Trong bộ Trung quốc thông sử[1], người chủ biên Bạch Thọ Di không ngớt lời ca tụng Nghĩa Hòa đoàn: Đó là thế lực chính nghĩa đại diện nhân dân chống lại âm mưu nô dịch dân tộc Trung Hoa của đế quốc phương Tây và giáo hội Thiên Chúa. Phong trào này được quần chúng hết lòng ủng hộ tham gia, nhằm trợ giúp Thanh triều đánh đuổi ngoại bang.
Ta hãy thử tìm hiểu sự thật về Nghĩa Hòa đoàn.[2]
Nguồn gốc
Nghĩa Hòa đoàn thường tự xưng “Thần quyền” môn, là một biến dạng từ Bát Quái giáo, mà Bát Quái giáo lại là một chi nhánh kỳ quặc của Bạch Liên giáo.
Ở Trung Hoa, nếu bảo Thiếu Lâm là cội nguồn võ học thì còn có kẻ hoài nghi, nhưng nếu nói Bạch Liên giáo là căn nguyên các bang hội giang hồ thì ai cũng phải thừa nhận. Đó là một giáo phái thần bí, thoạt đầu chịu ảnh hưởng của Phật giáo Tịnh Độ tông, hình thành ở Giang Tây vào giữa thế kỷ XII đời Tống. Môn đồ Bạch Liên tuân thủ lời Phật dạy: không sát sinh, không cờ bạc rượu chè, ăn chay trường, nhưng lại được phép cưới vợ lấy chồng. Đây là dị biệt không thể chấp nhận đối với giới điều của Phật giáo Trung Hoa nên Bạch Liên bị xem là tà giáo. “Tà giáo” này tuy vậy lại phù hợp với dân tình và thủy thổ Giang Tây nên ngày càng phát triển, tạo ảnh hưởng sâu rộng suốt một giải Trường giang.
Và khi vó ngựa Mông Cổ tràn sang thì chính bọn bàng môn tả đạo hiền lành, thường ngày chỉ biết ăn chay niệm Phật, không nỡ giết con sâu cái kiến này, lại là những trang nghĩa dũng hăng hái tuốt kiếm giương cung sẵn sàng xông ra đền nợ nước. Không đánh tan được giặc mạnh, cũng cứ lăn thân vào vó ngựa, dẫu chỉ để làm chậm vài nhịp bước của quân thù thì hy sinh cũng đáng. Thế của Bạch Liên từ giờ trở thành không đội trời chung với giặc Mông, nghĩa khí lòa mây đó được người người ngưỡng vọng.
Kịp khi Mông Cổ diệt xong nước của Tống để lập triều Nguyên thì Bạch Liên cũng đã hấp thụ thêm tư tưởng Di Lặc giáo[3] và kết nối với thế lực Minh giáo[4], trở thành mối đe dọa trực tiếp đến tồn vong của vương triều mới dựng.
Tranh vẽ Bạch Liên giáo
Suốt gần trăm năm thống trị Trung Hoa, chẳng năm nào quân Nguyên được yên ổn với Bạch Liên giáo. Dù bị triều đình trấn áp liên tục nhưng Bạch Liên vẫn không ngừng phát triển. Sau này, vì nhiều lý do, Bạch Liên phải hóa thân thành nhiều bang phái khác nhau[5], Bát Quái giáo là một trong số ấy.
Bát Quái giáo do một nhân vật từng tham gia Bạch Liên là Lưu Tá Thần sáng lập vào niên hiệu Khang Hy (1662) đời Thanh. Từ Sơn Đông, Bát Quái dần mở rộng địa bàn sang các tỉnh Hà Bắc, Hà Tây, Sơn Nam…
Tôn chỉ xiển dương là hợp nhất Nho-Thích-Đạo, nhưng giáo lý lại lấy Đạo thư làm căn bản, Bát Quái đề cao tu luyện nội đan trường sinh. Lý tưởng thực sự của Tá Thần chỉ là kiếm chác thủ lợi, y tự xưng giáo chủ và bố trí thân nhân nắm giữ các chức sắc quan trọng. Dòng họ này không từ thủ đoạn nào để lừa dối dụ dỗ dân ngu. Chúng thuyết giảng rằng nếu ai xuất tiền cho giáo phái càng nhiều thì phúc trạch người đó sẽ càng dồi dào. Từ lý thuyết ba đía đó, Bát Quái chế ra các loại tiền cõi trên để đổi lấy bạc thật của cõi thế. Nào Căn Cơ tiền (tiền dùng để vun đắp phẩm hạnh), Trát Căn tiền (tiền để kết duyên lành cho kiếp sau), Chủng Phúc tiền (tiền gieo trồng phước đức), Hiếu Kính tiền (tiền để dâng ông sơ bà cố)… Những tờ giấy lộn sau khi đóng ấn vẽ phù đã thành ra ngân phiếu để dành xài khi qua thế giới bên kia, mỗi tờ tiền cõi trên này, bọn nhà họ Lưu bắt người ta phải mua bằng hàng trăm lạng bạc thật[6].
Lưu Tá Thần ban đầu bắt chước Bạch Liên giáo, tự xưng mình là Di Lặc giáng sinh, sau đổi thành Khổng tử chuyển thế. Việc đổi nickname này mặc nhiên khiến ngôi vị giáo chủ trở thành thế tập gia truyền, nó chẳng những củng cố uy tín mà còn bảo đảm cho quyền lợi kinh tế dòng họ Lưu không phải rơi rớt, san xẻ ra ngoài.
Bát Quái giáo lộng hành nhưng vì họ chỉ chuyên tâm đong xèng, không màng chính trị, nên tạm thời được triều đình để yên đặng còn rảnh tay đối phó bọn phản động thực sự. Chừng Càn Long đại định xong xã tắc quay lại tính sổ Bát Quái thì mới lòi ra sản nghiệp của gia tộc thần thánh này lên đến mấy chục vạn kim ngân, ruộng đất điền trang phủ khắp các tỉnh thuộc địa bàn chiếm cứ. Toàn bộ cơ nghiệp đó liền bị tịch thu sung công quỹ.
Bị động chạm quyền lợi kinh tế, Lưu gia mới bớt dụ quần chúng cầu phước kiếp sau để chuyển sang hô hào khởi nghĩa giành độc lập-tự do-hạnh phúc ngay kiếp hiện tiền. Thanh triều chỉ chờ nhiêu đó, bạo động lập tức bị bẻ gãy bởi bạo lực, kết quả là Bát Quái gia truyền 5 đời tu hành chánh quả bị tru lục toàn môn chẳng còn lại quái nào.
Bát Quái bị diệt, nhưng những trò buôn thần bán thánh bịp bợm do chúng bày ra vẫn còn lưu trú trong tâm thức u mê của đám đông nông dân ngu muội. Và Nghĩa Hòa đoàn xuất hiện đã thừa hưởng di sản tinh thần này của Bát Quái.
Tổ chức đâm bang
Sau Chiến tranh Giáp Ngọ[7], các giáo sĩ ngoại quốc được phép tự do đi lại ra vào Trung Hoa. Họ nhanh chóng tỏa ra truyền bá văn minh và giảng đạo, tín đồ Thiên Chúa ngày càng đông đảo[8], nhà thờ mọc lên khắp nơi. Giang hồ nổi giận vì bị ngoại quốc cạnh tranh, thêm vào đó là mối căm hận bị Mãn Thanh áp bức lâu đời không nơi phát tiết nay như tìm được chỗ trút. Hình dung cổ quái tóc đỏ da trắng mắt xanh cao lớn khác thường của các giáo sĩ Tây phương bị vu cho là yêu quái. Làn sóng bài ngoại tăng cao trong số đông quần chúng dị đoan thất học. Thậm chí thiên tai hạn hán mưa dầm quái gì cũng được đổ thừa cho dị giáo Cơ Đốc gây ra. Các bang hội lớn như Đại Đao hội, Hồng Quyền hội[9] bắt đầu nêu lên khẩu hiệu Nã Dương giáo, bảo giang san (lùng bắt đạo Tây, bảo vệ đất nước) để mở rộng thanh thế.
