Friday, February 28, 2025

PHIM "PHÁ ĐỊA NGỤC" CÓ 18 ĐỀ CỬ GIẢI KIM TƯỢNG


Bộ phim lập kỷ lục doanh thu cũng ghi dấu ấn đặc biệt trong danh sách đề cử giải thưởng điện ảnh quan trọng của Hong Kong (Trung Quốc) trong năm nay.


Vừa qua, giải Kim Tượng lần thứ 43 đã công bố danh sách đề cử rút gọn trước ngày trao giải chính thức là 27/4. Bộ phim có doanh thu phòng vé kỷ lục tại Hong Kong (Trung Quốc) Phá địa ngục giành được 18 đề cử ở hạng mục Phim hay nhất, Đạo diễn xuất sắc nhất, Kịch bản hay nhất, Nam diễn viên chính xuất sắc nhất... Trước đây, năm 2009, bộ phim Thập nguyệt vi thành cũng nhận được số lượng đề cử tương đương.

Phá địa ngục ra mắt khán giả lần đầu vào tháng 11/2024 ở Hong Kong (Trung Quốc). Chưa đầy một tháng sau khi phát hành, phim đã thu được 125 triệu HKD đồng thời nhận được nhiều lời khen của các nhà phê bình. Sau đó phim đã được trình chiếu tại nhiều nơi khác trên thế giới, trong đó có Việt Nam và đều thu được thành tích tốt.

Sư phụ Quách Văn (Hứa Quán Văn đóng) và Ngụy Đạo Sinh (Huỳnh Tử Hoa đóng) có mối duyên đặc biệt trong phim. (Ảnh: HK01)

Bộ phim vừa có chiều sâu văn hóa, vừa mang tính giải trí và cũng rất gần gũi. Cốt truyện có ý nghĩa diễn giải suy nghĩ của con người về chuyện sinh - tử, các diễn viên đều thể hiện xuất sắc nhân vật của mình khiến cho câu chuyện thêm sống động. Phim đã dùng những chi tiết thực tế để mọi người đều có thể soi chiếu câu chuyện của bản thân, gia đình ở đó.

Nghệ sĩ gạo cội Hứa Quán Quăn được đề cử giải Nam diễn viên chính xuất sắc nhất cho biết, hành trình của Phá địa ngục đã vượt xa trí tưởng tượng của anh. Mặc dù ban đầu mọi người nhìn thấy phim kể về câu chuyện của những người làm nghề tổ chức tang lễ có phần u tối. Tuy nhiên từng chi tiết trong phim đều có những ý nghĩa nhất định về ràng buộc xã hội, sự tự do thực sự mà con người luôn khao khát.

Các nghi thức tang lễ ở Hong Kong (Trung Quốc) được miêu tả chi tiết và nhiều ý nghĩa. (Ảnh: HK01)

Với tư cách là nhà sản xuất, đạo diễn và biên kịch, Trần Mậu Hiền chân thành cảm ơn các nhà chuyên môn và khán giả yêu thích điện ảnh đã ghi nhận đóng góp của phim Phá địa ngục. Nhân dịp này, hãng sản xuất cũng cho biết phiên bản đặc biệt của phim sẽ ra mắt ngày 4/4 để tri ân khán giả. Đây là thời điểm Tiết Thanh minh mà các gia đình châu Á thường đi tảo mộ nên rất phù hợp với câu chuyện, bối cảnh trong phim.

G.Trúc (theo HK01) / Theo: VTV



TRÚC CHI TỪ CỬU THỦ KỲ 2 (SƠN ĐÀO HỒNG HOA MÃN THƯỢNG ĐẦU) - LƯU VŨ TÍCH


Trúc chi từ cửu thủ kỳ 2
(Sơn đào hồng hoa mãn thượng đầu)

Sơn đào hồng hoa mãn thượng đầu,
Thục giang xuân thuỷ phách sơn lưu.
Hoa hồng dị suy tự lang ý,
Lưu thuỷ vô hạn tự nùng sầu.


竹枝詞九首其二
(山桃紅花滿上頭)

山桃紅花滿上頭
蜀江春水拍山流
花紅易衰似郎意
流水無限似儂愁
Trúc chi từ chín bài kỳ 2
(Đào núi hoa đỏ khắp trên đầu)
(Dịch thơ: phanlang)

Hoa đào đầu núi sum suê
Thục giang ngọn sóng vỗ về bến xanh
Hồng tàn như thể tình anh
Sầu em bất tận vỡ thành nước sông.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lưu Vũ Tích 劉禹錫 (772-842) tự Mộng Đắc 夢得, người Bành Thành (nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Vân, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Lãng Châu thứ sử. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương, Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào. Tác phẩm có Lưu Vũ Tích tập.

Nguồn: Thi Viện



PHÔ MAI YÊU THÍCH CỦA PHÁP ĐANG ĐỐI MẶT VỚI CUỘC KHỦNG HOẢNG "TUYỆT CHỦNG"

Trong tương lai, có thể chúng ta sẽ không được ăn phô mai Camembert, brie và phô mai xanh nữa do sự suy giảm đa dạng vi sinh vật.


Được sản xuất ở vùng Normandy phía tây bắc nước Pháp dưới nhiều hình thức khác nhau ít nhất là từ thế kỷ 18, loại phô mai - có vị béo ngậy, cay nồng và béo ngậy - hiện được coi là món ăn được yêu thích ở Pháp.

Đó là lý do tại sao những tin tức gần đây về sự “tuyệt chủng" sắp xảy ra của Camembert do một cuộc khủng hoảng nấm đã gây ra sự hoảng sợ cho những người hâm mộ loại phô mai này. Có vẻ như các nhà khoa học đã cảnh báo rằng các vấn đề trong sản xuất công nghiệp pho mai của Pháp có thể gây ra hậu quả lâu dài cho tương lai của nó.

Loại phô mai - có vị béo ngậy, cay nồng và béo ngậy - hiện được coi là món ăn được yêu thích ở Pháp

Loại phô mai này có nguy cơ biến mất do sự suy giảm đa dạng vi sinh vật, theo tuyên bố từ Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS). Đặc biệt là Camembert đang trên bờ vực tuyệt chủng. Loại phô mai mềm, ngậy này được làm từ sữa bò và khởi nguồn từ vùng Camembert, Normandy, phía bắc nước Pháp.

Trong quá khứ, các nhà sản xuất phô mai sử dụng nhiều chủng nấm Penicillium khác nhau để tạo ra Camembert, mang đến hương vị và đặc điểm độc đáo. Tuy nhiên, ngày nay, hầu hết các nhà sản xuất chỉ sử dụng một chủng duy nhất là Penicillium camemberti, dẫn đến sự thiếu hụt đa dạng sinh học và làm giảm hương vị, kết cấu của phô mai.

Loại phô mai này có nguy cơ biến mất do sự suy giảm đa dạng vi sinh vật

Penicillium camemberti không thể sinh sản hữu tính, khiến việc tạo ra các chủng nấm mới trở nên khó khăn. Việc nhân bản vô tính qua nhiều thế hệ đã dẫn đến tích tụ đột biến, làm giảm khả năng sản sinh bào tử của nấm, ảnh hưởng đến sản xuất phô mai Camembert.

Trung tâm Nghiên cứu Khoa học Quốc gia Pháp (CNRS) cho biết trong báo cáo về phát hiện nà : “Phô mai xanh có thể đang bị đe dọa, nhưng tình hình còn tồi tệ hơn nhiều đối với Camembert, vốn đang trên bờ vực tuyệt chủng”. Ở những nơi khác, một dòng tiêu đề khác cảnh báo về một “cuộc khủng hoảng pho mát” đang rình rập, đồng thời nói thêm, “hãy cầu nguyện cho Camembert!”.

Theo CNN, loại phô mai Camembert mà chúng ta biết ngày nay cuối cùng có thể biến mất, tuy không phải là trong một sớm một chiều. Về lâu về dài, những người làm phô mai có cơ hội cứu được loại phô mai này, miễn là người tiêu dùng sẵn lòng chấp nhận.

Đây không phải là lần đầu tiên Camembert phải đối mặt với khủng hoảng sau sự ra đời của P. Camemberti. Sau khi P. Camemberti được phát hiện vào thế kỷ 19, Camembert đã trở nên phổ biến rộng rãi và được yêu thích trên toàn thế giới. Tuy nhiên, vào cuối thế kỷ 19, sự bùng phát của bệnh nấm Penicillium roqueforti đã gây ra thiệt hại nặng nề cho sản xuất Camembert, khiến cho loại phô mai này gần như biến mất.

Camembert vẫn là một loại phô mai được yêu thích và trân trọng trên toàn thế giới

Tất nhiên, việc giữ cho Camembert còn sống cũng có nghĩa là câu chuyện về pho mát cũng được giữ nguyên. Người ta cho rằng, nó được tạo ra bởi một phụ nữ Normandy tên là Marie Harel, người đã học được lời khuyên từ một linh mục chạy trốn từ Brie - một pháo đài khác của nghề làm pho mát Pháp. Sau khi nhận được sự ưu ái của Napoléon, Camembert tiếp tục đóng một vai trò bất ngờ trong Thế chiến thứ nhất và được tưởng niệm bằng một bức tượng.

Bất chấp những khó khăn và khủng hoảng, Camembert vẫn là một loại phô mai được yêu thích và trân trọng trên toàn thế giới. Nhờ hương vị độc đáo, kết cấu mềm mại và giá trị văn hóa cao, Camembert đã trở thành một phần không thể thiếu trong ẩm thực Pháp và nhiều quốc gia khác.

Khánh Linh- Nguồn: CNN News
Theo: travellive
Link tham khảo:
https://www.abc.net.au/news/2024-02-16/camembert-crisis-cheese-culture-experts-explain/103471056



Thursday, February 27, 2025

ÔNG PUTIN ĐỐI ĐẦU 5 TỔNG THỐNG MỸ: HAI THẬP KỶ CĂNG THẲNG KIỂU CHIẾN TRANH LẠNH VÀ BẾ TẮC NGOẠI GIAO

Theo trang Newsweek, kể từ khi nhậm chức vào năm 1999, Tổng thống Nga Vladimir Putin đã trở thành nhân vật then chốt trong nền chính trị toàn cầu.


Nhà lãnh đạo Nga đã làm việc với nhiều đời Tổng thống Mỹ từ ông Bill Clinton đến ông Joe Biden, mỗi mối quan hệ được đặc trưng bởi một loạt thách thức và chính sách ngoại giao riêng.

