Thursday, December 18, 2025

THU VŨ DẠ MIÊN (秋雨夜眠) - BẠCH CƯ DỊ (白居易)


Thu vũ dạ miên

Lương lãnh tam thu dạ,
An nhàn nhất lão ông.
Ngoạ trì đăng diệt hậu,
Thuỳ mỹ vũ thanh trung.
Hôi túc ôn bình hoả,
Hương thiêm noãn bị lung.
Hiểu tình hàn vị khởi,
Sương diệp mãn giai hồng.


秋雨夜眠

涼冷三秋夜
安閑一老翁
臥遲燈滅後
垂美雨聲中
灰宿溫瓶火
香添暖被籠
曉晴寒未起
霜葉滿階紅


Ngủ trong đêm thu mưa
(Dịch thơ: Đào Văn Nghi)

Đêm thu trời mát mẻ,
Thư thái một mình ông.
Đèn tắt lên giường khểnh,
Trong mưa say giấc nồng.
Trong lò tro vẫn nóng,
Chăn cũi hương còn vương.
Sớm tạnh rét chưa đến,
Đầy thềm lá dẫm sương.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Bạch Cư Dị 白居易 (772-846) tự Lạc Thiên 樂天, hiệu Hương Sơn cư sĩ 香山居士 và Tuý ngâm tiên sinh 醉吟先生, người Hạ Khê (nay thuộc Thiểm Tây). Ông là thi nhân tiêu biểu nhất giai đoạn cuối đời Đường, là một trong những nhà thơ hàng đầu của lịch sử thi ca Trung Quốc. Người ta chỉ xếp ông sau Lý Bạch và Đỗ Phủ. Ông xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ, nhà nghèo nhưng rất thông minh, 9 tuổi đã hiểu âm vận, 15 bắt đầu làm thơ, thuở nhỏ nhà nghèo, ở thôn quê, đã am tường nỗi vất vả của người lao động.

Nguồn: Thi Viện



BA ĐỜI LIÊN TIẾP TÍCH PHÚC ĐỨC GIÚP SINH RA 28 VỊ VUA NHÀ HẬU LÊ

Trong lịch sử nhiều người nhờ được hưởng phúc đức của dòng họ tổ tiên mà lập ra được Triều đại mới như nhà Trần, chúa Trịnh và nhà Hậu Lê.


Trong đó nhà Hậu Lê kéo dài suốt hơn 360 năm, từ năm 1428 đến 1789 với 28 vị Vua. Dù bị nhà Mạc cướp ngôi nhưng sau đó lại trung hung, tất tổ tiên phải làm được việc đại thiện, tích nhiều phúc đức cho con cháu thì mới kéo dài như vậy.

Cụ tổ Lê Hối

Theo “Đại Việt sử ký toàn thư” ông tổ của nhà Lê là Lê Hối người thôn Như Áng, huyện Lương giang (tức là huyện Ngụy Nguyên ngày nay) phủ Thanh Hóa, được mô tả là người ngay thẳng lại chất phác thật thà, giữ được bản tính chân thật tiên thiên như kẻ khờ.

Sách Lam Sơn thực lục mô tả: Cụ là người “tính trời chất phác, ngay thẳng, giữ mình như kẻ ngu; thấy rõ việc từ lúc chưa xảy ra; biết sâu mà lo xa”.

Một hôm cụ đi dạo chơi đến dưới núi Lam Sơn, chợt thấy có đàn chim đông đúc đang bay lượn như thể núi Lam Sơn có một lực thu hút vô hình, có sức thu phục nhân tâm nhiều như chim về tổ, bèn nói: “đây hẳn là chỗ đất tốt” và quyết định dời nhà đến ở đấy.

Đến nơi mới, cụ dọn cỏ, gai góc, có được đất đai ruộng vườn. Nơi đây “đất lành chịm đậu” qua 3 năm cày cấy trồng trọt, năm nào cũng bội thu, có cả một sản nghiệp lớn.