Đại Đao hội còn gọi Nhân Nghĩa hội, là tàn dư của Bát Quái giáo. Hội này chia phép tu luyện thành hai đường lối là Ly môn và Khảm môn (từ 8 quẻ rút gọn thành 2 quẻ). Ly môn chuyên thắp nhang niệm chú để biến thân huyết nhục thành kim cang hộ thể đao thương bất nhập, đây là lối tu văn. Khảm môn thì dọn mình đón vong các hung thần võ thánh nhập vô để trổ thần oai vặn rồng xé cọp, chính là tu võ. Đại Đao lấy nông dân thất học làm chủ lực, lại thu nạp thêm các tầng lớp dưới đáy xã hội như bọn trí thức nửa mùa, ma cô thành thị. Member Đại Đao hội phân bố ở 4 tỉnh Sơn Đông, Hà Nam, An Huy, Giang Tô.
Thời thế đó đã tạo nên một anh hùng đâm bang là Châu Hồng Đăng (?-1899). Đăng tên thật Châu Phùng Minh, quê ở huyện Tứ Thủy (Sơn Đông). Năm 1898, Đăng vì chạy lụt nên phải sang huyện Trường Thanh (nay là huyện Tề Hà, tỉnh Sơn Đông) ở nhờ cậu ruột, được cậu truyền cho nghề bốc thuốc[10]. Chính ở đây, Đăng đã gia nhập Ly môn của Đại Đao hội. Để lập công, Đăng hiến kế là nên bổ sung thuốc thánh vào bùa chú để tăng cường niềm tin cho bá tánh. Nhờ vậy, kỹ năng bốc thuốc mà Đăng mới học được có dịp thi thố, khiến y nhanh chóng leo lên hàng ngũ đầu mục rồi tiến tới thành thủ lĩnh. Nắm được quyền rồi, Châu Hồng Đăng liền tuyên bố ly khai, đổi chi nhánh Đại Đao huyện Trường Thanh thành tổ chức mới: Nghĩa Hòa đoàn.
“Thần quyền” Nghĩa Hòa đoàn.
Không hiểu do thù oán hay bởi bản năng kẻ man rợ là phải thù ghét văn minh, vị thủ lĩnh Nghĩa Hòa đoàn chẳng thể nào chịu đựng nổi những công trình, thành quả tiến bộ khoa học và cơ giới. Đăng đề ra cương lĩnh cho Nghĩa Hòa đoàn là: trước hết là phải phá hoại trụ điện, dây thép và đường rầy xe lửa, kế đó là giết sạch bọn ngoại quốc, sau rốt mới là lật đổ triều đình Mãn Thanh.
Để luận công hành thưởng cho các chiến công khủng bố, Đăng đặt ra lệ Thập mao tử: Giáo sĩ ngoại quốc đứng đầu bảng, là Đại mao tử; bọn giáo dân ở hàng thứ hai, là Nhị mao tử; bọn biết tiếng, làm thông dịch cho nước ngoài là Tam mao tử; người làm ăn buôn bán với ngoại quốc là Tứ mao tử… Cứ vậy mà tính tới, thậm chí những ai xài hàng hiệu, đeo kính Tây, cầm dù Tây, mang vớ Tây cũng bị xếp vào bảng phân loại này. Giết được Đại mao tử là quân công hạng nhất, giết Nhị mao tử thì kém phân hơn, xuống dần tới Thập mao tử tuy có thua bầu kém bạn nhưng cũng đều có thưởng[11].
Dục Hiền (1842-1901) lúc trấn nhậm Tuần phủ Sơn Đông.
Ý trời khéo xếp đặt thế nào mà lúc đó lại xuất hiện một nhân vật bổ túc thêm cơ duyên vào mệnh số nhà Thanh, đó là Tuần phủ Sơn Đông: Dục Hiền[12]. Viên võ quan Mãn Thanh này có ngoại hiệu Đồ hộ (trùm giết mổ). Y là đứa khát máu, ghét cay ghét đắng bọn điêu dân nổi loạn. Lẽ ra, với thủ đoạn tàn độc của Dục Hiền thì Nghĩa Hòa đoàn đã lãnh đủ một trường oanh liệt máu chảy thành sông, lên phường nhận chứng nhận liệt sĩ tổ quốc ghi công gấp, nhẹ ra thì đầu một nơi thân một nẻo, còn nặng thì xẻo từng miếng thịt nho nhỏ từ từ cho tới khi chỉ còn lại khung xương trắng. Nhưng nhè bấy giờ lại chính lúc thế lực và uy tín của Thiên Chúa giáo cứ ngày một khuếch trương như gai đâm vào mắt, mà triều đình lại không thể ra mặt thanh trừng bọn “ngoại đạo” kia. Cho nên hành vi khủng bố Tây Dương của Nghĩa Hòa đoàn lại thành ra hợp ý Tuần phủ. Tay đồ tể đã tìm thấy con dao chọc tiết của mình, và Nghĩa Hòa đoàn nhận được sự ám trợ của triều đình như vậy đó.
Tháng 7-1899, Dục Hiền tự tay đề chữ Dục lên các lá cờ của Thần quyền Nghĩa Hòa đoàn, để chứng nhận sự bảo kê của mình.
Mùa hè năm đó, Nghĩa Hòa đoàn công khai tấn công nhà thờ giữa ban ngày, thẳng tay giết người phóng hỏa. Liệt cường gửi công hàm phản đối, Dục Hiền cười khẩy .
Tháng 10, Nghĩa Hòa đoàn chính thức ra khẩu hiệu là “Thiên hạ Nghĩa Hòa đoàn hưng Thanh diệt Dương”.
Quân cơ đại thần Viên Thế Khải (1859-1916), lúc lĩnh chức Tuần phủ Sơn Đông
Ngày 11 tháng 12, Nghĩa Hòa đoàn tấn công huyện Vũ Thành, thiêu rụi 17 nhà thờ Thiên Chúa giáo, tàn sát giáo dân, cướp sạch của cải. Công sứ các nước cùng gửi kháng nghị cảnh cáo, Thanh triều phải điều Viên Thế Khải làm Tuần phủ Sơn Đông thay thế Dục Hiền.
Ngày 24 tháng 12, đêm Thánh vô cùng, trước khi rời nhiệm sở, Dục Hiền hạ lệnh cho quân binh phải giết sạch tụi cầm đầu Nghĩa Hòa đoàn, thu hồi các lá cờ có đề chữ Dục. Tiếp đó, tân Tuần phủ Viên đại nhân đến kế nhiệm lại đại khai sát giới, quét dọn bọn còn lại. Nghĩa Hòa đoàn lãnh cú này thiệt là quá hớp, những người sống sót chạy qua các tỉnh lân cận (Trực Lệ, Thiểm Tây, Sơn Tây) để lánh họa sát thân.