Kéo dài hơn hai thập kỷ, nhiệm kỳ chính trị của ông Putin xen kẽ với chính quyền của 5 nhà lãnh đạo Mỹ, mỗi người đều đưa ra những chính sách và quan điểm riêng cho mối quan hệ thường xuyên căng thẳng giữa Mỹ và Nga.

Khi ông Putin nhậm chức cho nhiệm kỳ Tổng thống Nga lần thứ 5, Newsweek có bài viết điểm lại các mối quan hệ giữa Điện Kremlin và Nhà Trắng từng ảnh hưởng đến các vấn đề địa chính trị lớn từ an ninh mạng đến chiến tranh ở Ukraine và Trung Đông.

Bill Clinton: Cuộc gặp gỡ đầu tiên (1999-2000)

Tổng thống Mỹ Bill Clinton gặp Tổng thống Nga Vladimir Putin vào ngày 6/9/2000 tại New York, Mỹ. Ảnh: Getty

Thời điểm bắt đầu nhiệm kỳ Tổng thống Nga đầu tiên của ông Putin trùng với những tháng cuối cùng trong nhiệm kỳ Tổng thống Mỹ của ông Bill Clinton. Bất chấp mối quan hệ nồng ấm với Tổng thống Boris Yeltsin - người tiền nhiệm của ông Putin, Tổng thống Clinton kể lại rằng ông thấy cá nhân ông Putin lạnh lùng nhưng có năng lực.

Tổng thống Clinton từng nói rằng ông đã cúp máy sau khi chúc mừng ông Putin trở thành quyền Tổng thống Nga vào năm 1999 và "nghĩ rằng ông ấy đủ cứng rắn để gắn kết nước Nga lại với nhau".

Khi NATO mở rộng về phía đông vào cuối những năm 1990 và xung đột nổ ra ở Kosovo, căng thẳng giữa hai siêu cường ngày càng gia tăng. Tổng thống Clinton đã chỉ trích chiến dịch của Nga ở Chechnya, khiến Tổng thống Putin phản ứng gay gắt.

Gần đây hơn, do cuộc xung đột Nga - Ukraine, ông Clinton đã bác bỏ quan điểm cho rằng chiến dịch quân sự đặc biệt mà Tổng thống Putin phát động là một phản ứng trước sự bành trướng của NATO, vốn bắt đầu từ nhiệm kỳ tổng thống của ông Clinton. Cựu Tổng thống Clinton nói với CNN vào năm 2022 rằng: "Tôi nghĩ chúng tôi đã làm đúng vào đúng thời điểm. Và nếu chúng tôi không làm điều đó, cuộc khủng hoảng này có thể đã xảy ra sớm hơn nữa."

George W. Bush: Từ nhìn thấu "tâm hồn" đến gia tăng căng thẳng (2001-2008)

Tổng thống Nga Vladimir Putin và Tổng thống Mỹ George W. Bush phát biểu trong cuộc họp báo chung tại khu nghỉ dưỡng mùa hè Docharov Ruchei của Tổng thống Nga ở Sochi, Nga, vào ngày 6/4/2008. Ảnh: Getty

Theo Newsweek, ông George W. Bush nhậm chức Tổng thống Mỹ với mục tiêu ổn định quan hệ với Nga. Những cuộc gặp gỡ đầu tiên của ông với nhà lãnh đạo Nga rất nồng ấm, được minh họa bằng tuyên bố nổi tiếng của Tổng thống Bush trong cuộc họp báo vào ngày 16/6/2001 tại Slovenia là đã nhìn vào mắt ông Putin và nhìn thấu "tâm hồn" của ông.

Tuy nhiên, mối quan hệ sau đó trở nên xấu đi do những bất đồng về Chiến tranh Iraq, kế hoạch phòng thủ tên lửa của Mỹ ở Đông Âu và các chính sách nội bộ của Nga, mà Tổng thống Bush coi là ngày càng độc đoán.

Bên cạnh những khoảnh khắc cá nhân nồng ấm, ông Putin cũng có những lời chỉ trích riêng đối với nhiệm kỳ tổng thống của ông Bush. Khi cuộc chiến tranh Iraq trở thành một vũng lầy đối với Mỹ, ông Putin cho biết ông sẽ không bị Tổng thống Mỹ thuyết giảng về dân chủ. Tổng thống Putin từng nói với các phóng viên trong cuộc họp báo chung với Tổng thống Bush rằng: "Chúng tôi không muốn có một nền dân chủ như ở Iraq".

Khi cuộc chiến Nga – Gruzia diễn ra vào những ngày cuối của nhiệm kỳ thứ hai của Tổng thống Bush vào năm 2008, ông đã đối đầu trực tiếp với Tổng thống Putin tại Thế vận hội Bắc Kinh, ông Bush viết trong hồi ký của mình. Ông Bush cho biết, ông đã cảnh báo ông Putin rằng Tổng thống Gruzia là người máu nóng.

Ông Putin trả lời: "Tôi cũng máu nóng".

"Không, Vladimir... Ông là người máu lạnh", ông Bush đáp lại.

Barack Obama: Sự lạnh nhạt ngày càng lớn (2009-2016)

Tổng thống Nga Vladimir Putin (trái) và Tổng thống Mỹ Barack Obama bắt tay trước ống kính trước khi bắt đầu cuộc gặp song phương tại trụ sở Liên Hợp Quốc vào ngày 28/9/2015 tại New York, Mỹ. Ảnh: Getty

Theo Newsweek, ông Barack Obama - người cũng nhậm chức với kế hoạch "tái thiết lập" quan hệ với Nga - nhận thấy mình ngày càng bất hòa với Tổng thống Putin gần như ngay từ ngày đầu tiên làm Tổng thống Mỹ.

Mối quan hệ công việc của ông Obama với ông Putin hầu hết được đánh dấu bằng các biện pháp trừng phạt và bế tắc ngoại giao. Những bất đồng về Syria, Ukraine và những cáo buộc can thiệp bầu cử đã khiến quan hệ song phương đi xuống mức thấp mới.

Mối quan hệ ngoại giao giữa Điện Kremlin và Nhà Trắng hầu như đã sụp đổ sau khi Nga bất ngờ sáp nhập Crimea vào ngày 18/3/2014, diễn ra 8 năm trước chiến dịch quân sự đặc biệt của Nga tại Ukraine và dẫn đến sự tái diễn của căng thẳng kiểu Chiến tranh Lạnh vẫn âm ỉ cho đến ngày nay.

Tổng thống Obama từng mô tả ông Putin là một nhân vật "cứng rắn", đồng thời nói rằng Tổng thống Putin khiến ông nhớ đến những ông trùm chính trị mà bản thân từng gặp trong thời kỳ đầu sự nghiệp ở Chicago.

Về phần mình, Tổng thống Putin chưa bao giờ che giấu sự thiếu thiện cảm của mình đối với Tổng thống Obama. Ông Putin từng nói: "Tổng thống Obama chưa bao giờ được người dân Mỹ bình chọn là có thiện cảm với Nga..."

Donald Trump: Tình bạn gây tranh cãi (2017-2020)

Tổng thống Mỹ Donald Trump và Tổng thống Nga Vladimir Putin tại Hội nghị APEC ở Đà Nẵng vào ngày 11/11/2017. Ảnh: Getty

Theo Newsweek, nhiệm kỳ tổng thống của ông Donald Trump được đánh dấu bằng tranh cãi ngay từ đầu về cáo buộc Nga can thiệp vào cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ năm 2016. Nhưng hai ông Trump và Putin dường như có mối quan hệ cá nhân nồng ấm hơn một chút.

Mối quan hệ được đánh dấu bởi sự ngưỡng mộ của công chúng. Tổng thống Putin - người từng gọi ông Trump là "cá nhân đầy màu sắc" - bày tỏ sẵn sàng làm việc với ông Trump ngay từ đầu.

Sự tương tác của họ được đánh dấu bằng một loạt cuộc gặp cấp cao, bao gồm cả một hội nghị thượng đỉnh đáng chú ý ở Helsinki (Phần Lan) vào tháng 7/2018 - nơi Tổng thống Trump dường như đứng về phía Tổng thống Putin trước những cáo buộc liên quan đến can thiệp bầu cử Mỹ. Cuộc gặp đó đã gây náo động ở Mỹ, khi những người chỉ trích cáo buộc Tổng thống Trump làm suy yếu lợi ích của Mỹ.

Về phần mình, Tổng thống Putin dường như đánh giá cao việc Tổng thống Trump sẵn sàng bỏ qua các chuẩn mực ngoại giao thông thường, nhưng ông Putin vẫn thận trọng, nhận thức được sự bất ổn chính trị mà nhiệm kỳ tổng thống của ông Trump mang lại.

Joe Biden: Trở lại Chiến tranh Lạnh (2021-2024)

Tổng thống Mỹ Joe Biden (phải) và Tổng thống Nga Vladimir Putin gặp nhau tại Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Nga vào ngày 16/6/2021 tại Geneva, Thụy Sĩ. Ảnh: Getty

Khi ông Joe Biden nhậm chức, quan hệ Mỹ - Nga quay trở lại chiều hướng đối đầu hơn - kế thừa từ chính quyền cựu Tổng thống Obama - với việc ông Biden công khai chỉ trích ông Putin và có lập trường cứng rắn về các vấn đề như nhân quyền và chủ quyền của Ukraine.

Chính quyền Tổng thống Biden cùng với các đồng minh phương Tây cũng đã áp đặt các lệnh trừng phạt nhằm vào Nga và cá nhân ông Putin kể từ khi chiến sự tại Ukraine bùng nổ.

Cuộc gặp cuối cùng giữa hai nhà lãnh đạo diễn ra vào năm 2021 - trước cuộc xung đột Ukraine - tại hội nghị thượng đỉnh ở Geneva, Thụy Sĩ. Cả hai nhà lãnh đạo đều đồng ý vào thời điểm đó rằng mối quan hệ hai nước đang ở "mức thấp".

Và mối quan hệ này chỉ đi xuống từ đó.

Hữu Hiền / Theo: ĐSPL



BÍ ẨN VỀ NHÓM MÁU HIẾM NHẤT Ở VIỆT NAM: AI SỞ HỮU PHẢI ĐẶC BIỆT CẨN TRỌNG

Như thế nào mới được xem là một nhóm máu hiếm? Ở Việt Nam, đâu là nhóm máu quý nhất, hiếm nhất?