Có được của cải giàu có, cụ nuôi dưỡng, giúp đỡ người nghèo, người cơ nhỡ nghe tiếng thì tìm đến đây làm tôi tớ khiến vùng ngày ngày càng đông hơn. Cụ Lê Hối lại cho mở thêm đất, dân đến nơi đây ngày càng đông đúc, cụ trở thành Quân trưởng cả vùng Lam Sơn.

Lê Đinh

Cụ Lê Hối có người con trai là Lê Đinh, nối nghiệp nhà, Cụ Lê Đinh là người hiền hòa, dùng nhân đức đối xử với kẻ dưới, tiếng lành đồn xa, người người đều đến làm thuê cuốc mướn, được chủ nhân đối xử tốt nên nhiều người đưa cả gia đình đến, nhiều đời đều làm gia nô, chẳng mấy chốc mà có hơn nghìn người.

Lê Đinh có người vợ là Nguyễn Thị Khoác là người phụ nữ hiền lành lại siêng năng, giúp chồng nhiều việc. Hai vợ chồng có 2 người con trai là Lê Tòng và Lê Khoáng.

Lê Khoáng

Con thứ Lê Khoáng là người hiền lành , hòa nhã và rất vui vẻ, thường hay làm nhiều việc thiện và rất thương người. Nhiều người khó khăn cơ nhỡ tìm đến đều được tận tình giúp đỡ cưu mang. Dần dần người đến nơi đây có hàng ngàn, đều nhờ có ông mà trở nên no ấm.

Dân chúng các hạt láng giềng có khó khăn đều tìm đến nhờ cậy. Lê Khoáng đều tận tình giúp đỡ, đem của cải và tiền bạc chu cấp cho, vì thế mà dân chúng các hạt xung quanh đều đội ơn.

Lê Khoáng có người vợ là Trịnh Thị Ngọc Thương, làm dâu hiếu thảo, giữ đạo làm vợ. Cả đời làm việc thiện, cưu mang và giúp đở rất nhiều người, nơi nơi đều ca tụng công đức, truyền cho nhau nhiều câu chuyện về bà. Ngọc Thương sinh được 3 người con trai là Lê Học, Lê Trừ và Lê Lợi.

Tượng đài Lê Lợi ở Lam Sơn. (Ảnh: Linhcandng, Wikipedia, CC BY-SA 3.0)

Khi Lê Lợi được sinh ra “thiên tư tuấn tú khác thường, thần sắc tinh anh kỳ vĩ, mắt sáng, miệng rộng, mũi cao, trên vai có nốt ruồi son, tiếng nói như chuông, dáng đi tựa rồng, bước tới như hổ, kẻ thức giả đều biết vua là bậc phi thường” (Đại Việt sử ký toàn thư)

Con trưởng là Lê Học nối nghiệp cha ông, nhưng chẳng ngay ngắn số, Lê Lợi thay anh giữ nghiệp gia đình, làm Quân trưởng cả vùng Lam Sơn, giúp nơi đây ngày càng cường thịnh.

“Hậu tầm long”

Lê Lợi được một nhân vật kỳ bí cho biết huyệt đất phát vương ở Chiêu Nghi, điều này được ghi chép lại trong cuốn “Lam Sơn thực lục” như sau:

Khi ấy nhà vua (tức Lê Lợi) sai người nhà cày ruộng ở xứ Phật Hoàng động Chiêu Nghi. Chợt thấy một nhà sư già, mặc áo trắng, từ thôn Đức Tề đi ra, thở dài mà rằng:

– Quý hoá thay phiến đất này! Không có ai đáng dặn!

Người nhà thấy thế, chạy về thưa rõ với nhà vua, nhà vua liền đuổi theo tìm hỏi chuyện đó. Có người báo rằng:

– Sư già đã đi xa rồi.

Nhà vua vội đi theo đến trại Quần Đội, huyện Cổ lôi, (tức huyện Lôi Dương ngày nay) thấy một cái thẻ tre, đề chữ rằng:

“Thiên đức thụ mệnh. Tuế trung tứ thập. Số chi dĩ định. Tích tai vị cập”.