Bắt tay cam kết hữu nghị với triều đình để rồi cả bang hội thảm tử hầu hết, nhưng bọn tàn dư Thần quyền ngu muội này sau đó vẫn chưa chịu sáng mắt…
Bi kịch của ngu muội
Rốt cuộc, thứ công phu “Thần quyền” mà Nghĩa Hòa đoàn luyện đó là giống gì? Xin thưa, nếu chỉ tính riêng về mặt độc đáo thì đây quả là thứ võ công tuyệt thế vô song.
Thông thường muốn luyện bất cứ môn võ nào, người ta đều phải có quá trình khổ luyện căn bản cho từng thế đứng (Tấn pháp), động tác di chuyển (Bộ pháp), động tác tay (Thủ pháp) và động tác chân (Cước pháp). Nhưng với Thần quyền thì không cần nhiêu khê lâu lắc vậy, lời khai của các đệ tử Nghĩa Hòa đoàn khẳng định điều đó:
Khi truyền thụ võ công, vị sư phó Thần quyền thắp nắm nhang, niệm chú lâm râm, xúi tụi môn đồ ngậm hai hàm răng cho khít, cúi xuống hít thứ khói đang bốc lên mù mịt kia. Rồi sư phụ quát vang: “Thần giáng!” Thần giáng rồi kìa, thiệt là sướng quá! Vậy là cả đám bắt đầu múa quyền vung gậy nhảy nhót tưng bừng, mỗi người theo tiết tấu riêng cho tới khi kiệt sức mới thôi.
Những miêu tả về trạng thái ngất ngây đó rất giống cơn thần hứng của kẻ nhập đồng[13]. Và để tăng hiệu suất tâm linh, vị sư phó sẽ rót vào tai các đệ tử mấy câu tụng niệm vầy: Khoái mã nhất tiên, Tây sơn lão quân; nhất chỉ thiên môn động, nhị chỉ thiên môn khai; yêu học võ nghệ thỉnh tiên sư lai (Ra roi quất ngựa, Tây sơn lão quân – đố ai biết “Lão quân” này là thần thánh phương nào – vụt một roi làm rúng động cửa nhà trời, vụt hai roi mở toang cổng trời, muốn học võ nghệ nên thỉnh tiên sư ghé đoái).
Hoặc một câu tụng khác nêu danh cụ thể hơn tí: Thỉnh thỉnh chí tâm quy mệnh lễ, Phụng thỉnh Long vương Tam thái tử. Mã triều sư, mã kế triều sư, Thiên quang lão sư, Địa quang lão sư, Nhật quang lão sư, Nguyệt quang lão sư, Trường côn lão sư, Đoản côn lão sư[14].
Truyền đơn đánh Tây Dương bạch quỷ của Nghĩa Hòa đoàn.
Tháng 5-1900, Nghĩa Hòa đoàn lại quật khởi, rải truyền đơn trắng xóa thành Thiên Tân, lời lẽ toàn của cõi trên: nào bài giảng của Quan thánh Đế quân khi giáng cơ, lời báo mộng của Quan Âm, lời mách bảo của Tế Điên hòa thượng sau cơn say v.v…
Để chống phá Thiên Chúa giáo, Nghĩa Hòa đoàn thỉnh Ngọc hoàng Thượng đế cho đủ thứ thiên binh thần tướng giáng trần, có bài chú làm chứng: Thiên linh linh địa linh linh, Cung thỉnh tổ sư lai hiển linh. Nhất thỉnh Đường tăng Trư Bát Giới, Nhị thỉnh Sa tăng Tôn Ngộ Không, Tam thỉnh Nhị lang lai hiển thánh, Tứ thỉnh Mã Siêu Hoàng Hán Thăng[15], Ngũ thỉnh Tế Điên ngã Phật tổ, Lục thỉnh giang hồ Liễu thụ tinh[16], Thất thỉnh Phi tiêu Hoàng Tam Thái[17], Bát thỉnh tiền triều Lãnh Ư Băng[18], Cửu thỉnh Hoa Đà lai trị bệnh, Thập thỉnh Thác tháp Lý Thiên vương[19].
Ngoài ra, e rằng chưa đủ, danh sách xung trận còn được bổ sung thêm dằng dặc: Võ Tòng, Hoàng Phi Hổ, Khương Tử Nha, Gia Cát Lượng, Tần Thúc Bảo, Uất Trì Cung, Hạng Võ, Cửu thiên Huyền nữ, Lê sơn Thánh mẫu… Dễ nhận ra các thần thánh này hầu hết đều bước ra từ tiểu thuyết diễn nghĩa, chẳng theo trật tự hệ thống nào. Toàn đụng đâu cầu đó, bất cứ thứ gì cũng được hú mời phụ đánh Dương quỷ tả đạo.
Để luyện độc môn thần công, môn đồ Thần quyền phải khấu đầu 36 lạy, kết vị nào trong danh sách tạp-pí-lù trên thì khấn thần đó nhập vô mình. Thần quyền có hai cảnh giới: Hồn công là bực thấp, luyện trong bách nhật là có thể xuất sư; Thanh công ở bậc cao hơn, phải tốn 400 ngày (Hồn 渾 là đục, Thanh 清 là trong). Chỉ cần luyện xong Hồn công là đủ để dao chém không đứt đạn bắn không lủng. Còn luyện được Thanh công thì có thể bay liệng giữa thinh không!
Thần công linh diệu quá nên đông đảo nhân dân xin gia nhập đặng luyện tấm thân kim cang bất hoại.
Tình trạng này khiến thầy dạy phép thuật không xuể, trong khi tinh thần cách mạng của quần chúng cứ tăng cao, thậm chí chưa luyện xong Hồn công đã có đứa đòi xung phong ra giết giặc đặng chứng nghiệm võ công vừa sở đắc. Sư phụ e đám môn đồ chưa đủ hỏa hầu nên mới phòng xa, phát cho mỗi đứa lận lưng quần một lá bùa hộ mạng bằng giấy vàng. Ngoài ra còn dạy cho bài thần chú huyền nhiệm như vầy: Tả thanh long hữu bạch hổ, Vân lương Phật tiền tâm, Huyền hỏa thần hậu tâm, Tiên thỉnh thiên vương tướng, Hậu thỉnh hắc sát thần[20]. Lúc ra trận, chỉ cần thành tâm tụng bài linh chú này là được thánh thần che đỡ tứ bề, đấm đách sợ súng đạn.
Thực tế thiệt là tàn nhẫn và đáng ghét lắm luôn: lâm trận, ngàn vạn huynh đệ Nghĩa Hòa đoàn trợn mắt vung đao ào ào xốc tới, khí thế tưởng chừng dời non lấp biển tới nơi thì bỗng súng nổ rền vang thây người liền sắp lớp. Hầu hết đội Thần quyền chưa kịp tụng xong bài chú đã thẳng cẳng chết tươi. Rõ ràng Tây dương ăn gian: người ta chưa kịp niệm xong chú, nó đã nổ súng trước, khiến nên thánh thần phù hộ không kịp. Rút kinh nghiệm, thần binh Nghĩa Hòa đoàn đổi chiến thuật. Đợi khi đêm xuống, anh em ta uống phép dán bùa, tưới máu chó lên mình, tụng chú đâu đó xong xuôi mới xông vào trại giặc. Nhưng mà kết quả vẫn y thinh không đổi, các cuộc xung phong cứ như trò tự sát tập thể, hỏi có lạ hông?
Ngày nay nhìn lại, người ta không khỏi tự hỏi: sao trên đời có thứ gì u mê ám chướng dữ bây, đi liều thân thí nghiệm cho phù phép dị đoan để tử lố bịch nhường ấy?