Bí ẩn về nhóm máu hiếm nhất ở Việt Nam

Kể từ năm 1901, y học thế giới thay đổi chóng mặt sau khi Karl Landsteiner phát hiện ra hệ nhóm máu ABO. Đến năm 1940, hệ nhóm máu Rh lại tiếp tục được Karl Landsteiner cùng các nhà khoa học khác tìm ra. Từ đó, thực hành truyền máu càng được chú ý.

Sau này, nhiều hệ nhóm máu hồng cầu khác như Rh, Kell, Kidd, Duffy, MNS, Lewis… được tìm ra. Mỗi hệ nhóm máu này lại có một hoặc nhiều kháng nguyên. Trong đó, Rh được đánh giá là hệ nhóm máu phức tạp nhất với hơn 50 kháng nguyên (kháng nguyên D là phổ biến nhất).

Các nhóm máu trong hệ nhóm máu ABO

Tính đến 6/2021, có 43 hệ nhóm máu hồng cầu và 376 kháng nguyên nhóm máu khác nhau được Hội Truyền máu Quốc tế công nhận. Hội này cũng đã đề ra quy ước về nhóm máu hiếm. Theo đó, một kháng nguyên nhóm máu hay kiểu hình (gọi tắt là nhóm máu) có tần suất xuất hiện dưới 0,1% được gọi là nhóm máu hiếm và dưới 0,01% được gọi là nhóm máu rất hiếm. Vậy nên mới có chuyện, một nhóm máu có thể hiếm ở quốc gia này, nhưng chưa chắc đã hiếm ở quốc gia, khu vực khác.

Theo Viện Huyết học – Truyền máu Trung ương, 45% dân số nước ta mang nhóm máu O, 20% mang nhóm máu A, 30% mang nhóm máu B và chỉ 5% mang nhóm máu AB.

Ảnh minh họa

Nhiều người vẫn nghĩ AB sẽ là nhóm máu hiếm nhất Việt Nam vì tỉ lệ của nó thấp hơn các nhóm máu khác trong hệ ABO. Nhưng thực tế, Rh(D) âm mới là hiếm nhất. Nó phù hợp với quy ước của Hội Truyền máu Quốc tế khi chỉ chiếm gần 0,1% dân số nước ta. Nhóm AB chỉ hiếm khi nó là nhóm AB Rh(D) âm.

Có một điều thú vị là, ở Việt Nam nhóm máu hiếm thường thấy là Rh(D) âm nhưng châu Âu, châu Mỹ, châu Úc thì Rh(D) âm chiếm 15% – 40% dân số.

Bảng quy luật cho, nhận máu trong hệ nhóm máu ABO

Dù vậy, nếu dựa trên quy luật cho nhận thì nhóm máu O Rh- mới là nhóm gặp nhiều rủi ro nhất. Bởi lẽ nó sẽ chỉ nhận được máu từ nhóm O Rh-. Đây là nhóm máu thường bị thiếu trong các bệnh viện vì nhu cầu cao, thường được dùng trong các trường hợp khẩn cấp, khi không có thời gian để xác định nhóm máu của bệnh nhân. Người nhóm máu O được đặt biệt danh là “người hiến máu” hay “nhóm máu cho đi” vì máu của họ có thể sử dụng cho bất cứ ai.

S.H (Theo Sở Hữu Trí Tuệ và Sáng Tạo)
Link tham khảo:



"EM BẢO ANH ĐI ĐI..." - SILVA BARUNAKOVA KAPUTIKIAN

Ai là dịch giả bài thơ lạ lùng “Em bảo anh đi đi. Sao anh không đứng lại" từng một thời nổi tiếng trên internet?


Rất nhiều người Việt Nam biết bài thơ tình “Em bảo anh đi đi. Sao anh không đứng lại”, vậy mà cũng gần như chừng ấy người không biết tác giả lẫn dịch giả của bài thơ ấy. Đấy quả là một việc quá lạ, vào thời điểm ngỡ như “không có gì mới dưới ánh mặt trời”.

“Em bảo anh đi đi
Sao anh không đứng lại
Em bảo anh đừng đợi
Sao anh vội về ngay…

Lời nói gió thoảng bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế
Chẳng nhìn vào mắt em!”


Đây là một bài thơ đã quá nổi tiếng. Người ta có thể đọc nó làu làu. Nhạc sĩ Vũ Thành An thậm chí đã phổ nó thành “Bài không tên số 50”, Duy Quang và Trần Thu Hà đã thâu nó vào đĩa hát, nam thanh nữ tú vào thuở chưa có Internet đã chép vào sổ thơ, rồi chép tặng cho nhau. Vậy mà đến tận bây giờ, người ta lại chẳng tỏ tường gốc tích của bài thơ đó.

Giọng điệu của bài thơ rõ ràng là nữ. Ấy vậy mà một thời gian, người ta vẫn gán ghép nó cho những nhà thơ nam như Evgueni Evtushenko hay lạ lùng hơn, Aleksandr Sergeyevich Pushkin. Sau một hồi tra cứu, người viết đã có thể xác nhận bài thơ này là của Silva Kaputikian, một nữ thi sĩ người Armenia rất nổi tiếng ở nước bà.

Bà Silva Kaputikian sinh ngày 5/1/1919 trong một gia đình giáo viên. Bà bắt đầu in thơ từ năm 1933 và là tác giả của hơn 60 tập sách/thơ, được xuất bản bởi tiếng Nga lẫn Armenia. Thơ bà từng được dịch ra nhiều thứ tiếng trên thế giới. Tháng 2/1988, khi tiếp bà tại điện Kremlin, Tổng thống Liên Xô Mikhail Gorbachev nồng nhiệt thừa nhận vợ mình, bà Raisa, cực kỳ mê thơ của bà. Thơ của Silva Kaputikian được đưa vào chương trình giáo dục tại Armenia. Ở thành phố Yerevan, nơi bà sinh ra, có trường học và đường mang tên bà.

Ngay đầu năm nay thôi, để ghi nhận những thành tựu của bà trong văn chương lẫn xã hội, Armenia đã phát hành con tem có hình bà. Trong hàng trăm bài thơ của bà, có bài thơ “bí ẩn” mà chúng ta đang nói đến, nhan đề: “Em bảo anh: Đi đi”

Nhà thơ Silva Kaputikian

Bài thơ ấy, nguyên gốc tiếng Nga như sau:

"Да, я сказала: “Уходи”

Да, я сказала: “Уходи.” –
Но почему ты не остался?
Сказала я: “Прощай, не жди”, –
Но как же ты со мной расстался?

Моим словам наперекор,
Глаза мне застилали слезы.
Зачем доверился словам?
Зачем глазам не доверялся?".

Dịch Nghĩa:

"Vâng, em bảo: "Đi chỗ khác đi"
Nhưng sao anh không ở lại?
Em nói: "Tạm biệt, đừng chờ đợi"
Nhưng tại sao anh chia tay?

Trái ngược lời nói của em
Mắt em đầy nước mắt.
Tại sao anh tin lời em nói?
Tại sao anh không tin đôi mắt em?".

Và có rất nhiều bản dịch cho bài thơ này, với nguồn gốc và xác nhận rõ ràng của dịch giả. Ví dụ như bản dịch dưới đây của Nguyễn Viết Thắng, một dịch giả người Hà Tĩnh chuyên dịch thơ Nga.

"EM BẢO ANH ĐI ĐI

Em bảo anh: “Đi đi!”
Sao anh không ở lại?
Em bảo anh: “Đừng đợi!”
Sao anh lại ra đi?

Những lời em trái ngược
Mắt em lệ đầy vơi
Tại sao anh tin lời?
Sao không nhìn đôi mắt?

Một bản dịch khác, của Thái Bá Tân, như sau:

Em bảo anh: Đi đi!
Sao anh không đứng lại?
Em bảo: Thôi, ích gì...
Ai ngờ anh xa mãi.

Đôi mắt em, lặng im.
Nhưng mắt em nói thật.
Sao anh tin lời em,
Mà không tin đôi mắt?".

Một bản dịch khác, của Huyền Anh:

"Em bảo: anh đi đi!
Sao anh không ở lại ?
Em bảo: đợi chờ chi!
Sao anh xa em mãi ?

Lời em buông cứng cỏi,
Lệ em trào mắt đen.
Sao anh tin lời nói,
Mà không nhìn mắt em?".

Đọc một loạt 3 bản dịch vừa nêu, có lẽ bạn đọc cũng đồng ý: bản dịch đầu tiên của dịch giả “bí ẩn” vẫn hay nhất. Nó toát ra được nét đáng yêu cực kỳ nữ tính. Đặc biệt là ở 4 câu sau:

“Lời nói gió thoảng bay
Đôi mắt huyền đẫm lệ
Sao mà anh ngốc thế
Chẳng nhìn vào mắt em!”.

Chữ “ngốc” không có trong bản gốc, mà là một sáng tạo của dịch giả. Sự sáng tạo này, tùy bạn theo trường phái dịch thuật nào, mà thích hay không thích. Nhưng rõ ràng khi đặt vào toàn bài, nó lại rất đắt, bởi nó là lời mắng yêu, rất phù hợp với không khí toàn bài thơ.


“Bài không tên số 50” của nhạc sĩ Vũ Thành An đã lấy hoàn toàn bản dịch này. Sau đó, Vũ Thành An còn viết thêm vài khổ cho bài nhạc dày dặn hơn. Điều lạ lùng là chính nhạc sĩ cũng không biết bài thơ đó của ai. Sách Tình khúc Vũ Thành An (NXB Văn Hóa – Văn Nghệ TP.HCM, in năm 2015) có lời nói đầu của ban biên soạn: "Tuyển tập được xuất bản tuyệt đối trung thành với ấn bản do chính tác giả ký âm và ghi lời hát".

Khi tìm đến “Bài không tên số 50”, chúng ta thấy sách ghi: “Cảm hứng từ một câu thơ vô danh”. Nghĩa là vào thời cũ Vũ Thành An phổ nhạc, bài thơ này đã nổi tiếng lắm rồi, một sự nổi tiếng bí ẩn vì chả ai biết tác giả của nó là ai.

Tạp chí Kiến Thức Ngày Nay 974 (1-9-2017) có một bài viết rất đáng chú ý của tác giả Phan Xi Păng. Theo tác giả, bài thơ bí ẩn kia không chỉ được Vũ Thành An soạn thành ca khúc, mà còn được nhạc sĩ Văn Ký viết thành một ca khúc khác. Văn Ký là tác giả của nhiều ca khúc như Bài ca hy vọng, Nha Trang mùa thu lại về, Hạ Long chiều tím, Trời Hà Nội xanh… Tác giả khẳng định ông Văn Ký đã nói với mình như sau:

- Phanxipăng à, ca khúc Sao mà anh ngốc thế! do tôi soạn năm 1993, phổ thơ Kaputikyan, bản Việt dịch của Hồ Ngọc Đại đấy.