Nghĩa là:

“Đức trời chịu mệnh. Tuổi giữa bốn mươi! Số kia đã định. Chưa tới … tiếc thay!”

Nhà vua thấy chữ đề mừng lắm, lại vội vàng đi theo. Khi ấy có rồng vàng che cho nhà vua! Bỗng nhà sư bảo nhà vua rằng:

– Tôi từ bên Lào xuống đây, họ Trịnh, tên là sư núi Đá trắng. Hôm thấy ông khí tượng khác thường tất có thể làm nên việc lớn!

Nhà vua quỳ xuống thưa rằng:

– Mạch đất ở miền đệ tử, tôi sang hèn ra thế nào xin thầy bảo rõ cho?

Nhà sư nói:

– Xứ Phật hoàng thuộc động Chiêu Nghi, có một khu đất chừng nửa sào, hình như quả quốc ấn. Phía tả có núi Thái Thất, núi Chí Linh (ở miền Lảo Mang); bên trong có đồi đất Bạn Tiên. Lấy Thiên Sơn làm án (ở xã An Khoái). Phía trước có nước Long Sơn, bên trong có nước Long Hồ là chỗ xoáy trôn ốc (ở thôn Như Ứng). Phía hữu nước vòng quanh tay Hổ. Bên ngoài núi xâu chuỗi hạt trai. Con trai sang không thể nói được nhưng con gái phiền có chuyện thất tiết. Tôi sợ con cháu ông về sau, có thế phân cư. Ngôi vua có lúc Trung Hưng. Mệnh trời có thể biết vậy. Nếu thầy giỏi biết láng lại, thì trung hưng được năm trăm năm.

Nhà sư nói rồi, nhà vua liền đem di cốt đức Hoàng khảo táng vào chỗ ấy. Tới giờ Dần, về đến thôn Hạ Dao Xá nhà sư bèn hóa bay lên trời! Nhân lập chỗ ấy làm điện Du Tiên. Còn động Chiêu Nghi thì làm am nhỏ (tức là nơi một Phật hoàng). Đó là gốc của sự phát tích vậy.


Sau này khi quân Minh đánh bại nhà Hồ, cai trị Giao Chỉ, gây tội ác chồng chất với dân chúng, rất nhiều cuộc khởi nghĩa nổ ra. Lê Lợi thừa hưởng gia nghiệp tổ tiên, làm Quân chủ cả vùng, gia nô người ăn kẻ ở có hàng ngàn, lại nhờ uy đức tổ tiên nhiều đời cứu giúp dân chúng, vì thế mà khi khởi nghĩa nhiều người quy tụ, khi gặp khó khăn như bị vây chặt ở núi Chí Linh, dân chúng dù đói khổ cũng sẵn lòng cung cấp lương thực.

Tượng đài Lê Lợi ở Thanh Hóa. (Ảnh qua wikipedia)

Sau 9 năm khởi nghĩa chống quân Minh, năm 1427 toàn bộ 10 vạn quân Minh phải ra hàng, cùng lập hội thề Đông Quan, toàn bộ quân Minh rút về nước.

Năm 1428 Lê Lợi lên ngôi Vua, lập ra nhà Lê. Khi đấy rất nhiều cuộc khởi nghĩa chống quân Minh, nhưng duy nhất chỉ có nghĩa quân Lam Sơn của Lê Lợi là đi đến thành công, đó là nhờ được thừa thừa hưởng đức của tổ tiên từ các cụ Lê Hối, Lê Đinh, Lê Khoáng; cùng các vị phu nhân là Nguyễn Thị Khoác, Trịnh Thị Ngọc Thương để lại.

