sản trên toàn thế giới, trong đó 21 di sản thuộc thể loại Văn hóa; 4 di sản Thiên nhiên; và 1 di sản Hỗn hợp.

Quỳnh Trang / Theo: Znews




Friday, August 29, 2025

TRẺ CON THỜI XƯA, CÁI GÌ CŨNG THIẾU NHƯNG "SƯỚNG" HƠN THỜI NAY

Những đứa trẻ còng lưng đeo cặp sách, mở khóa Iphone, Ipad nhoay nhoáy nhưng không biết xới cơm, buộc dây giày. Đó chính là sự khác biệt giữa trẻ con thời nay và những đứa trẻ thời xưa.


Nếu ngày nào bạn cũng ra rả điệp khúc: “Trẻ con chúng mày thời nay sướng, thời xưa của bố mẹ khổ lắm” với con cái của mình thì làm ơn nghĩ lại đi. Thời xa xưa thiếu thốn thật, nhưng chưa chắc trẻ con thời xưa đã khổ bằng đám trẻ thời nay đâu.


Trẻ con thời xưa, cái gì cũng thiếu nhưng “sướng” hơn thời nay

Thời xưa, tối đến là đám trẻ chạy như giặc ra đường. Một góc chơi đồ (một trò đuổi bắt), một góc chơi trốn tìm, góc khác thì ô ăn quan, banh đũa, nhảy dây, song phi… Đường xá thời đó tối đến là vắng hoe, dựng gạch đá bóng giữa đường thi thoảng lắm mới có chiếc xe chạy qua.
Chơi xong, về tới nhà là đứa nào đứa nấy mồ hôi mồ kê toát rã, mệt nhưng vui. Sau này lớn lên, chính những trò chơi tuổi thơ lại là chất keo gắn kết những đứa trẻ năm xưa mỗi khi chúng có dịp gặp lại nhau.


Ô ăn quan – trò chơi “huyền thoại” một thời

Hơn thế nữa, trẻ con thời xưa chơi toàn môn vận động nên sức khỏe đứa nào cũng tốt. Có dính tí mưa, tí gió máy, thậm chí đá bóng sứt chân, dẫm phải mảnh thủy tinh thì cũng vài ngày là liền.

Trẻ con thời nay tối đến là ngồi chết dí trong nhà, nếu không phải è cổ học hết môn trên lớp tới môn phụ đạo, thì cũng cắm mặt vào Iphone, Ipad chơi điện tử hoặc xem hoạt hình.
Hàng xóm láng giềng ít giao lưu, trẻ con chỉ biết duy nhất bố mẹ hoặc cùng lắm thì họ hàng, bạn cùng lớp. Lớn lên, những ký ức tuổi thơ của chúng sẽ là gì đây?

Thi thoảng bố mẹ cho ra công viên chơi, lỡ gặp hôm trái gió trở giời thì y rằng mũi họng lại tậm tịt. Nhẹ thì sổ mũi, viêm họng, nặng thậm chí còn viêm phổi.

Sức đề kháng của trẻ con thời nay kém rất xa so với trẻ con thời xưa một phần vì chúng ít vận động, phần vì các đô thị lớn đều ô nhiễm nặng.


Thời nay, cả thế giới của trẻ thu nhỏ vừa bằng cái Ipad

Trẻ con thời xưa chạy đâu cũng có chỗ chơi. Đường phố bình yên, bố mẹ có thả con ra đường chơi cả tối cũng chẳng cần lo lắng nhiều. Trẻ con thời nay biết chơi ở đâu?

Trẻ con thời nay tí tuổi đầu mà cái gì cũng biết. Iphone của mẹ, Ipad của bố mở nhoay nhoáy, tự tìm vào Youtube, tự tìm phim ngồi xem vài tiếng.Công viên thì xa, lắm tệ nạn. Đường xá thì xe cộ chạy suốt ngày, vỉa hè bị chiếm dụng, ra đường ngay ngáy lo bị bắt cóc. Quanh đi quẩn lại cũng chỉ chui vào trung tâm thương mại, đi một vòng ăn cái xúc xích, ngắm ít quần áo, chơi game rồi về.

Trẻ con thời xưa ngố đặc. Đầu phố có ông mua được cái tivi màu, cả lũ kéo đến xem Tôn Ngộ Không. Ông già rồi nên đi ngủ sớm, dặn lũ trẻ xem xong thì tắt tivi hộ ông. Cả lũ ngố tàu xem xong không biết tắt thế nào, cứ ngồi đực ở đó đến khuya bố mẹ sang gọi mới về.


Ngày ấy, già trẻ lớn bé xem chung chiếc TV là chuyện… bình thường

Nhưng trẻ con thời xưa được bố mẹ dạy kỹ năng sống rất tốt. 5, 6 tuổi là tự biết buộc dây giày, biết dọn mâm phụ bố mẹ, biết xới cơm, biết tự tắm rửa, tự đánh răng. Bố mẹ đi làm cả ngày, ở nhà tự chăm sóc bản thân, không mè nheo.

Trẻ con thời xưa được bố mẹ mua cho món quà gì thi coi như báu vật.Trẻ con thời nay Iphone biết mở, nhưng đôi giày không biết buộc dây. Đi học lớp 1 mà cơm vẫn chưa tự xúc. Đọc vanh vách các kiểu tóc hợp mốt, nhưng tóc thậm chí còn không biết chải, biết buộc.

Trẻ con thời nay dư thừa vật chất, đồ chơi mới dùng được 3 bữa là vứt, đòi cái mới hơn.

Trẻ con thời xưa đến Tết mới có quần áo mới mặc. Quý lắm, ôm bộ quần áo đi ngủ, mặc mãi không chịu thay.

Trẻ con thời nay quần áo đẹp mặc quanh năm. Tết đến có mặc đồ mới hay cũ cũng chẳng quan trọng nữa.

Trẻ con thời xưa thiếu thốn, nhưng cuộc sống luôn đầy màu sắc và những niềm vui đi theo suốt cuộc đời.

Trẻ con thời nay năng động hơn, thông minh hơn, đẹp hơn, nhưng học hành cũng vất vả hơn, hiểu biết về giá trị cuộc sống cũng thấp hơn.

Ai nói thời xưa khổ hơn nào?

Theo: Vietnamnet