Hồ Ngọc Đại ở đây chính là vị Giáo sư đã nổi tiếng như cồn sau cuộc tranh luận tốn nhiều giấy mực về công nghệ giáo dục hồi năm ngoái. Để chứng minh cho luận điểm của mình, tác giả Phanxipăng còn cẩn thận chụp lại một trang trong cuốn Tuyển tập ca khúc Bài ca hy vọng (NXB Hà Nội, 2015) của Văn Ký. Trang ấy ghi lại bản nhạc rất rõ ràng: “Thơ: KAPUXTIAN. Dịch thơ: Hồ Ngọc Đại”.


Nhưng hôm qua, tôi gọi điện trực tiếp cho giáo sư Hồ Ngọc Đại, ông khẳng định mình chưa từng dịch một bài thơ nào như thế. Ông cũng bảo mình chưa nghe đến tên nhà thơ người Armenia lần nào!

Lại có nguồn bảo người dịch bài thơ trên là Xuân Diệu. Tôi càng cảm thấy lạ, bởi vì một cái tên lừng lẫy như Xuân Diệu, bài thơ vừa dịch thì đương thời đã lập tức “viral” như thế, sao người ta có thể tự dưng bỏ mất cái tên của ông ở phần dịch thơ được.

Vậy rốt cục, dịch phẩm tuyệt vời của bài thơ “Em bảo anh đi đi” rốt cục là ai? Tại sao nó lại có một đời sống dai dẳng mà rất ít người biết về nó? Đấy là một dịch giả tài tử nào đó dịch rồi quên ghi tên, hay của một văn nhân nổi tiếng nào mà tên dịch giả đã bị rơi rụng theo thời gian?

Nhưng chí ít chúng ta cũng đã biết được: tác giả của nó là một nhà thơ nữ, lừng danh người Armenia. Và nó đã nói lên thuộc tính muôn đời của phái nữ khi yêu: Nói vậy chứ… không phải vậy!

Bình Bồng Bột / Theo: kenh14
Nguồn: Trí Thức Trẻ



LÀM GÌ CÒN NHIỀU RỪNG MÀ GỌI LÀ "ĐẠI NGÀN TÂY NGUYÊN" - PHẦN CUỐI: DÂN LÀNG BẢO VỆ RỪNG THIÊN


1. RỪNG LỚN

Men theo con dốc nhỏ dựng đứng giữa cánh rừng rậm rạp bóng cây cổ thụ, già làng Y Wih Êban (68 tuổi, trưởng buôn K’mrơng Prông B, xã Ea Tu, TP Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk) dẫn lối chúng tối xuống khu vực bến nước của buôn. Tương truyền, cách đây chừng 200 năm, tổ tiên của già làng Y Wih Êban trên hành trình di cư đã phát hiện ra bến nước này.

“Ngay tại vị trí chúng ta đang đứng, tổ tiên tôi đã từng dâng lễ cúng thần nước, thần rừng để chính thức lập buôn mới, lấy tên K’mrơng Prông B. Theo quan niệm của người Ê Đê, điều tiên quyết trước khi quyết định lập làng mới là phải chọn cho được khu đất có bến nước", già làng Y Wih Êban chia sẻ.


Trải qua hàng trăm năm, từ buổi đầu sơ khai lập làng chỉ với vỏn vẹn 20 hộ, đến nay, cả buôn có 178 hộ (gần 1.300 nhân khẩu). Song, dù là nhập cư hay dân bản địa, người Ê Đê ở K’mrơng Prông B vẫn gìn giữ tán rừng nguyên sinh như báu vật.

Hương ước của làng nêu rõ, ai chặt một cây ở cánh rừng thuộc khu bến nước sẽ bị buộc phải nộp một con trâu hoặc một con bò cùng vài vò rượu cần. Ngoài ra, trước toàn thể bà con trong buôn, người vi phạm phải cúi đầu xin lỗi, hứa không tái phạm.

Già làng Y Wih Êban cho hay, trải qua 200 năm kể từ khi lập buôn, địa phương mới chỉ phát hiện và xử lý một trường hợp duy nhất vi phạm.


“Chuyện xảy ra cách đây cũng gần 30 năm rồi. Khi ấy, một người trong buôn trót dại cưa trộm cây gỗ trong rừng để làm đòn tay nhà và bị bà con đi làm rẫy bắt quả tang. Để chuộc lỗi, người này đã mang một con bò, mấy vò rượu ra bến nước làm lễ cúng, xin các thần linh đừng tức giận mà làm tắt mạch nước. Trước sự chứng kiến của toàn thể đồng bào trong buôn, người này cúi đầu nhận lỗi, hứa không tái phạm”, già Êban nhớ lại.

Cũng theo vị già làng, những năm trước, thỉnh thoảng xuất hiện người lạ mặt tới lân la chặt phá gỗ. Song trước sự giám sát chặt chẽ của bà con trong buôn, hành vi “tàn sát” rừng tại K’mrơng Prông B chưa từng xảy ra.

Nhờ sự chung tay bảo vệ của buôn làng, cánh rừng rộng 2,5 ha ở K’mrơng Prông B đến nay vẫn còn nguyên vẹn, nhiều cây cổ thụ có tuổi đời lên tới hàng trăm năm.

Cây sao 150 năm tuổi ngay bên bến nước dù đã chết khô từ 10 năm nay, thậm chí có người ngoài tìm tới mua với giá 50 triệu đồng nhưng bà con trong buôn cương quyết không bán. Bà lo sợ việc đốn hạ cây sẽ mang tới điều không may. Rừng là để nuôi dưỡng chứ không phải đem ra chặt phá. Bởi vậy, người dân ở đây dù có thiếu cây gỗ làm nhà cũng lặn lội tìm mua chứ nhất quyết không chặt cây rừng ở bến nước.

2. HƠN 30 NĂM CANH GIỮ RỪNG GIÁNG HƯƠNG

Một trong những lý do được nhà chức trách đưa ra để giải thích việc mất rừng ở Gia Lai là diện tích lớn mà lực lượng mỏng. Thế nhưng, tại làng Grôn (xã Ia Kriêng, Đức Cơ), khu rừng giáng hương gần 1.000 cây suốt hơn 30 năm qua lại không mất cây nào. Đó là nhờ sự chung tay bảo vệ của dân địa phương mà cụ thể là các ông Rơ Mah Le, Nguyễn Hữu Mạnh và Rơ Mah Kem.

Ông Le kể, từ năm 1990, khi phong trào trồng cây cao su rộ lên, toàn bộ diện tích rừng ở làng Grôn và làng Gà thời đó là rừng nghèo, đồi núi trọc đã được phê duyệt chuyển đổi sang trồng cao su. Khi những chiếc máy ủi đến san phẳng cánh rừng nghèo cằn cỗi, người ta phát hiện tại xã Ia Kriêng có một khoảnh rừng cây giáng hương.

Ngay lập tức, ông Le họp lãnh đạo xã bàn phương án bảo tồn rừng giáng hương đặc hữu. “Khi nghe tôi đề xuất phương án giữ lại rừng giáng hương, anh em cán bộ xã hưởng ứng nhiệt tình. Ngay sau đó, tôi cùng với lực lượng công an xã, địa chính, phụ nữ vào đây phát quang cây cối xung quanh, cắm bảng thông báo rừng giáng hương thuộc sự quản lý của UBND xã. Tiếp đến, tôi vận động dân làng Grôn nhận canh gác, bảo vệ. Nhờ đó mà khu rừng được giữ nguyên vẹn cho hôm nay”, ông Le nhớ lại.


Ban đầu khu rừng rộng 3 ha này có 853 cây giáng hương, một cây gỗ trắc và một số ít cây dầu, bình linh, bằng lăng… Trải qua hơn 30 năm dưới sự bảo vệ của ông Le và người dân làng Grôn, cánh rừng giáng hương đã phát triển lên gần 1.000 cây lớn, nhỏ.

Cây giáng hương được đánh số thứ tự, kể cả những cây nhỏ nhất. Theo ông Le, làm như vậy sẽ tiện cho việc giám sát, đề phòng bị mất trộm. Lâm tặc đột nhập vào rừng cũng khó bề chạy thoát vì ở đây chỉ có con đường độc đạo, đi ngang nhà 50 hộ dân người Gia Rai ở làng Grôn.

Từ năm 2019, ông Rơ Mah Le nghỉ hưu. Lúc này, ông bày tỏ nguyện vọng được tiếp tục công việc bảo vệ rừng giáng hương, cánh rừng mà ông tâm huyết gìn giữ hàng chục năm nay.

Để giúp ông Le, xã cắt cử thêm ông Rơ Mah Kem và ông Nguyễn Hữu Mạnh thay phiên nhau giữ rừng, mỗi người 2 - 3 ngày/tuần. Tiền công gác rừng không đáng là bao nhưng ai cũng tình nguyện ăn ngủ, "bám rừng".

Có thời gian dài gắn bó với cây giáng hương, ông Rơ Mah Kem cho biết: "Từ xưa, chúng tôi bảo vệ rừng giáng hương này đều không có phụ cấp gì. Lúc đó, tôi cùng dân làng thay phiên nhau bảo vệ, tuần tra cánh rừng. Gần đây, nhận thấy giá trị to lớn của cánh rừng giáng hương, Nhà nước cũng có những chính sách hỗ trợ cho những người giữ rừng như chúng tôi, mỗi tháng 1 - 2 triệu đồng".

Theo ông Nguyễn Hữu Mạnh, với người J’rai ở Ia Kriêng, rừng hương như một báu vật, một món ăn tinh thần không gì sánh bằng. Tuy nhiên khi biết tỉnh Gia Lai xây dựng Quảng trường Bác Hồ với các dân tộc Tây Nguyên (đặt tại TP Pleiku), người dân Ia Kriêng đã không ngần ngại tặng 20 cây giáng hương từ khu rừng để trồng ở khu vực quảng trường.

3. GIÀ LÀNG GIỮ RỪNG: BIDOUP - NÚI BÀ

Gần 4 thập kỷ qua, già Cil Ju Ha Giản (65 tuổi, dân tộc K’Ho, thôn Liêng Bông, xã Đa Nhim, Lạc Dương, Lâm Đồng), được bà con trong vùng Bidoup - Núi Bà nhắc đến như một minh chứng cho những người Cil yêu rừng.