Trần Hưng
Theo trithucvn

Wednesday, December 17, 2025

NHÀ SẢN XUẤT "QUÁI THÚ" CHO TỔNG THỐNG XIN PHÁ SẢN VÀ CUỘC ĐẠI PHẨU TRỊ GIÁ GẦN 50 TỶ USD CỨU BIỂU TƯỢNG CỦA NƯỚC MỸ

Nợ gấp đôi so với tổng tài sản cùng hàng loạt vấn đề khác đẩy General Motors (GM) vào tình cảnh nộp đơn xin bảo hộ phá sản vào sáng tháng 6/2009.


Tại tòa án Manhattan, New York hôm 1/6/2009, General Motors (GM) – hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới và là biểu tượng của sức mạnh công nghiệp Mỹ – chính thức nộp đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11 của Luật Phá sản Mỹ. GM sở hữu hàng loạt thương hiệu toàn cầu như Buick, Chevrolet, GMC, Opel, Vauxhall, Holden và đặc biệt là Cadillac - thương hiệu sản xuất những chiếc The Beast (Quái thú) dành riêng phục vụ nhu cầu đi lại của Tổng thống Mỹ. Những chiếc xe này còn được biết tới với biệt danh Cadillac One.

Với tổng tài sản 82,3 tỷ USD nhưng gánh khoản nợ lên tới gần 173 tỷ USD, vụ sụp đổ của GM được xem là cú sốc lớn nhất trong lịch sử ngành sản xuất công nghiệp Hoa Kỳ. Nó khép lại một thế kỷ huy hoàng của nền công nghiệp ô tô Mỹ, nơi GM từng là niềm tự hào quốc gia, và mở ra một giai đoạn can thiệp chưa từng có của chính phủ vào khu vực tư nhân.

Trong bối cảnh khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008, việc một tập đoàn hàng đầu như GM sụp đổ không chỉ là cú ngã của một doanh nghiệp, mà còn là lời cảnh tỉnh về sự mù quáng và tự mãn với mô hình phát triển lỗi thời. GM từng được ca ngợi là “cỗ máy công nghiệp hoàn hảo” – nhưng đến năm 2009, nó trở thành biểu tượng cho căn bệnh quan liêu, kém linh hoạt và bội chi phúc lợi mà nhiều tập đoàn Mỹ mắc phải.
Sự sụp đổ của GM không phải đến từ một biến cố tức thời, mà là kết quả của hàng thập kỷ tích tụ yếu kém trong mô hình vận hành. Sau Thế chiến II, GM là niềm tự hào của tầng lớp trung lưu Mỹ. Mức lương, phúc lợi và chế độ hưu trí hào phóng mà ban lãnh đạo áp dụng cho công nhân đã góp phần củng cố giấc mơ Mỹ, nhưng cũng đồng thời tạo ra gánh nặng khổng lồ trong dài hạn.


Trong khi đó, GM vẫn trung thành với các dòng xe cồng kềnh, tiêu hao nhiên liệu, phớt lờ xu hướng chuyển dịch tiêu dùng sang xe nhỏ, tiết kiệm xăng.

Từ thập niên 1980, những đối thủ Nhật Bản như Toyota và Honda bắt đầu làm thay đổi cục diện toàn cầu. Với triết lý “lean manufacturing” – sản xuất tinh gọn, hiệu quả – các hãng xe châu Á chiếm lĩnh thị trường Mỹ bằng sản phẩm bền, rẻ và tiết kiệm. GM, vốn là một “đế chế” cồng kềnh, phản ứng quá chậm.

Đến năm 2008, khi giá nhiên liệu tăng vọt và người tiêu dùng quay lưng với xe SUV, GM mới đóng cửa hàng loạt nhà máy – nhưng đó là hành động muộn màng. Cuộc Đại suy thoái 2008–2009 quét qua, doanh số ô tô ở Mỹ sụt xuống mức 10 triệu xe/năm, kéo GM xuống đáy thua lỗ. CEO Rick Wagoner, người gắn bó gần bốn thập kỷ, bị Tổng thống Barack Obama yêu cầu từ chức vì thất bại trong việc xoay chuyển tình thế.

