Friday, February 14, 2025

KHUẤT NGUYÊN THÁP - TÔ THỨC


Khuất Nguyên tháp - Tô Thức

Sở nhân bi Khuất Nguyên,
Thiên tải ý vị hiết.
Tinh hồn phiêu hà xứ,
Phụ lão không ngạnh yết.
Chí kim thương giang thượng,
Đầu phạn cứu cơ khát.
Di phong thành cạnh độ,
Ai khiếu Sở sơn liệt.
Khuất Nguyên cổ tráng sĩ,
Tựu tử ý thậm liệt.
Thế tục an đắc tri,
Quyến quyến bất nhẫn quyết.
Nam Tân cựu thuộc Sở,
Sơn thượng hữu di tháp.
Ưng thị phụng Phật nhân,
Khủng tử tựu luân diệt.
Thử sự tuy vô bằng,
Thử ý cố dĩ thiết.
Cổ nhân thuỳ bất tử,
Hà tất giảo khảo chiết.
Danh thanh thực vô cùng,
Phú quý diệc tạm nhiệt.
Đại phu tri thử lý,
Sở dĩ trì tử tiết.

Tác giả có chú thích ở tiêu đề: “Tại Trung Châu, nguyên bất đương hữu bi tháp ư thử, ý giả hậu nhân truy tư, cố vi tác chi” (Tháp này ở Trung Châu, ở đây vốn không phải có bia tháp, ý chừng người sau nhớ đến ông nên mới dựng ra). Bài thơ này tác giả làm năm Gia Hựu thứ 4 khi đi qua Trung Châu. Vì câu chuyện Khuất Nguyên không có liên quan gì tới đất Trung Châu nên tác giả mới có chú thích này.


屈原塔 - 蘇軾

楚人悲屈原
千載意未歇
精魂飄何處
父老空哽咽
至今滄江上
投飯救飢渴
遺風成競渡
哀叫楚山裂
屈原古壯士
就死意甚烈
世俗安得知
眷眷不忍決
南賓舊屬楚
山上有遺塔
應是奉佛人
恐子就淪滅
此事雖無憑
此意固已切
古人誰不死
何必較考折
名聲實無窮
富貴亦暫熱
大夫知此理
所以持死節


Tháp Khuất Nguyên
(Dịch thơ: Châu Hải Đường)

Dân Sở thương Khuất Nguyên,
Ngàn năm tình chẳng hết.
Hồn phách bay nơi nào,
Nghẹn ngào hoài thương tiếc.
Sông xanh mãi đến giờ,
Ném bánh cứu đói khát.
Nay còn tục đua thuyền,
Núi Sở rung hò hét.
Khuất Nguyên tráng sĩ xưa,
Đến chết lòng lẫm liệt.
Người đời có biết đâu,
Quyến luyến không đành quyết.
Nam Tân xưa thuộc Sở,
Trên núi còn ngọn tháp.
Thờ Phật vốn là nơi,
Thờ ngài khỏi mai một.
Chuyện này tuy vô bằng,
Tình này nghe thống thiết.
Thọ yểu đắn đo gì,
Người xưa ai chẳng chết.
Danh tiếng thật vô cùng,
Giàu sang chỉ tạm biết.
Đại phu hiểu lẽ này,
Thà chết ôm khí tiết.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.

Nguồn: Thi Viện