Trước năm 1977, nhà già lọt thỏm giữa rừng Bidoup. Mỗi mùa trăng, già đều phải gánh củi, vượt qua cánh rừng nguyên sinh này xuống xuôi đổi lấy muối về ăn.

Sau này, rừng Bidoup bị “ăn mòn” với nhiều lý do. Nơi người Cil ở từ vùng lõi dần trở thành bìa rừng. Lúc này, đàn ông người Cil ở xã Đa Nhim đều tình nguyện tham gia công tác liên quan đến giữ rừng, trong đó có già Ha Giản.

“Khu vực rừng tại xã Đa Nhim này chia thành 2 loại: Rừng thấp và rừng cao (rừng thông và rừng tạp nguyên sinh). Trước kia rừng ở đây không thiếu một loài thú nào cả, đi ra khỏi nhà là gặp, nhưng hơn 30 năm trở lại đây, rừng dần dần bị khai thác, nhường đất trồng cây cà phê, cao su… khiến cho diện tích rừng bị thu hẹp dần”, già Ha Giản nói.


Già Ha Giản đã ở cái tuổi 65, nhưng bàn chân ông vẫn cứng như gỗ lim, đôi mắt vẫn sắc như mắt hổ. Hàng chục năm qua, già một mình theo dõi các dấu hiệu tàn phá rừng, sau đó báo cáo và phối hợp với chính quyền, bà con ngăn chặn.

Già vận động bà con nhận khoán bảo vệ rừng và trồng rừng mới. Những cánh rừng trước kia bị tàn phá bây giờ đã được thảm xanh.

Ở huyện Lạc Dương, những người yêu rừng, giữ rừng như già Ha Giản không phải là cá biệt. Chúng tôi dừng chân bên ngôi làng dưới chân Núi Bà tại thôn Đưng K’si, xã Đạ Chais. Phía trên những ngôi nhà nhỏ ấy là cánh rừng ngút ngàn mờ ảo trong lớp sương mù.

Căn nhà nhỏ mong manh dưới chân núi là mái ẩm của già Bon To Sa Nga. Già cũng là người K’Ho như già Ha Giản. Già góa vợ, sống cùng các con trai.

Chỗ quen thuộc của già Sa Nga là bệ cửa trong căn bếp cuối nhà - nơi già ngồi trầm tư nghỉ ngơi sau mỗi chuyến đi rừng, đi rẫy về. Vị trí ấy phóng tầm mắt xa xăm ra những cánh rừng quen thuộc.


Già kể, trước năm 1975, rừng vào đến tận sát mép cửa sau chỗ già ngồi, rừng mênh mông lắm. Tuy nhiên, bà con cứ phá rừng làm rẫy, cứ làm một chỗ bỏ một chỗ, đi tới đâu đốt rừng tới ấy, đốt tràn lan. Không chỉ vậy, bà con chặt cây lấy gỗ bất kể bao nhiêu tuổi, gỗ quý hay không quý về làm nhà, làm cửa, làm hàng rào..

Khi đi tuần tra luôn có tổ trưởng, nhân viên trạm, hoặc đi có máy đánh vị trí, không đi qua loa một mình. Tất cả đều làm theo hợp đồng, nếu ai vi phạm sẽ bị cắt hợp đồng, vi phạm nặng thì bị xử phạt.

Nguồn: VTCNews

Wednesday, February 26, 2025

"NỘI CÔNG NGOẠI QUỐC" LÀ GÌ?

Tối nay ngồi xem chương trình "Ai là triệu phú" phát sóng ngày 25/02/2025, có một câu hỏi mà tôi hoàn toàn chưa hề biết hay nghe qua từ trước đến nay. Câu hỏi như thế này: "Cụm từ Nội công ngoại quốc thường áp dủng trong lĩnh vực gì? - A: Quân sự - B: Ngoại giao - C: Thư pháp - D: Kiến trúc.

Ảnh chụp màn hình trên Youtube

Người chơi phải nhờ đến 3 quyền trợ giúp, đến cả 2 nhà thông thái cũng không biết và cuối cùng nhờ điện thoại cho người thân câu hỏi mới được trả lời chính xác. Tôi nghĩ là chắc chắn có nhiều người chưa tùng nghe qua nên lên mạng tìm hiểu thêm. (LKH)

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA MÔ HÌNH KIẾN TRÚC NỘI CÔNG NGOẠI QUỐC ĐIỂN HÌNH CỦA CHÙA VIỆT Ở BẮC BỘ

Được hình thành và phát triển hoàn thiện vào thế kỷ 17, kiểu thức kiến trúc “Nội công, ngoại quốc” cho đến ngày nay đã trở thành một kiểu thức căn bản nhất của các ngôi chùa Việt ở Bắc Bộ. Bài viết này bàn về các dạng thức kiến trúc Nội công ngoại quốc trong các ngôi chùa cổ ở Bắc Bộ trong sự hình thành phát triển cùng các hình thức biến thể tùy theo địa hình, địa thế của các ngôi chùa. Các biến thể đa dạng đó cho thấy tính linh hoạt của mô hình kiến trúc gỗ cổ xưa trong nỗ lực mở rộng không gian tương thích với nhu cầu sử dụng và nhu cầu tâm linh. Cho đến nay, mô hình mặt bằng này vẫn là mô hình được ưa chuộng bởi nó tạo nên những khoảng không gian đóng mở liên hoàn trong kiến trúc. Nghiên cứu mô hình này cũng là cách thức chúng ta hướng đến việc bảo tồn, trùng tu, phục dựng hoặc xây mới các không gian kiến trúc có tính hoài cổ cho các ngôi chùa hiện đại ngày nay.

Chùa Phật Tích

Trong quá trình hình thành và phát triển kiến trúc các ngôi chùa Việt ở Bắc Bộ, đến thế kỷ 17, ta có thể thấy rằng mô hình kiến trúc Nội công ngoại quốc đã phát triển một cách kiện toàn. Mô hình này được tìm thấy trong hầu hết các ngôi chùa lớn nhỏ, các tổ đình Phật giáo ở miền Bắc. Tùy theo kích thước qui mô các ngôi chùa lớn hay nhỏ mà mô hình này được kiến tạo tùy theo mục đích sử dụng với những thành phần kiến trúc khác nhau. Tuy nhiên, “Nội công ngoại quốc” là thuật ngữ chủ yếu để chỉ không gian kiến trúc chính của ngôi chùa, còn các thành phần kiến trúc khác, có thể chỉ được xem như các công trình có tính phụ trợ.

Mô hình kiến trúc Nội công ngoại quốc là cách gọi theo lối triết tự từ chữ Hán, “Nội công” là dạng mặt bằng hình chữ công (工), còn “Ngoại quốc” (国) là chiết tự từ đường bao của chữ Quốc (囗) . Cách triết tự này lấy ra từ hình thái khái quát của kiến trúc nóc mái trong tổng thể một công trình. Chữ Công trong ngôi chùa thường được tạo nên bởi các nóc mái của tòa Tiền đường + tòa Thiêu hương + tòa Thượng điện. Trong đó Tiền đường thường có kết cấu 5-7 gian, tòa Thiêu hương/ ống muống 1-3 gian và Thượng điện từ 1-3 gian. Chữ “Quốc” được tạo nên bởi Tiền đường, hai dãy hành lang 2 bên và nhà tổ + tăng/ni ở hậu đường của ngôi chùa, tạo thành một vòng khép kín. Như vậy chữ Công và chữ Quốc trong một ngôi chùa thường có chung nhau một “nét chữ” được tạo ra bởi nóc mái nhà Tiền đường. Tuy nhiên thể loại kiến trúc “Nội công ngoại quốc” có một hình thức khá linh hoạt trong các ngôi chùa Việt.

Từ quá trình phát triển kiến trúc chùa Việt ở Bắc Bộ, có thể chia các mô hình kiến trúc Nội công ngoại quốc ra làm 3 loại theo kết cấu và qui mô của mỗi ngôi chùa:
  • Ngôi chùa Nội công ngoại quốc cơ bản /thông thường;

  • Ngôi chùa Nội công ngoại quốc phức hợp;

  • Ngôi chùa Nội công ngoại quốc giản lược
Có thể thấy rằng các mô hình thể loại này không nhất thành, bất biến một cách cứng nhắc mà tùy theo địa thế đất, cảnh quan môi trường, phong thủy của mỗi ngôi chùa cụ thể hình thức kiến trúc này đã có những đáp ứng linh hoạt. Cho dù là những ngôi chùa được dựng trên núi hay ngôi chùa ở vùng đồng bằng thì mô hình kiến trúc “Nội công ngoại quốc” trên dường như vẫn đáp ứng được nhu cầu xây dựng nên một không gian tâm linh cho các sinh hoạt Phật giáo của các chư tôn đức, tăng ni. Chính sự linh hoạt này đã kiến tạo cho ngôi chùa Việt ở Bắc Bộ những dáng nét phong phú và đa dạng trong sự thống nhất của một kiểu dạng kiến trúc đặc trưng.

Chùa Vĩnh Nghiêm, Bắc Giang

Ngôi chùa có kết cấu Nội công ngoại quốc cơ bản/ thông thường

Với các ngôi chùa Nội công ngoại quốc thông thường, kết cấu của ngôi chùa cơ bản như được mô tả ở trên gồm nóc mái: Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện là chữ Công, dãy hành lang cùng nhà tổ, tăng phía sau tạo thành đường bao chữ Quốc khép kín. Riêng kết cấu của chữ Công được dựng theo hình thức là kiến trúc có sự bắc cầu từ hai gian giữa của tòa Thượng điện và tòa Tiền đường (làm thành hai nét ngang trước và sau của chữ Công) bằng tòa Thiêu hương là tòa dọc (nét dọc ở giữa). Nếu nhìn từ trên xuống, hệ mái bao che bên ngoài, nét sống đỉnh mái sẽ tạo thành hình chữ Công. Về kết cấu bên trong, kiến trúc cơ bản của một chữ Công là mái bằng mái, tàu bằng tàu và gian bằng gian. Thượng lương của tòa dọc nằm giữa sẽ nối với trung điểm của thượng lương hai tòa ngang. Theo đó các bước cột và bước hoành cũng được chia đều đặn để tạo nên các gian có độ rộng tương đương nhau giữa tòa trong và ngoài. Bộ vì của tòa Thiêu hương tùy theo tòa này được dựng bao nhiêu gian sẽ có ngần ấy bộ vì tương ứng cũng vuông góc với các bộ vì kèo của hai tòa nhà ngang. Khoảng rộng bước cột cái vì kèo của tòa này cũng là khoảng không để đặt tượng Phật trong nội thất, không gian thích hợp để tạo ra những lớp cửa võng trùng điệp khi nhìn từ phía chính diện của Tiền đường.