Giáo sĩ phương tây truyền giáo ở Trung Hoa
Cái này phải xét bối cảnh thời đó: đế quốc Mãn Thanh vừa thua Chiến tranh Giáp Ngọ, vị thế quốc tế té cái ịch xuống thành mạt hạng, đã vậy còn phải vét tài nguyên, thuế má, quốc khố để bồi thường chiến phí cho Nhật Bản, đó là một. Tập đoàn Từ Hy khăng khăng giữ đường lối chính trị bảo thủ để níu giữ chút quyền lực suy tàn, không màng quan tâm đến nhu cầu canh tân của quốc dân, khiến lòng người oán giận, đó là hai. Sau hai cuộc khởi nghĩa long trời xảy ra gần như cùng lúc là Thái bình Thiên quốc (1851-1864) và Niệm quân Khởi nghĩa (1853-1868)[21], bạo loạn theo đó liên tiếp xảy ra khắp nơi theo phản ứng dây chuyền. Kinh tế vì vậy kiệt quệ vô phương hồi phục, dân chúng lâm vào cảnh cùng đường mạt lộ, mâu thuẫn giữa nhân dân và chính quyền lên đến cực điểm, đó là ba.
Trong bối cảnh đó, ở bốn tỉnh Sơn Đông, Trực Lệ, Sơn Tây, Thiểm Tây (địa bàn hoạt động của Nghĩa Hòa đoàn), có đến hàng triệu nông dân mất đất phải bỏ quê lên thành kiếm sống; trong số lưu dân này có cả tàn quân các cuộc nổi loạn hoặc binh lính người Hán đào ngũ. Toàn bộ đám này đều mù chữ lại không nghề nghiệp. Đương khi lâm cảnh chết dở bỗng được hứa hẹn của Nghĩa Hòa đoàn về một tương lai tươi sáng sau khi cách mạng thành công, ai nghe chẳng ham? Cho nên họ đã nhắm mắt liều thân đâm đầu vào cửa tử để cầu sinh. Và bi kịch của tận cùng ngu muội đã xảy ra như vậy đó[22].
Sử dụng quỷ dữ
Trở lại thời điểm 1899. Dư đảng Nghĩa Hòa đoàn ở huyện Trường Thanh tỉnh Sơn Đông sau khi bị triều đình đánh dẹp đã phải bôn đào tứ tán ra các tỉnh Trực Lệ, Thiểm Tây, Sơn Tây; để rồi sau đó vài tháng, băng du đãng hàng huyện này tái khởi khắp bốn tỉnh, và lần này trở thành một bang hội hùng mạnh.
Sở dĩ dai dẳng đỉa trâu vậy là nhờ Nghĩa Hòa đoàn thời may gặp địa lợi- nhân hòa là được ở ngay vùng trũng đựng đầy cô hồn vong mạng; cạnh đó là sự dung túng của triều đình. Các quan lại địa phương đã cố tình nương tay, để mặc lũ côn đồ hoành hành bá đạo, và yếu tố này thực sự thành thiên thời khi Từ Hy thái hậu ghé mắt xanh thưởng thức Nghĩa Hòa đoàn.
Từ Hy thái hậu (1835-1908)
Sau chính biến Mậu Tuất[23], Từ Hy bắt giam Quang Tự, dự định lập hoàng đế mới lên thay. Người được chọn là con thứ của Thụy quận vương Tải Y[24]: Ái Tân Giác La Phổ Tuấn. Phúc tấn của Tải Y là cháu gái Từ Hy, nên Lão Phật gia[25] hy vọng cậu bé Phổ Tuấn 15 tuổi sẽ là hoàng đế ngoan ngoãn biết vâng lời. Phổ Tuấn do đó được phong Đại A ca (Thái tử), và Quang Tự bị thúc ép viết chiếu nhường ngôi cho Tuấn.
Phế vua cũ lập vua mới là việc trọng đại bằng trời nhưng là trò Từ Hy từng dàn dựng không chỉ một lần. Song lần này lại có thế lực ngăn trở là bọn Tây dương. Các công sứ nước ngoài do có thiện cảm bởi tư tưởng và công cuộc duy tân của Quang Tự nên quyết liệt phản đối dự định phế ông.
Tải Y thấy mình đã mấp mé ghế Thái thượng hoàng bỗng bị kỳ đà cản mũi thì căm hận bầm gan. Triều đình lúc ấy không dám ra mặt trực tiếp đối nghịch các nước Tây dương, nên thượng sách không gì bằng lợi dụng bang hội giang hồ; Tải Y nghĩ ngay tới bọn Thần quyền. Đang lúc ấy, Nghĩa Hòa đoàn cũng đánh hơi được sự tình, bèn đổi khẩu hiệu từ Phản Thanh diệt Dương ra Phù Thanh diệt Dương[26]. Tải Y nhân đó thổi lỗ tai Thái hậu, hết lời ca tụng trung nghĩa của Nghĩa Hòa đoàn.
Thụy quận vương Tải Y (1856-1922)
Từ Hy bán tín bán nghi, phái Hình bộ Thượng thư Triệu Thư Kiều và Đại học sĩ Cang Nghị đi thẩm tra. Hai trự đại thần mới tới Thiên Tân đã mục kích Nghĩa Hòa đoàn tấn công 48 nhà thờ Thiên Chúa giáo ở đấy: Hơn ba ngàn dũng sĩ táo tợn bủa vây một giáo đường, họ dũng mãnh lăn xả vào chém giết thẳng tay đám con chiên tay không tấc sắt. Nhiêu đó đã đủ cho tờ tường trình, nhị vị khâm sai lật đật hồi kinh bẩm báo. Từ Hy lấy làm đẹp dạ, bèn xuống chiếu vời Nghĩa Hòa đoàn lai kinh hộ quốc, tổ chức Thần quyền vậy là nghiễm nhiên bước lên vũ đài lịch sử.
Nghĩa Hòa đoàn khắp nơi rầm rộ kéo về Bắc Kinh. Việc đầu tiên, chúng bày giàn dựng rạp khắp nẻo phố phường để luyện công năng đặc dị. Không chỉ vậy, chúng còn buộc toàn thể các hộ dân phải lập bàn thờ Hồng Quân lão tổ[27], Lê Sơn thánh mẫu[28] trong nhà. Bất kỳ ai ngạo mạn buông lời xúc phạm các thánh thần, hoặc chế nhạo các phép thuật thần kinh của đảng ta đều bị giết không tha. Cả ngày lẫn đêm, kinh thành bị che phủ bởi khói nhang nghi ngút.
Tiếp theo, Nghĩa Hòa đoàn can thiệp luôn vào triều chính, chúng vu cho Quang Tự đế là “Giáo chủ Thiên Chúa giáo”, với bằng chứng là đã chủ trương duy tân trong chính biến Mậu Tuất. Để vô hiệu hóa các đại thần trung thành với hoàng đế như Khánh thân vương Dịch Khuông[29], Lý Hồng Chương[30]…, Nghĩa Hòa lên án họ thông đồng bán nước. Các bậc trí thức đành ngậm miệng để bảo toàn mạng sống, còn bọn quan lại thì tích cực theo hùa Từ Hy và Tải Y, giang sơn hoàn toàn phó thác vào tay ma đạo.