Sự kiện GM phá sản cũng cho thấy giới hạn của niềm tin vào “bàn tay vô hình” của thị trường. Khi một doanh nghiệp có quy mô đủ lớn để kéo theo hàng triệu việc làm và hàng trăm nhà cung ứng, chính phủ không còn lựa chọn nào khác ngoài việc can thiệp.
Trước nguy cơ sụp đổ dây chuyền, chính quyền Tổng thống Obama quyết định giải cứu GM bằng gói hỗ trợ 49,5 tỷ USD – trong đó 30 tỷ USD được dùng cho kế hoạch tái cơ cấu.

Theo đó, “GM mới” ra đời với cơ cấu sở hữu đặc biệt: chính phủ Mỹ nắm 60% cổ phần, nghiệp đoàn công nhân ô tô (UAW) nắm 17,5%, chính phủ Canada 12%, còn các trái chủ chỉ còn 10%.

Ông Obama gọi đây là một sự “tham gia bất đắc dĩ”, nhấn mạnh rằng Washington không muốn điều hành doanh nghiệp, mà chỉ tạm thời giữ vai trò bảo hộ cho một ngành công nghiệp chiến lược.

Kế hoạch tái cơ cấu của GM được ví như một ca “đại phẫu” triệt để. Hàng loạt thương hiệu từng gắn liền với tên tuổi hãng như Pontiac, Hummer, Saturn hay Saab bị khai tử; hàng chục nhà máy và đại lý đóng cửa, hơn 20.000 công nhân mất việc.


GM thu hẹp quy mô, chỉ giữ lại bốn thương hiệu cốt lõi – Chevrolet, Cadillac, Buick và GMC – để tập trung nguồn lực cho các thị trường chủ lực. Bộ Tài chính Mỹ cam kết mọi quyền lợi bảo hành cho khách hàng vẫn được đảm bảo, kể cả với các dòng xe bị dừng sản xuất.

Điều bất ngờ là chỉ sau 40 ngày, GM chính thức thoát khỏi tình trạng phá sản. Một năm sau, hãng quay trở lại có lãi; và ba năm tiếp theo, GM lấy lại vị thế hãng ô tô lớn nhất thế giới.

Trong 15 quý liên tiếp, tập đoàn báo lãi hơn 20 tỷ USD, nhờ doanh số tăng mạnh ở Bắc Mỹ và Trung Quốc. Đằng sau sự hồi sinh này là một thế hệ lãnh đạo mới – tiêu biểu là Mary Barra, nữ CEO đầu tiên trong lịch sử ngành ô tô, cùng Chủ tịch Dan Ammann và Phó chủ tịch Mark Reuss – những người đặt lại nền móng cho một văn hóa doanh nghiệp dựa trên minh bạch, hiệu quả và đổi mới.

Đến cuối năm 2013, chính phủ Mỹ bán toàn bộ cổ phần, thu hồi được 39 tỷ USD trên tổng 49,5 tỷ USD đầu tư – chấp nhận khoản lỗ 10,5 tỷ USD. Dù bị mỉa mai với biệt danh “Government Motors”, quyết định cứu GM được giới kinh tế đánh giá là một trong những can thiệp tài khóa thành công nhất trong lịch sử hiện đại Mỹ. Nó không chỉ cứu một tập đoàn, mà còn cứu cả chuỗi cung ứng, hàng trăm nghìn việc làm và niềm tin vào nền sản xuất Mỹ.

Hơn mười lăm năm sau biến cố 2009, General Motors vẫn đứng vững như một biểu tượng của khả năng tự làm mới. Hãng đang tái định vị mình trong kỷ nguyên xe điện, đầu tư hàng chục tỷ USD vào công nghệ pin Ultium và chiến lược không phát thải. Cuộc khủng hoảng năm 2009, xét ở góc độ lịch sử, hóa ra lại là chất xúc tác buộc GM phải “cắt bỏ quá khứ” để bước vào tương lai.