Từ kết cấu cơ bản kể trên, việc tạo ra kết cấu chữ Công trong kiến trúc cũng có những linh hoạt nhất định. Ở một số ngôi chùa, do nhu cầu bày đặt tượng Phật ở vị trí cao, nên tòa Thượng điện thường được dựng cao hơn Tiền đường nên khi thiết kế mô hình chữ công không thể tuân thủ theo kết cấu chung kể trên thì giải pháp thượng lương của tòa dọc được ghép với hoành thứ 2 của tòa Thượng điện, tức mái tòa Thiêu hương thấp hơn hẳn so với nóc Thượng điện là 2 hoành. Điều này cũng khiến cho lòng nhà ở tòa Thiêu Hương cũng có phần hẹp hơn. Nếu quan sát phía bên ngoài thì người ta vẫn tạo nên bờ nóc của tòa Thiêu hương ăn nhịp mới bờ nóc của Tiền đường dù mái đã thấp hơn một nhịp. Phần nối giữa hai mái phía bên ngoài người ta cũng phải tôn cao để lợp bằng khoảng chữ V giữa hai sườn mái để chống thấm dột trong kiến trúc. Chưa kể đến tính chặt chẽ trong kiến trúc này còn dựa vào hệ thống tường bao xung quanh, khiến cho các thiết kế mái dẫu có cao thấp vẫn có độ trụ để tạo nên những liên kết liên hoàn nhất định và thuận mắt trong xử lý giải pháp. Điển hình là Thượng điện của chùa Bối Khê có ba nhịp độ cao khác nhau giữa Tiền đường, tòa Thiêu hương cao hơn nóc Tiền đường và tòa Thượng điện cao nhất.

Thực tế cho thấy, khi tạo nên kết cấu nối liền giữa các tòa nhà như vậy mô hình chung, không gian nội thất bên trong của các tòa nhà đã được mở rộng ra đáng kể, tạo thành một không gian thống nhất vừa có chiều rộng, vừa có chiều sâu. Sự trải ra hai bên của tòa tiền đường và sự thu vào thành một trục hút lên về phía thượng điện, đến điểm sâu nhất lại mở ra rộng rãi hơn, khiến cho kiến trúc điện Phật có độ thắt mở nhất định. Không gian ấy cũng vô cùng thích hợp với các sinh hoạt tôn giáo như tập hợp các tín đồ Phật tử đảnh lễ ở gian Tiền đường và tạo nên tuyến đơn cho các hoạt động chạy đàn hay nhiễu Phật quanh ban Tam bảo. Ngoài ra, việc thiết kế một tòa nhà dọc trong kiến trúc chữ Công còn đem lại một lợi ích nữa trong việc bài trí tượng Phật, phần nóc mái hình tam giác tạo nên một độ cao thống nhất từ ngoài vào trong. Nếu nóc thượng điện được làm cao hơn nữa so với tòa Tiền đường thì không gian nội thất là vô cùng rộng và sâu, phù hợp với nhu cầu bài trí thành các cấp bậc trong Thượng điện, nơi đặt để các lớp tượng Phật. Đặc điểm này đã làm nên sự khác biệt giữa kiến trúc chữ Công của Chùa với Đình, Đền, Miếu. Phần hậu cung Đình, Đền, Miếu thường không bài trí theo cấp bậc với các lớp từ trên xuống dưới. Đôi khi việc thờ Thánh thường bài trí theo chiều ngang, hoặc chỉ có một bài vị/ ngai/ long đình ở phần trung tâm, nên kết cấu hậu cung chữ Công không cần quá lớn, cũng như nóc mái không cần tôn cao. Trong khi đó, nội thất ngôi chùa lại cần một không gian vừa đủ rộng, vừa đủ sâu, vừa đủ cao để bài trí thứ bậc tượng Phật.

Xét về quá trình phát triển một ngôi chùa Nội công ngoại quốc, với những dấu ấn lịch sử còn lại ở khá nhiều nơi, ta có thể khẳng định hình thức chữ Công này vốn là sự phát triển lên từ hình thức chữ Đinh rất phổ biến trong kiến trúc thế kỷ 16. Thức kiến trúc chữ Đinh bao gồm chỉ hai tòa nhà, 1 ngang và 1 dọc nối với nhau ở gian giữa tòa nhà ngang. Ở loại hình kiến trúc chữ Đinh, ta có thể thấy rõ vai trò của hệ mái chéo về hai bên của tòa nhà dọc để tạo nên một độ cao nhất quán trong nội thất, độ sâu và thóang đãng khi bài trí tượng Phật, góp phần tạo ra sự linh thiêng trong không gian kiến trúc. Cũng tùy theo tầm vóc của ngôi chùa, nhu cầu bài trí hệ thống Phật điện như thế nào để người ta dựng số lượng gian tương thích với kết cấu hình chữ Đinh này. Ở một số ngôi chùa làng, kết cấu tòa nhà dọc chỉ có 3 gian tương thích với không gian bài trí Tam Bảo với một số lượng tượng cơ bản. Tuy nhiên, cũng có nhiều chùa kết cấu hình tòa dọc này lên tới 5 gian. Vào các thế kỷ sau khi tiếp tục mở rộng ngôi chùa, người ta có thể xây thêm 1 tòa nhà 3 gian sát với tòa dọc này để tạo lập không gian dạng chữ Công trong nội điện ngôi chùa. Đối với trường hợp xây thêm này, nhìn vào mặt bằng và hệ mái bao che của công trình ta thấy rất rõ hình chữ Đinh và một tòa dựng thêm, không có sự kết nối các mái như dạng chữ Công được xây dựng liền mạch. Để việc ghép nối này kiện toàn, mà không phá bỏ đi những công trình dựng cũ, người ta đã thiết kế hệ thống ống máng thóat nước ở điểm gặp nhau của các mái.

Chùa Quang Long – Hải Phòng

Cũng có một số chùa, kết cấu ban đầu chỉ có một tòa hình chữ Đinh, vào các giai đoạn sau, khi trùng tu dựng mới, kết cấu đó vẫn được bảo tồn nguyên vẹn và xây thêm hệ thống hành lang cùng hậu điện bao quanh để làm thành dạng kiến trúc nội Đinh ngoại Quốc. Hình thức này cũng có thể xếp vào loại Nội công ngoại quốc rút gọn mà chúng tôi sẽ đề cập ở phần dưới, hoặc là một tiền thân cho việc phát triển thành hình thức Nội công ngoại quốc sau này.

Cũng có một số học giả cho rằng; Nguồn gốc ban đầu của chữ Công vốn là nhu cầu mở rộng không gian ngôi chùa về phía trước. Ngôi thượng điện ban đầu của các ngôi chùa như chùa Dâu thời Lý Trần, có mặt bằng hình gần vuông. Với nhu cầu mở rộng không gian chùa chiền, phần kiến trúc tòa Thiêu hương và Tiền đường đã được xây dựng thêm về phía trước, mà vẫn giữ nguyên không gian nền tảng của ngôi chùa cũ. Bởi vậy nên kiểu thức chữ Công cũng được hình thành để tạo nên một không gian thống nhất giữa Tiền đường, Thiêu hương và Thượng điện.

Tuy nhiên ở một số công trình, mô hình chữ Công lại là sự phát triển linh hoạt tạo nên lối kết giao giữa hai công trình. Tòa Thiêu hương vẫn là tòa kết nối giữa Tiền đường và Thượng điện nhưng chỉ có bờ nóc mái mà không hề có tường bao, vách ngăn, chúng được để thóang hoàn toàn cho sự lưu thông không gian. Điển hình là kết cấu chữ công trong kiến trúc Tiền đường + Thiêu hương + Thượng điện ở chùa Bút Tháp. Đây cũng có thể xem là hình thức giả chữ Công, nhưng lại tạo nên tính thống nhất cho không gian.

Về kết cấu của các tòa nối nhau để tạo nên đường bao khép kín hình chữ Quốc cũng tương tự như chữ Công. Hình thức thông thường nhất mà ta hay bắt gặp là hai dãy hành lang dựng hai bên nối góc với các tòa nhà ở hậu đường. Kiến trúc Tiền đường thường độc lập với kiến trúc hành lang, để tạo nên khoảng lưu không, tạo nên độ thóang của công trình. Nếu Tiền đường được dựng theo lối 5 gian 2 chái, hoặc 7 gian hai chái tức hệ mái của tòa này vẫn có 4 mái độc lập, thì khoảng lưu không giữa hành lang và tiền đường người ta thường xây một chiếc cổng nhỏ để ra vào. Kiểu thức này rất phổ biến trong các công trình kiến trúc điển hình như chùa Keo Hành Thiện, chùa Keo – Thái Bình, chùa Bút Tháp, chùa Thầy… Chiếc cổng nhỏ như vậy thường xuyên được sử dụng để tạo nên các hệ cửa ngăn tạo lớp không gian trong các công trình kiến trúc.

Phần cuối cùng của chữ Quốc là tòa nhà ngang hậu đường, thường chia ra các gian có vách ngăn tạo ra các không gian riêng biệt giữa nhà tổ (gian thờ chính giữa) nhà tăng/ni (nhà ở hai bên). Tòa nhà ngang này có thể được xây nối mái với hành lang, nhưng đôi khi chúng cũng được dựng độc lập hoàn toàn. Trường hợp dựng độc lập thường là khi tòa Hậu đường có chiều cao tương đương với các dãy nhà ngang phía trước, còn hai dãy hành lang có chiều cao thấp hơn. Cũng có thể tòa hậu đường được dựng cao, nối mái với dãy hành lang thấp ở hai chái của tòa nhà. Việc nối góc mái của hai dãy hành lang và tòa hậu đường cũng có một vài giải pháp kiến trúc khác nhau. Ở một số công trình, tòa nhà ngang ăn nóc với dãy hành lang như cách Thiêu hương nối Tiền đường và Thượng điện, nhưng ở đa số cách nối mái này tạo nên góc chéo mái phía trong và phía ngoài để bắt góc của hình vuông cho công trình. Người ta vẫn nhìn thấy khu đĩ của hai tòa nhà ngang cao hơn nóc mái của hai dãy hành lang ở đoạn bắt góc nối vuông này. Vào thế kỷ 17-18, phần tường bao che công trình bên ngoài người ta đã sử dụng đến gạch vữa. Do đó toàn bộ hệ thống hành lang bao quanh đã góp phần qui vuông và khép lại không gian thờ tự giữa bên trong và bên ngoài. Và, để thuận tiện cho việc đi lại giữa trong và ngoài khi các dãy hành lang này quá dài, người ta có thể trổ cửa đầu và cuối mỗi hành lang. Như không gian ở chùa Bút Tháp, dãy hành lang bên phải của ngôi chùa trổ cửa để đi ra khu tháp Báo Nghiêm nơi thờ Thiền sư Chuyết Chuyết và một ngôi tổ đường phía trước.