Tháng 5 năm 1900, dựa vào binh lực Nghĩa Hòa đoàn, Từ Hy điều vây cánh nắm giữ các chức vụ trọng yếu trong triều, cục diện kinh sư trở nên hỗn loạn vô phương khống chế. Bọn Quyền phỉ mặc sức hoành hành tàn sát giáo dân Thiên Chúa. Chính Dương môn của Tử cấm thành vốn là khu ngoại thương có hơn 4.000 cửa hiệu cũng bị chúng đốt trụi, ngọn lửa lan sang cả cung khuyết, trận hỏa hoạn này cháy suốt ba ngày đêm liền mới tắt.
Nghĩa Hòa đoàn tấn công nhà thờ, giết hại giáo dân
Công sứ Nga gửi thư cảnh cáo Từ Hy nhưng công hàm bị giấu nhẹm, công sứ các nước khác xin diện thánh cũng không được phê chuẩn. Giọt nước tràn ly là khi một viên chức ngoại giao Nhật Bản bị phanh thây giữa chợ. Các nước rục rịch tổ chức liên quân, cục diện thành thế cung giương hết cở.
Lúc này, triều đình Mãn Thanh chia làm hai phe, một bên chỉ trích Nghĩa Hòa đoàn là loạn phỉ cần tiêu diệt; bên kia lại chủ trương lợi dụng Nghĩa Hòa đoàn để tấn công các sứ quán, quét sạch ngoại bang.
Sau vụ hỏa thiêu Chính Dương môn, Từ Hy cũng lấy làm bất an đứng ngồi không yên. Ngày 20-5-1900, Lão Phật gia triệu tập các đại thần, học sĩ của Lục bộ Cửu khanh, cùng nhau thương nghị tìm phương án hóa giải tình hình căng thẳng. Sau nhiều tranh cãi, phe Thụy quận vương Tải Y chiếm ưu thế với nhận định Nghĩa Hòa đoàn là thần binh nghĩa dũng có lợi cho nước.
Kết thúc hội nghị hiệp thương lần thứ nhất, hai trọng thần được phái đi Thiên Tân điều đình với liên quân, nhưng Lý phiên viện Tả thị lang Na Đồng và Lại bộ Tả thị lang Hứa Cảnh Trừng chưa ra tới cổng thành đã sa vào vòng vây của Nghĩa Hòa đoàn, mém tý bỏ mạng. Từ Hy thái hậu phải triệu tập hội nghị lần hai, và cuộc đình nghị vẫn cho ra kết quả y chang lần trước.
Bích chương trên báo Pháp về việc khủng bố ngoại kiều của Nghĩa Hòa đoàn.
Đang lúc Từ Hy phân vân bồn chồn như cồn bị cào thì Tải Y ngụy tạo công hàm các nước, trong đó nêu bốn yêu sách:
1. Thả Quang Tự đế.
2. Bàn giao công việc điều hành kinh tế cho liệt cường quản lý.
3. Y như trên đối với quân đội.
4. Giao trả thực quyền cho Quang Tự.
Vị Thái thượng hoàng tương lai quả nhìn thấu tim gan Thái hậu, điều khoản sau chót làm bà ta nhảy dựng. Biểu người phụ nữ 65 tuổi này buông bỏ quyền lực thì khác nào bảo bà đi chết? Kể từ lúc này, bất cứ đại thần nào bài bác dự định đối địch liệt cường đều bị chém không tha.
Hội nghị lần ba được triệu tập để truyền thánh ý: phải bao vây các sứ quán, chém toàn bộ sứ thần các nước. Bá quan chỉ còn biết nhất tề tung hô Thái hậu anh minh thần võ lia lịa. Anh minh Thái hậu hạ chiếu ban khen Nghĩa Hòa đoàn làm Nghĩa quân, lại xuất 10 vạn lạng bạc trắng tưởng lệ công lao hộ quốc.
Sự kiện năm 1900 đó, sau này được gọi Biến cố Canh Tý, là vụ hoang đường nhất lịch sử Trung Hoa: một mụ già tham quyền cố vị đặt cược cả vương triều vào bọn cô hồn các đảng để nhất loạt tuyên chiến với 11 cường quốc.
Tàn một giấc mơ
Quyết định xong, Từ Hy cài hoàng thân quý tộc vào làm đầu lĩnh, nắm quyền chỉ huy bọn Nghĩa Hòa, biến đoàn quân ngu muội này thành chủ lực tiên phong.
Ngày 20 tháng 6, công sứ Đức quốc là Klemens Freiherr von Ketteler đại diện các nước gửi thỉnh nguyện thư yêu cầu chính quyền Mãn Thanh bảo đảm an toàn cho vợ con các sứ đoàn thì bị Nghĩa Hòa phục kích giết chết. Hôm sau, 21-6-1900, Thanh đình mượn danh nghĩa Quang Tự tuyên chiến với Anh, Mỹ, Pháp, Đức, Ý, Áo, Nhật, Nga, Bỉ, Hà Lan và Tây Ban Nha, tổng cộng 11 nước. Quỷ thần thiên địa ơi, đó là 11 nước hùng mạnh nhất hoàn cầu. Bỏ riêng ra đơn đả độc đấu, Đại Thanh đế quốc dù chọi tay đôi cũng chả hy vọng chơi lại bất kỳ anh nào trong đám đó; và cộng lại thì thực lực quân đội của họ phải mạnh hơn Tàu gấp 81 lần rưỡi. Vậy đó mà Từ Hy lại hiu hiu tự đắc chắc đoàn thần binh ếm xí bùa lcủa mình có thể nuốt gọn liệt cường!
Triều đình cũng phát đi lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, treo giải thưởng cho những ai lập công giết đặng Dương nhân: mỗi Monsieur được 50 đồng bạc trắng Tây Ban Nha, Madame giá 40 đồng, cả tính mạng Baby cũng được rao giá 30 đồng bạc. Nghĩa Hòa đoàn bừng bừng phấn khởi rủ nhau tấn công khu vực sứ quán các nước.
Khu công sứ ở Bắc Kinh lúc này có khoảng 3.000 người, trong đó có khoảng 2.000 dân Tàu theo Công giáo[31]; còn lại là ngoại kiều gồm 400 đàn ông thường dân, 147 phụ nữ, 76 trẻ em, cùng 409 binh sĩ. Hỏa lực của họ chỉ có 4 đại bác và 3 súng máy. Khu công sứ tự tổ chức phòng ngự dưới quyền chỉ huy của sứ thần Hoàng gia Anh Sir Claude Maxwell MacDonald, nhưng họ không đủ sức kéo dài thời gian chờ viện quân, toàn bộ khu này đã bị Nghĩa Hòa đoàn xóa sổ…
Ngày 25 tháng 6, đang khi khói lửa đùng đùng, bốn anh em nhà Ái Tân Giác La là Tải Y, Tải Huân, Tải Liêm, Tải Huỳnh dẫn hơn 60 huynh đệ Nghĩa Hòa đoàn xông vào Doanh đài định hành thích Quang Tự, may mà Từ Hy kịp thời ngăn cản. Xem ra cha nội Thụy quận vương tận trung với nước thì ít mà tận lực vì nhà mới thiệt là nhiều lắm luôn.
Quang Tự đế (1871-1908)
Ngày 8 tháng 7 năm 1900, 45.000 binh sĩ của Liên quân tám nước Anh, Ý, Pháp, Đức, Áo, Nhật, Nga, Mỹ do sĩ quan Nga General Linevitch làm Tổng tư lệnh được lệnh xuất phát.
Ngày 14 tháng 7, liên quân chiếm được Thiên Tân, Tổng đốc Trực Lệ là Dụ Lộc bại binh tự sát.
Ngày 28 tháng 7, Lại bộ Tả thị lang Hứa Cảnh Trừng và Thái thường Thị lang Viên Sưởng dâng tấu xin nghị hòa liền bị xử tử.