Từ một biểu tượng sụp đổ, GM đã trở thành minh chứng cho năng lực phục hồi của nền kinh tế Mỹ – nơi thất bại không bị che giấu, mà được coi là bước ngoặt để tái cấu trúc. Trong thế giới kinh doanh, đó không chỉ là câu chuyện về một hãng xe, mà là minh họa sống động cho chân lý cũ kỹ mà vẫn đúng: “Đế chế nào cũng có thể gục ngã, nhưng chỉ những đế chế biết học từ cú ngã mới có thể đứng dậy mạnh mẽ hơn.”

Hồng Duy (Tổng hợp)
Theo: Nhịp sống Thị trường
Link tham khảo:




ÂM THẦM LẶNG LẼ CÚNG DƯỜNG

Chú ở trong một ngôi chùa vùng ven, làm công quả trong thời gian khá dài, liên tục.
 
Cần mẫn, siêng năng, lặng lẽ, trước chánh điện là sân cỏ cần nhiều công chăm sóc, vun tưới.


Chú phải nhỏ cỏ tạp trong ấy, và tưới đẫm mặt cỏ vào buổi chiều. Ngoài cổng chùa, một vuông đất đầy cỏ dại xâm xấp nước, cũng cần dọn dẹp thường xuyên. Chánh điện phải luôn sạch sẽ, lại hậu liêu, đông lang, tây lang, bao nhiêu đồ đạc cần ngăn nắp, trật tự.

Ngoài ra, sau chùa có một cái ao to, bờ ao trồng cây thuốc và rau, cũng cần tưới. Bao nhiêu là việc, cũng khó tin, vì chỉ có một mình chú làm công quả là chủ yếu, những vị xuất gia hay công quả khác có việc riêng, tỉ như kinh kệ, tổ chức các khóa tu học, các công việc phật sự khác.

Mình chú âm thầm lặng lẽ lao động trong khu đất nhà chùa chẳng khác mấy công việc của một bác nông dân, khác chăng là cần lao trong tiếng chuông chùa và khói hương cửa Phật.
Phòng nghỉ của chú đơn sơ, những cất nhiều Kinh sách. Chú đọc mỗi khi rảnh rỗi, nhất là vào ban đêm. Đọc đi đọc lại, nhuần nhuyễn, thấm thía….

Mỗi khi chùa có sự kiện phật sự như Vu Lan, Phật đản,...đông nghịt phật tử, người trong chùa được sắp xếp người nào việc nấy tinh tươm, duy chỉ có chú vẫn lặng lẽ việc của mình, như mọi ngày, chú không thuộc vào ban bệ nào cả! Có khi mọi người quên sự có mặt của chú chăng? Mỗi dịp như thế nhiều người được xướng danh, duy chỉ có chú vẫn lặng lẽ với công việc.

Trong đám cỏ cây chú chăm tưới có mấy gốc bồ đề, chú tự trồng ở mảnh đất sau nhà chùa. Trong nhiều năm, gần như ngày nào chú cũng ý tứ dành nước tưới những cây bồ đề ấy, cho dù phải gánh nước đi xa. Cây lớn chầm chậm, không ngừng, cho đến năm thứ mười thì mấy cụm tra bồ đề đã xum xuê một khoảnh đất, dáng dấp đẹp đẽ, thanh tịnh, ai cũng ưa nhìn mỗi khi có dịp ra ao chùa. Rồi người ta bứng hai bụi tra chuyển ra trước Chánh điện, trong khoảng đất trồng cỏ, trồng hai bên.


Ngày ấy là một sự kiện, đông đảo trai tráng chuyển, trồng hai bụi tra suốt cả ngày trời. Có người nhìn, ngắm, bình phẩm: hai bụi tra bồ đề này nếu là dân biết chơi, thấy thích, họ sẽ sẵn mua nhiều triệu đồng vì có gốc đẹp, dáng hay, cành lá ưng ý. Nghe như thế, chú vui trong dạ, không có tiền cúng dường, nhưng chú đã có công vun tưới trong mười năm, cúng Phật những cụm tra bồ đề to đẹp như thế, nhẹ lòng…

Trước chùa đã có hai cụm tra bồ đề to cao, xum xuê. Còn chú vẫn âm thầm lặng lẽ tiếp tục công việc của mình như bấy lâu, cúng dường Phật bằng tấm lòng đơn sơ chân thật song khó đong đếm hết bằng tiền. Có một con người như thế, trong một ngôi chùa vùng ven thật là câu chuyện đẹp, cảm động hình ảnh ngôi chùa Việt.