Cùng với việc kiến tạo hai dãy hành lang bày hệ thống 18 tượng La Hán rất phổ biến trong kiến trúc Phật giáo các thế kỷ này, thì nhiều ngôi chùa, phần cuối hành lang này, người ta dựng một gian thờ nhỏ khép kín, hoặc mở hoàn toàn, 1 mặt quay hướng chính của chùa đặt ban thờ Đức Thánh Hiền và thờ Đức Ông đối diện nhau ở hai bên, điển hình như chùa Mía, chùa Nành. Cách bài trí này vừa liên quan đến kết cấu kiến trúc tạo gian và hình thức nối mái giữa các công trình, đồng thời lại tạo nên bước chuyển tiếp sang không gian hậu đường của ngôi chùa một cách linh hoạt nhất.

Ngôi chùa Nội công ngoại quốc phức hợp

Các ngôi chùa có mô hình kiến trúc Nội công ngoại quốc phức hợp là các dạng chùa được phát triển lên từ thể loại thông thường với các thành phần kiến trúc khác được bổ sung vào trong không gian khép kín được tạo ra của dãy hành lang + nhà tổ + nhà tăng… Đây cũng là mô hình phổ biến với các ngôi chùa lớn, được xây dựng, trùng tu, tôn tạo qua nhiều giai đoạn lịch sử và trong kiến trúc cũng có nhiều lớp niên đại khác nhau.

Tuy nhiên, cũng tùy theo chức năng sử dụng và mục đích xây dựng của các ngôi chùa mà ta thấy xuất hiện các loại hình Nội công ngoại quốc phức hợp khác nhau. Chưa tính đến địa hình, địa thế của khu đất dựng chùa, mà tính phức hợp của mô hình Nội công ngoại quốc này được phát triển theo cách nào. Đơn cử như chùa Bút Tháp (Thuận Thành, Bắc Ninh), ngôi chùa có niên đại 1647, đằng sau chữ Công làm thành từ Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, thì các tòa kiến trúc khác được dựng theo trục đường thần đạo như tòa Cửu Phẩm Liên Hoa (công trình có chiều cao nhất trong các đơn nguyên kiến trúc ở Bút Tháp); sau đó là Trung đường, Phủ thờ. Ngoài Bút Tháp, ngôi chùa có Cửu Phẩm Liên Hoa như chùa Giám (Cẩm Giàng, Hải Dương) cũng là dạng Nội công ngoại quốc phức hợp, Tòa nhà Phẩm được dựng nằm sát ngay sau thượng điện hình chữ Công. Ngôi chùa này cũng là chùa có niên đại sớm, vào thời Mạc và hoàn thiện vào thế kỷ 17. Kiến trúc chùa Thầy là ngôi chùa có niên đại sớm từ thời Lý, Trần, và kiến trúc gỗ hoàn thiện còn đến ngày nay là kiến trúc thế kỷ 17. Nằm sau chữ Công là chính điện thờ Phật ở chùa Thầy cũng có một chữ Nhất, nơi thờ Thánh Từ Đạo Hạnh. Mặt bằng của tòa kiến trúc chữ nhất độc lập này rất lớn, trung tâm đặt 2 tầng bệ đá hoa sen. Nếu xét theo niên đại của bệ đá, thì mặt bằng ngôi điện Thánh này chính là mặt bằng trung tâm của ngôi chùa thời Lý – Trần. Đến thế kỷ 17, khi loại hình kiến trúc kiểu Nội công ngoại quốc phát triển, cùng với nhu cầu mở rộng khu thờ tự, người ta đã dựng thêm các tòa nhà ở phía trước trong khi vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử của ngôi chùa.

Mặt cắt, mặt bằng tổng thể và ảnh nhìn từ trên không chùa Bút Tháp, Thuận Thành Bắc Ninh. Mô hình Nội công ngoại quốc Phức hợp

Như vậy, bên cạnh không gian kiến trúc chỉ có 1 chữ Công nằm trong đường bao của chữ Quốc đã có thêm các công trình khác hoặc được thêm vào, hoặc là tôn trọng nền móng cũ để dựng mới. Tỷ lệ của các công trình cũng tùy theo mục đích sử dụng mà các tòa trong kiến trúc dạng hình chữ công được xây lớn hay nhỏ. Ví dụ như chùa Thầy, độ rộng lòng nhà của cung Thánh là lớn nhất, sau đó là Thượng điện, còn độ rộng của Tiền đường lại chỉ bằng 2/3 Thượng điện. Điều này cũng tương ứng với độ cao, và đương nhiên các bước cột tạo lòng nhà giữa các tòa đã có sự thay đổi đáng kể. Chỉ có một sự thống nhất duy nhất trong nguyên tắc là nếu mái bằng mái, tàu bằng tàu thì khoảng cách chân cột trong mỗi bộ của các tòa Tiền đường và Thiêu hương Thượng điện là bằng nhau. Khi có bất cứ sự thay đổi giữa các lớp kiến trúc thì kết cấu này sẽ mở rộng hoặc thu hẹp tùy theo độ rộng của lòng nhà và chiều cao của tàu mái. Theo đó, các bưc hoành cũng được tính toán sao cho phù hợp. Không chỉ vậy do kiến trúc gỗ truyền thống là kiến trúc lắp ghép mộng và sử dụng kết cấu chồng đè, nên người ta có thể dễ dàng tận dụng các cấu kiện kiến trúc cũ trong lần trùng hưng, mở rộng phát triển các ngôi chùa vào các giai đoạn sau.

Ở các ngôi chùa khác như chùa Keo – Thái Bình, chùa Keo – Hành Thiện, chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bối Khê, hình thức Nội công ngoại quốc phức hợp lại có những biến đổi khác biệt. Nhìn vào mặt bằng các ngôi chùa này, phần không gian bên trong đường bao chữ Quốc không chỉ có 1 chữ Công mà có đến hai công trình hình chữ công được xây dựng độc lập với nhau. Có thể gọi đây là mô hình chữ Công kép. Về niên đại thì riêng chùa Bối Khê có niên đại sớm thời Trần, còn chùa Keo – Thái Bình và chùa Keo – Hành Thiện được xây dựng hoàn thiện tổng thể vào thế kỷ 17. Có lẽ việc xây mới và việc xây dựng trên nền tảng cũ cũng tạo nên sự khác nhau trong việc thiết kế trùng tu và phát triển kiến trúc. Lối kiến trúc của ba ngôi chùa này đều là kiến trúc điển hình cho các ngôi chùa “Tiền Phật Hậu Thánh” (tức phía trước thờ Phật, phía sau thờ Thánh). Việc tạo ra hai tòa kiến trúc có dạng chữ Công cơ bản nhằm mục đích là tạo ra các không gian thờ tự tương ứng Phật với Thánh. Ở chùa Keo – Hành Thiện, ngăn cách giữa 2 không gian thờ Phật và thờ Thánh này còn có thêm hai cổng nhỏ xây hai bên tòa chữ Công thờ Thánh Khổng Minh Không. Kiến trúc tòa thờ Thánh cũng được chú trọng hơn kiến trúc tòa thờ Phật với các hình thức chạm trổ dày đặc trên các bộ vì, các xà nách phía trước cung Thánh, trong khi đó gian thờ Phật người ta chỉ tạo ra các trang trí ở cửa võng. Đây cũng là đặc điểm tạo nên sự khác biệt trong kiến trúc với chức năng thờ tự khác nhau.

Trở lại với thức kiến trúc Nội công ngoại quốc kép, ở chùa Bối Khê kiểu thức này lại có phần đặc biệt hơn. Cũng có chức năng thờ Thánh như hai ngôi chùa kể trên, nhưng có lẽ sự đặc biệt này xuất phát điểm là kiến trúc chùa được dựng lại từ ngôi chùa cũ thời Trần mà những bộ vì Thượng điện đã thể hiện ra niên đại đó. Điện Thánh có kích thước nhỏ hơn điện Phật và được xây dựng khoảng thế kỷ 18 với các trang trí trong nội điện, hệ thức đấu củng, con sơn chìa ra đỡ mái. Chữ Công thứ nhất là chính điện ngôi chùa, nằm trong đường bao của chữ Quốc. Chữ Công thứ hai không cùng nằm trong không gian này mà được tạo nên từ sự biến đổi chính đường bao chữ Quốc này nối với gian hậu cung thờ đức Thánh Bối. Cung thờ Đức Thánh Bối vốn là một kiến trúc gỗ khá độc lập và có kích thước nhỏ gần vuông là 5,85 x 5,55m. Nó gần như độc lập hoàn toàn với tòa ngang phía trước (đường bao chữ Quốc). Phần mái nối để tạo nên mặt bằng chữ Công được xuất phát từ trung điểm của cạnh cuối chữ Quốc và vẫn tuân thủ lề lối chung là có độ lớn và độ rộng gian tương đương với gian hậu cung với bước cột gần 3m. Hình thức nối mái chữ công này cũng đặc biệt hơn so với phần chữ công ở thượng điện ở chỗ gian hậu cung được chồng diêm hai tầng tám mái. Phần nối để tạo thành chữ công do thượng lương của tòa dọc ăn với đỉnh khớp mái của tầng thứ nhất. Có thể nói thiết kế chữ công này đã tạo ra nhịp điệu khá thú vị trong kiến trúc của hai tòa hình chữ công. Một tòa lớn hẳn, vượt trội cả về chiều cao, một tòa nhỏ hẳn nhưng lại được thiết kế 2 tầng 8 mái khiến phần hậu cung này cũng không quá thấp so với tương quan tỉ lệ chung của công trình.