Ngày 4 tháng 8, liên quân trực chỉ Bắc Kinh. 15 vạn huynh đệ Nghĩa Hòa đoàn bình thường hùng hùng hổ hổ giả thần lộng quỷ giết hại dân lành giờ bỗng xếp re, chả thấy ma nào nhào ra uýnh giặc cản đường. Liên quân tới đâu, dân chúng Trung Hoa vui mừng đổ ra chào đón hỗ trợ tới đó.
Ngày 11 tháng 8, thêm 3 đại thần chủ hòa là Tổng lý nha môn Hành tẩu Nội các Học sĩ Liên Nguyên, Hộ bộ Thượng thư Dương Lập Sơn, Thái tử Thiếu bảo Từ Dụng Nghi bị xử trảm.
Sáng sớm ngày 14 tháng 8, liên quân áp sát chân thành.
Ngày 15, liên quân chiếm lĩnh các trục giao thông chính trong nội thành.
Rạng sáng ngày 16, Từ Hy thái hậu dắt bọn hầu tử hầu tôn đào thoát ra Tây An[32]. Buổi chiều cùng ngày, liên quân tám nước tiến vào Tử cấm thành.
Nghĩa Hòa đoàn quật khởi ở Sơn Đông, trong ba tháng nhuộm máu khắp bốn tỉnh phía nam Hoàng hà, để rồi bị toàn môn tru lục chỉ trong ba ngày đêm, và bài học thì để lại đến muôn đời: quân điên khùng mà muốn đè đầu cưỡi cổ thiên hạ, đôi tay lại nhuốm đầy máu tanh thì sớm muộn gì cũng lên đường!
Dân chúng phụ vịn thang cho liên quân 8 nước trèo vào thành Bắc Kinh.
Liên quân tám nước tiến vào Tử cấm thành
Bùa hết linh, Nghĩa Hòa đoàn đền tội.
[1] Trung quốc thông sử: bộ thông sử đầu tiên của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, do Hội Sử học Trung quốc bảo trợ. Công trình này được cho là tâm huyết của các chuyên gia thượng thặng hợp sức, biên soạn trong suốt 10 năm, hoàn thành vào 1999. Gồm 12 quyển, nội dung đa dạng, bao gồm chính trị, kinh tế, văn hóa, dân tộc, địa lý, điển chương, kỹ thuật… Bộ sử này thể hiện đúng đắn quan điểm của cộng về mấy ngàn năm lịch sử Hoa Hạ.
[2] Tần Thủy hoàng tế cáo Hạ Vũ ở Cối Kê, bị chết lúc đang giữa đường quay về kinh. Bọn Triệu Cao, Lý Tư giấu kín tin này, cho chở theo trên xa giá một thạch (khoảng gần 60kg) cá muối để người khác không nghe thấy mùi xác ươn của Doanh Chính.
[3] Di Lặc giáo: giáo phái lấy tư tưởng kinh Tạp A Hàm (Saṃyuttanikāya) làm triết thuyết căn bản. Người sáng lập là Hấp Huyền Phong, còn gọi Phó đại sĩ (497-569), nhân vật tề danh Bồ Đề Đạt Ma và Bảo Chí thiền sư, cùng được tôn làm Tam đại sĩ của Nam Bắc triều. Các chưởng môn đời sau của Di Lặc giáo thường tự xưng Di Lặc xuất thế, liên tục dấy binh phản kháng triều đình. Cuối đời Nguyên, Di Lặc giáo lại hợp nhất với Minh giáo, thanh thế càng mạnh.
[4] Minh giáo, còn gọi Ma Ni giáo hay Mâu Ni giáo. Một giáo phái Phật giáo được thành lập ở Ba Tư (Iran) từ giữa thế kỷ III. Sau đó, triết thuyết thiện ác nhị nguyên luận của Minh giáo tiếp thu tư tưởng phủ nhận Cựu ước của nhà thần học Marcion. Minh giáo cho rằng thế gian luôn tồn tại hai thế lực đối lập là quang minh và hắc ám, và họ là đại diện chân chính duy nhất của thế lực quang minh, có bổn phận phải tiêu diệt hắc ám (tức những kẻ không theo mình).
Minh giáo truyền sang Trung Hoa từ cuối đời Hán, nhưng chỉ náu mình ở các phiên trấn, đến cuối đời Đường thì thanh thế lớn dần, bắt đầu xâm nhập Trung nguyên và trở thành thế lực ngầm ủng hộ Võ Tắc Thiên xưng đế. Lý Long Cơ (Đường Minh hoàng) lên ngôi bèn thẳng tay tru diệt khiến Minh giáo phải dạt ra các tỉnh duyên hải. Đời Nguyên, Mông Cổ dành cho Minh giáo nhiều ưu đãi với hy vọng có thể dùng họ tiêu diệt Bạch Liên giáo. Minh giáo khéo lợi dụng mâu thuẫn giữa triều đình Nguyên với Bạch Liên để hoằng dương môn phái, sau đó trở thành thế lực ngầm ủng hộ Chu Nguyên Chương lập nên nhà Minh. Chương sau đó quay lại tiêu diệt Minh giáo.
[5] Hình tượng đóa sen trắng, do thành tích kháng Nguyên, đã trở thành tượng trưng đạo nghĩa giang hồ, nên không ít giáo phái khác mượn danh nghĩa xây dựng cơ đồ. Điều này khiến Bạch Liên được xem như khởi thủy của hầu hết các tổ chức bang hội.
[6] Lợi nhuận quá cha Việt cộng thu được khi đổi tiền.
[7] Chiến tranh Giáp Ngọ: còn gọi Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất, hay nói theo kiểu Nhật thì là Chiến tranh Nhật-Thanh, là cuộc chiến giữa Mãn Thanh với Nhật Bản, nổ ra ở bán đảo Triều Tiên từ 8/1894 đến tháng 4/1895. Chiến thắng thuộc về nước Nhật đã canh tân. Kết quả Thanh phải ký Điều ước Mã Quan (Hiệp ước Shimonoseki), chịu mất quyền lợi và ảnh hưởng ở bán đảo Triều Tiên, cắt nhượng cho Nhật Bản bán đảo Liêu Đông, quần đảo Bành Hồ, Đài Loan… Đã vậy còn phải bồi thường chiến phí, mở toang các hải cảng cho thương thuyền ngoại quốc ra vào, đồng thời phải dành cho Nhật đãi ngộ của tối huệ quốc.
[8] Theo thống kê năm 1900, ở Trung Hoa đã có hơn 500.000 giáo dân.
[9] Hồng Quyền hội: bang hội được thành lập cuối đời Thanh, bởi các đệ tử Nam phái Thiếu Lâm, thịnh truyền ở vùng Lưỡng Quảng, Tứ Xuyên.
[10] Từ chi tiết này, các sử gia Trung cộng nâng level cho Châu Hồng Đăng biến hình thành kẻ Nho sĩ sinh bất phùng thời. Thực tế thì Đăng mù chữ, năng lực vào hạng lang vườn, chỉ biết bốc thuốc suông chứ không thể bắt mạch ra toa.
[11] Từ 1858, nhân cơ hội Mãn Thanh mới đại bại sau Chiến tranh Nha phiến lần II, Đế quốc Nga lấn chiếm khu vực Amur, lấy đi hơn một triệu cây số vuông lãnh thổ Đông Bắc của Trung Hoa. Mối thâm thù đại hận này khắc sâu vào tâm can bọn Tàu mãi mãi không phai, chẳng tình đồng chí vô sản nào có thể hóa giải nổi. Dân Tàu từ đó gọi bọn Nga có tóc-lông-râu đều hung hung đỏ là Hồng Mao quỷ, gọi tắt Mao quỷ hoặc Mao tử. Từ đó, căn cứ theo huyết thống mà chia làm bốn thứ hạng: Lão mao tử là người có 100% dòng máu Nga; Nhị mao tử là con lai Nga-Tàu; Tam mao tử và Tứ mao tử là đã lai Nga đến đời thứ 3, 4. Nghĩa Hòa đoàn mở rộng khái niệm Mao tử này để áp dụng vào mọi chủng Tây Dương, lại truy cứu dây mơ rễ má xuống dài thoòng-loòng thành bảng chấm công Thập mao tử.
[12] Dục Hiền (1842-1901): một trong số quan lại bài ngoại cực đoan của Mãn Thanh. Gia thế khá giả nên từ lúc trẻ Hiền đã mua được học vị Giám sinh. Năm 1879, nhân dịp tuyển dụng Đồng tri phủ, Hiền lại nộp tiền mua chức này. Thẳng tay trấn áp các cuộc khởi loạn của người Hán, Hiền thăng dần đến Án sát sứ. Lập công lớn trong tảo trừ Đại Đao hội, Hiền lên Bố chánh, đến 1898 đảm nhiệm Tuần phủ tỉnh Sơn Đông, tột bậc vinh hoa là được phong Chánh Hoàng kỳ Nội vụ phủ. Hoạn lộ của Dục Hiền được xây bằng xác lê dân và máu ngoại kiều. Năm 1900 xảy ra sự kiện liên quân tám nước đánh chiếm Tử Cấm thành, Hiền có công hộ giá Từ Hy đào thoát Tây An. Nhưng khi Thanh triều thảo luận nghị hòa, liên quân nêu đích danh Dục Hiền là tên đầu sỏ khủng bố tạo nên xung đột thì Hiền bị cách chức đày đi Tân Cương, sau đó bị xử trảm.
[13] Đã có nhiều nghiên cứu lý giải hiện tượng cà nứng này, với đủ thứ kết luận khoa học về các nguyên nhân tâm sinh lý bí hiểm. Riêng tôi có lần ngắt trộm thẻ nhang của một “lò võ” Thần quyền Thất sơn về đốt thử: chỉ một đoạn bằng ba lóng tay đã tạo ảo giác khiến kẻ này tưng tưng, hoa chân múa tay nhảy Lambada suốt buổi.
[14] Nguyên văn chữ Tàu: 「請請志心皈命禮,奉請龍王三太子。馬朝師,馬繼朝師。天光老師、地光老師、日光老師、月光老師、長棍老師、短棍老師。」
[15] Hoàng Hán Thăng tức Hoàng Trung, cùng với Mã Siêu là hai tướng trong Ngũ hổ của Lưu Bị (theo Tam quốc chí diễn nghĩa).
[16] Liễu thụ tinh: dân Tàu cho rằng những cây liễu lâu năm cành lá um tùm thường được ma quỷ yêu tinh nương náu. Từa tựa “thần cây đa, ma cây gạo” của An Nam.
[17] Hoàng Tam Thái vốn hành nghề bảo tiêu, một hôm đi lạc vào bãi săn của hoàng thất. Nhè đúng lúc ấy, Khang Hy đang đi săn bị cọp dí tới nỗi té ngựa sút quần, Thái liền phóng phi tiêu cứu giá. Y chẳng những không bị bắt tội mà còn được vua ban thưởng cho Hoàng mã quái 黃馬褂(*). Ân sủng lớn lao này khiến Thái cao hứng, buột mồm phét lác là nếu trong nội cung có bị thất lạc bất cứ thứ gì, mình cũng có thể tra ra được tuốt. Dè đâu lúc ấy hoàng cung quả vừa mất đồ, mà lại đồ cực quý mới ghê.
Đó là cái chén hình chữ nhật, bề dài 6cm, rộng 4cm, cao 3cm. Chén này không chỉ quý vì chất bạch ngọc vô khuyết mà còn bởi mỗi mặt bên ngoài đều chạm hình song long hý châu, chỗ tay cầm có thêm một rồng vờn, tổng cộng thành chín rồng. Bạch ngọc trong suốt, khi được rót đầy rượu, hình rồng bên ngoài phản chiếu khiến trong lòng chén hiện ra chín giao long nhào lộn lung linh. Chén vì vậy có tên Cửu long Ngọc bôi, là bảo vật được Khang Hy trân quý đệ nhất. Vậy mà nó bỗng dưng không cánh mà bay. Khang Hy bèn truyền chỉ cho Hoàng Tam Thái phá án, kỳ hạn trong một tháng nếu không tìm ra thì nộp thủ cấp thế vô.
Thái về nhà càng nghĩ càng lạnh teo bu-gi, tính tới tính lui chẳng còn cách nào khác là phải nhờ vả đồng đạo võ lâm. Y mở một tiệc lớn, đánh tiếng là để rửa Hoàng mã quái, mời anh hùng các lộ về dự. Trong buổi tiệc, Thái dò la thì có người nhận là đã vào hoàng cung chôm Cửu long Ngọc bôi, chỉ cốt để lấy số má giang hồ. Người này là Dương Hương Vũ, sư huynh đồng môn của Thái. Khốn nỗi Vũ trộm được chén ngọc nhưng chẳng dám giữ lâu, đã phi tang liệng con bà nó mất.
Tới đây tưởng mất dấu thì may thay có tay chuyên đào tường khoét ngạch là Vương Bá Ngạc khoe mình có lượm được món ấy, nhưng đã tặng lại cho bạn thân là Châu Ứng Long. Châu Ứng Long ngoại hiệu Kim sí Đại bàng, võ nghệ vào hàng thượng thặng. Long cũng xuất thân Thắng Anh môn, là một sư huynh khác của Hoàng Tam Thái. Có điều Long với Thái có thù hiềm nên từ lâu đã tuyệt tình, chắc chắn y thà đập bể chén ngọc còn hơn, đấm đách giao lại cho Hoàng Tam Thái. Cả bọn mới bày mưu tính kế tiềm nhập Châu gia trang đặng trộm chén lần hai.
Sau đó, nhân sinh nhật Châu Ứng Long, Dương Hương Vũ và Vương Bá Ngạc phối hợp đoạt lại được ngự bôi. Hoàng Tam Thái cả mừng, cùng Vũ đem chén Cửu long về kinh thỉnh tội. Túc Thanh vương nghi ngờ khả năng “thần thâu” của Dương Hương Vũ, nên tạm cất ngự bôi trong phủ, giao hẹn nếu Vũ trộm được thì sẽ đứng ra bảo lãnh giúp Vũ miễn tội. Dương Hương Vũ nhờ sự hỗ trợ của đồng bọn đã trổ tài trộm chén lần ba, lừng danh Thần thâu khắp thiên hạ.
Cửu long Ngọc bôi quả được bồi táng cùng Khang Hy trong Cảnh lăng, và bị bọn trộm mộ lấy đi đâu mất, tới nay không biết trôi nổi phương nào. Nhưng toàn bộ câu chuyện kể trên, với những tình tiết thắt mở gay cấn ly kỳ lại chỉ là kịch bản trong một vở tuồng cổ kêu bằng Tam đạo ngự bôi. Thử hỏi: Phi tiêu nào mà sức công phá mạnh hơn cả AK-47, phát một quật chết tươi con cọp đang lao tới vồ mồi? Ăn trộm nào lọt thấu cấm cung để tự tiện hoành hành? Nhiêu đó đủ thấy mức độ ấu trĩ của Nghĩa Hòa đoàn: tưởng nhân vật hư cấu là thần thánh thật.