Chùa Bối Khê

Nếu chùa Bối Khê tạo ra một nhịp điệu đóng mở, cao thấp trong thiết kế kiến trúc, thì hình thái Nội công ngoại quốc của chùa Trăm gian lại khác biệt hoàn toàn. Có lẽ “trăm gian” được kiến tạo bởi sự kết nối các tòa nhà một cách hữu hiệu, để tạo nên một mặt bằng tổng thể thống nhất trong không gian nội thất. Người ta cũng có thể dùng một thuật ngữ khác để nói về kiểu kiến trúc này “Trùng thiềm điệp ốc”, mục đích là có thể có một mặt bằng rộng rãi để sinh hoạt tín ngưỡng. Nếu qui chiếu mặt bằng tổng thể nhìn từ trên cao, cấu trúc tòa Tam bảo được thiết lập nên bởi 3 tòa nối nhau tạo thành chữ Vương thay cho dạng chữ Công thông thường. Chưa kể đến nhịp kiến trúc thì tòa thứ 2 và tòa thứ 3 sát kề nhau còn không gian tiền đường và tòa thứ 2 có phần cách nhau một chút. Không đơn giản là nối mái bằng tòa dọc chạy xuyên suốt chiều dọc của điện thờ mà nối giữa Tiền đường và Trung đường còn có hai lớp mái nhỏ để ăn khớp với chái của các tòa phía sau. Giữa các lớp mái này người ta tạo hệ thống thóat nước. Và với hệ mái bao che to lớn như vậy, người ta đã dùng kính để lấy ánh sáng cho không gian nội thất bên trong. Với việc nối liền các tòa nhà, không gian lưu không thông thường đã trở thành không gian để sử dụng. Điều này có nghĩa, nhìn hình thái của mái bao che bên ngoài có dạng hình chữ “vương”, nhưng mặt bằng bên trong từ tiền đường đến hết thượng điện là dạng chữ đinh nhưng chiều kích của những tòa nhà nối liền nhau này lại rất lớn để tạo ra trăm gian như tên gọi của ngôi chùa.

Ngoài ra, nếu xem xét phần hậu của gian thờ, ta có thể thấy một cái bệ hoa sen đất nung thời Mạc tương tự như các dạng bệ đá hoa sen hình hộp thời Trần chiếm vị trí trung tâm tòa thứ ba. Vậy các kiến trúc phía trước là kiến trúc được mở rộng từ trung tâm điện Phật về phía trước và phía sau. Phía sau của chính điện còn có một tòa chữ Nhất cũng có mặt bằng kiến trúc khá lớn gần với kiểu thức ta đã bắt gặp ở chùa Thầy.

Kiểu thức nối tòa trước sau như chùa Trăm Gian này ta lại gặp một trường hợp tương tự ở chùa Thổ Hà, nhưng có phần đơn giản hơn. Thay vì chỉ nối Tiền đường + Thiêu Hương + Thượng điện, thì chùa Thổ Hà có thêm một kiến trúc mái nối Thượng điện với Hậu đường, nếu nhìn trên hệ qui chiếu mái từ trên cao. Phần nội điện, người ta vẫn khu biệt phần Tam bảo thờ Phật, nhưng phần hậu Tam bảo quay về Hậu điện có đắp động, khiến cho dãy hành lang bao quanh tạo thành một tuyến qui tụ về trung tâm. Không gian chùa Thổ Hà cũng khá mở để tạo nên các mặt thóang trong kiến trúc Nội công ngoại quốc biến thể. Sự biến đổi mô hình chữ Công nội tiếp trong chữ Quốc như vậy còn tiếp tục được gặp trong trường hợp chùa Bách Môn. Lúc này, Nội công ngoại quốc chỉ là nhân lõi mà thể thức nối mái giữa các tòa nhà đã tạo nên những khác biệt cho các hình thái kiến trúc đa dạng, để tạo nên tính đa hướng trong kiến trúc của một ngôi chùa.

Như vậy có thể thấy rằng với mô hình Nội công ngoại quốc phức hợp, trong các ngôi chùa cổ có niên đại thế kỷ 17, 18 đã liên tục đã có những biến thể khác nhau. Tùy theo mục đích thờ tự, sắp đặt bài trí điện Phật, động Phật như thế nào để tạo nên những nét đặc trưng riêng của mỗi ngôi chùa. Các ngôi chùa Nội công ngoại quốc có thể được dựng lại từ các ngôi chùa cổ có nền tảng trước đó hoặc cũng có thể được thiết kế mới hoàn toàn trong các thế kỷ này khi điểm qua hàng loạt các ngôi chùa tiêu biểu kể trên. Đó cũng có thể xem như tính linh hoạt của kiến trúc truyền thống Bắc Bộ.

Chùa Keo Thái Bình

Ngôi chùa Nội công ngoại quốc giản lược

Nếu việc mở rộng ngôi chùa theo xu hướng bổ sung các công trình lớn nhỏ vào không gian các ngôi chùa đã có trong lịch sử đã làm nên loại hình Nội công ngoại quốc phức hợp thì Nội công ngoại quốc giản lược/ rút gọn cũng là một mô hình thú vị cho thấy tính linh hoạt khác của kiến trúc chùa Việt ở Bắc Bộ. Loại hình này thích hợp với những địa thế không gian không quá lớn, nhưng vẫn có thể dựng nên một ngôi chùa với đầy đủ các thành phần kiến trúc cũng như ban bệ thờ tự. Điển hình cho loại Nội công ngoại quốc rút gọn này chính là mô hình kiến trúc chùa Quang Long, xã Triều Dương, Hải Phòng được mệnh dạnh là ngôi chùa 5 nóc. Ở đây kiến trúc chữ công vẫn được giữ nguyên các thành phần: Tiền đường + Thiêu hương + Thượng điện, nhưng hai dãy hành lang của ngôi chùa đã được ốp sát, nối liền Tiền đường và Hậu đường/ Nhà tổ với nhau. Khoảng trống giữa các tòa nhà là rất nhỏ đủ để có ánh sáng xuyên chiếu vào công trình, khiến cho kết cấu của kiểu thức này không quá tối. Với các loại hình kiến trúc Nội công ngoại quốc rút gọn này, người ta vẫn tuân thủ lối mái bằng mái, tàu bằng tàu, nên chiều cao công trình hầu như ít thay đổi trong mặt bằng chung

Trên thực tế, những ngôi chùa Nội công ngoại quốc rút gọn này có thể có niên đại sớm nếu chúng là các ngôi chùa vốn có nhân lõi là kiến trúc chữ Đinh, sau đó được xây thêm các tòa xung quanh để trở thành đường bao chữ Quốc và có thể định danh là nội đinh ngoại quốc (như đã nói đến ở phần 1). Cũng có thể đây là những ngôi chùa làng, có qui mô nhỏ, phù hợp với kinh tế của người hưng công xây dựng. Cũng có thể chúng là sự phát triển lên của các Am thờ Phật, nên qui mô vừa đủ để tạo lập một không gian thực hành tín ngưỡng. Ngôi chùa nội Đinh ngoại Quốc, hoặc dạng chữ công rút gọn cũng là dạng chùa phổ biến ở phố thị, nội đô của các thành phố, khi đất chùa không quá rộng

Chùa Trăm Gian – Hà Nội

Một vấn đề cần được lưu tâm là kiến trúc gỗ truyền thống, qui mô của công trình tùy thuộc vào độ rộng của lòng nhà và chiều cao của tàu mái. Trong các công trình kiến trúc cổ tàu mái thường cao trên dưới 2m. Lòng nhà được tính từ cột hiên trước đến sau. Khoảng cách lớn nhất trong một bộ vì là lòng trong của hai cột cái sẽ quyết định sự rộng hẹp của ngôi chùa, đặc biệt là thượng điện. Các cây cột cái nếu có kích thước từ 5m trở lên thì lòng nhà khoảng chừng 6m. Điển hình như khoảng cách giữa hai cột cái điện Thánh chùa Thầy là 6m. Vậy nên việc thiết kế các công trình kiến trúc cổ thường nằm trong chiều kích này và tạo nên chiều cao của hệ mái với độ rộng bước cột kể trên khoảng trên dưới 6m. Điều này cũng thích hợp với tâm thức của người Việt ở Bắc Bộ trong việc thiết kế kiến trúc một ngôi chùa – không gian sinh hoạt tâm linh tôn giáo đầy tính chất thân cận, gần gũi, ấm cúng. Loại hình kiến trúc “Nội công ngoại quốc” phức hợp, rút gọn kể trên chính là giải pháp mở rộng hay thu hẹp không gian tương thích với nhu cầu sử dụng, trong điều kiện vật liệu truyền thống cho phép.

Cho đến ngày nay, chất liệu, vật liệu kiến trúc là vô cùng phong phú và đa dạng. Với sự góp mặt của các loại hình vật liệu bền vững như xi măng, cốt thép … cũng là một điều kiện thuận lợi cho việc xây dựng, tái tạo phục chế các dạng thức kiến trúc truyền thống. Mô hình kiến trúc Nội công ngoại quốc truyền thống kể trên là mô hình lưu giữ những giá trị truyền thống ta cần bảo tồn. Nhưng với điều kiện mới, mô hình này cũng nên được phát huy để thiết lập nên những không gian vừa truyền thống nhưng cũng hiện đại để phù hợp với nhu cầu tôn giáo mới của xã hội hiện đại.

Chùa Thầy

PGS.TS. Trang Thanh Hiền
KTS. Hoàng Anh Đức
(Bài đăng trên Tạp chí Kiến trúc số 05-2023)

Tài liệu tham khảo chính:

1. Trần Lâm Biền (2012) – “Diễn biến kiến trúc truyền thống vùng châu thổ sông Hồng”, NXB Văn hóa Thông tin;
2. Trịnh Cao Tưởng (2009) – “Kiến trúc cổ Việt Nam từ cái nhìn khảo cổ học”, NXB Xây dựng;
3. Trần Lâm Biền (2020) – “Văn hóa nghệ thuật Chùa Việt”, NXB Thế giới;
4. Trang Thanh Hiền (2019) – “Nghệ thuật tạo tác tượng Phật trong các ngôi chùa Việt”, NXB Hà Nội;
5. Viện Bảo Tồn Di Tích (2018) – “Kiến trúc chùa Việt qua tư liệu Viện Bảo tồn di tích, tập 1- 2”, NXB Văn hóa Dân tộc;
6. Viện Bảo tồn Di tích (2019) – “Kiến trúc chùa Việt qua tư liệu Viện Bảo tồn di tích, tập 2”, NXB Văn hóa Dân tộc;