(*) Quái là áo mặc bên ngoài, tương tự áo gilet trong Âu phục. Phục sức của triều đình Thanh chế định làm nhiều loại, như triều phục mặc khi nghị triều, thường phục mặc lúc bình thường trong nhà, hành phục mặc khi ra ngoài, vũ phục để mặc đi mưa v.v… Mã quái được thiết kế mặc ngoài khi cưỡi ngựa. Áo này thuộc Hành phục, phân biệt thứ bậc theo màu sắc. Áo màu vàng dành riêng cho hoàng đế gọi Hoàng mã quái.
Hoàng mã quái lại chia làm 3 hạng, có sắc đậm lợt khác nhau:
1/- Hành chức quái tử: dành cho các ngự tiền thị vệ và những quan quân tùy tùng. Áo này là đồng phục công tác, không có hoa văn đồ án, hết nhiệm vụ tùy hầu là phải thay ra cho lẹ.
2/- Hành viên quái tử: áo ban thưởng cho những người đạt thành tích cao lúc đi săn với hoàng đế, chỉ mặc khi tháp tùng thiên tử săn bắn, bình thường mà mặc vô để ngựa bà là lập tức đầu lìa khỏi cổ.
3/- Võ công quái tử: màu vàng sậm, hoa văn rực rỡ, đồ án uy nghi. Loại này dành riêng ban thưởng người có công trạng đặc biệt, chính là áo mà Hoàng Tam Thái được ân tứ (ngày nay, danh từ Hoàng mã quái vẫn thường được Tàu dùng để chỉ người được sếp đặc biệt sủng ái).
[18] Lãnh Ư Băng hiệu là Bất Hoa, nhân vật thời Minh. Đây không phải võ tướng, mà là một văn nhân. Từ nhỏ, văn tài xuất chúng của Băng đã chấn động Trường An. Vì vậy, Tướng quốc Nghiêm Tung cực kỳ hâm mộ, mời về làm thượng khách. Mọi việc lớn nhỏ Tung đều hỏi ý Băng. Khi Sơn Tây xảy ra nạn đói trầm trọng, có viên Ngự sử họ Trương dâng sớ đàn hặc vạch tội Nghiêm Tung giấu diếm tình hình thiên tai che mắt hoàng thượng. Tung mới nhờ Băng trổ văn tài làm tờ tấu phản đòn vu cáo Trương ngự sử. Lãnh Ư Băng khẳng khái khước từ không chịu bẻ cong ngòi bút, phủi đít bỏ đi mai danh ẩn tích.
Niên hiệu Càn Long nhà Thanh, Lý Bá Xuyên sáng tác tiểu thuyết Lục Dã tiên tông 绿野仙踪, lấy Lãnh Ư Băng làm nhân vật chính. Trong tiểu thuyết này, tác giả hô biến Lãnh Ư Băng thành tiên nhân pháp thuật cao cường, chuyên cứu khổn phò nguy vớt bá tánh trong cảnh trầm luân. Rất có thể trong các lãnh tụ Nghĩa Hòa đoàn có đứa mê tiểu thuyết này, nên mới có câu chú kỳ cục kẹo làm vậy.
[19] Nguyên văn: 天靈靈地靈靈,奉請祖師來顯靈。一請唐僧豬八戒,二請沙僧孫悟空,三請二郎來顯聖,四請馬超黃漢升,五請濟顛我佛祖,六請江湖柳樹精,七請飛鏢黃三太,八請前朝冷於冰,九請華佗來治病,十請托塔李天王。
[20] Nguyên văn: 左青龍右白虎,雲涼佛前心,玄火神後心,先請天王將,後請黑煞神。
[21] Niệm quân Khởi nghĩa: cuộc nổi loạn của nông dân ba tỉnh Giang Tô, Sơn Đông, Hà Nam, triều đình đánh dẹp ròng rã 15 năm trời mới tạm yên.
[22] Đây là chân lý đúc kết từ kinh nghiệm lịch sử, quyết không thể sai chạy: cách mạng chỉ có thể xảy ra khi xã hội có được lực lượng hùng hậu những kẻ khốn khổ cùng quẫn tuyệt vọng. Đây là kho tàng để gom xương máu tranh bá đồ vương. Ai khéo lợi dụng được lực lượng này kẻ ấy thành lãnh tụ.
[23] Biến pháp Mậu Tuất: còn gọi cuộc Bách nhật Duy tân, do phái Duy tân đề xướng và được Quang Tự đế cho thi hành từ 11-6 đến 21-9-1898. Công cuộc duy tân này bị Từ Hy hạ lệnh bãi bỏ, toàn bộ những người chủ trì đều bị nghiêm trị, riêng Quang Tự bị giam lỏng ở Doanh đài.
[24] Tải Y (1856-1922): dòng dõi Ái Tân Giác La, thuộc Mãn Châu Nhương Bạch kỳ, là anh em chú bác với Quang Tự đế.
[25] Từ Hy hóa trang thành Quan Âm, với thái giám cung nữ giả làm Thiện Tài đồng tử và Long nữ theo hầu rồi chụp hình phóng lớn treo trong tẩm cung. Bọn nịnh thần theo đó bợ đít, gọi Thái hậu là Lão Phật gia.
[26] Chó má tráo trở chẳng thua gì Cộng tặc sau này.
[27] Hồng Quân lão tổ: theo tiểu thuyết Phong thần diễn nghĩa, là sư phụ của Thái Thượng lão quân, Nguyên Thủy thiên tôn, Thông Thiên giáo chủ.
[28] Lê Sơn thánh mẫu: tương truyền là vợ của Tư Hiên (vị thần của dân du mục, có công giúp Hạ Võ trị thủy, được xem là thủy tổ nhà Tần), tài phép phi thường, được tín ngưỡng dân gian đề cao, có ảnh hưởng lớn trong Đạo giáo Trung Hoa.
[29] Khánh thân vương Dịch Khuông (1838-1917): dòng dõi Ái Tân Giác La, cháu nội Vĩnh Lân (A ca thứ 17 của Càn Long), bấy giờ là Nội các Tổng lý đại thần (tương đương Thủ tướng). Theo quy chế nhà Thanh, các vương gia khi thế tập sang đời con sẽ bị giáng một cấp, nhưng có 12 thân vương vẫn được giữ nguyên tước vị khi thế tập, gọi Thập nhị Thiết mạo tử vương, hưởng đặc quyền bất khả xâm phạm; Khánh thân vương là một trong 12 Thiết mạo tử vương đó.
[30] Lý Hồng Chương (1823-1901): trọng thần nhà Thanh, gồm nắm cả ngoại giao, nội chính, quân sự.
[31] Tới thời điểm đó, ước tính ở bốn tỉnh đã có gần 20 vạn giáo dân Thiên Chúa người Tàu bị Nghĩa Hòa đoàn tàn sát, giáo dân trong thành Bắc Kinh cũng bị giết gần 1 vạn, nên dân chúng kinh hoàng, phải chạy vào khu công sứ để được che chở.
[32] Tây An: tức Trường An, từng là kinh đô các triều đại Chu, Tần, Hán, Tùy, Đường; nay là thành phố Tây An, tỉnh Thiểm Tây.
Lê Vinh Huy
Nguồn: nghiencuulichsu