Đâu có cần gì xa lạ. Hoành tráng. Nổi tiếng và danh tiếng mới có sức hút tâm linh.

Nguyễn Thành Công
Theo: Phat giao Viet Nam

TẠP THI KỲ 1 (雜詩其一) - VƯƠNG DUY (王維)


Tạp thi kỳ 1

Quân tự cố hương lai,
Ưng tri cố hương sự.
Lai nhật ỷ song tiền,
Hàn mai trước hoa vị?


雜詩其一

君自故鄉來
應知故鄉事
來日綺窗前
寒梅著花未


Thơ tạp kỳ 1
(Dịch thơ: Hải Đà)

Anh từ quê cũ mới ra
Hỏi thăm anh biết chuyện nhà ra sao
Nhìn qua song cửa hôm nào
Hỏi anh có thấy mai đào nở hoa?


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng. Năm 19 tuổi, Vương Duy đến Trường An, được Kỳ vương Lý Phạm mến tài, đỗ đầu kỳ thi của phủ Kinh Triệu. Năm 21 tuổi, thi đậu tiến sĩ, được bổ làm Ðại nhạc thừa rồi bị giáng làm Tham quân ở Tế Châu. Sau nhân Trương Cửu Linh làm Trung thư lệnh, ông được mời về làm Hữu thập di, Giám sát ngự sử, rồi thăng làm Lại bộ lang trung. Trong thời gian này, thanh danh của ông và em là Vương Tấn vang dậy Trường An. Sau đó đến lượt Trương Cửu Linh lại bị biếm, Vương Duy đi sứ ngoài biên ải và ở Lương Châu một thời gian...

Nguồn: Thi Viện



6 MÓN HẢI SẢN TRỨ DANH ĐÁNG THÈM NHẤT

Những tặng vật từ biển luôn mang đến cho du khách nhiều món ngon bổ dưỡng với hương vị hấp dẫn khó chối từ. Khi đã đặt chân đến một nhà hàng hải sản, bạn nên thử qua những món được xem là mỹ ngư, vi cá, tổ yến. Những món ngon nhớ đời này không những cung cấp cho bạn một nguồn dinh dưỡng quý giá mà còn để lại ấn tượng sâu sắc về quy cách chế biến và nghệ thuật thưởng thức món ăn.


1. Cua Hoàng đế

Cua Hoàng đế khiến cả thế giới phải ngưỡng mộ về kích thước khổng lồ và hương vị rất đặc biệt của nó. Loại cua này thường sống ở những vùng biển băng giá, độ mặn rất cao. Phải trải qua một hành trình vô cùng gian nan vất vả mới đánh bắt được giống cua này. Người thủy thủ phải ra khơi vào những ngày bão biển, khi đó cua mới rời khỏi hang sâu trong lòng biển.


Cua Hoàng Đế sau khi được chế biến, cả thân mình cua nổi lên một màu đỏ tươi đẹp mắt với từng thớ thịt trắng như tuyết nổi bật. Với thành phần dinh dưỡng phong phú, thịt cua không chỉ có hàm lượng protein, canxi, phospho, sắt và các vitamin A, B1, B2, C… chiếm ở mức cao, mà còn chứa một lượng lớn calcium, magnesium và axit béo omega 3 rất tốt cho tim mạch. Khoa học chứng minh thịt cua có tác dụng thanh nhiệt, sinh huyết, giảm đau, bổ xương tủy và đặc biệt tốt cho những người làm việc trí não ở cường độ cao.


Ta có thể chế biến thành các món như cua Hoàng Đế hấp gừng hành, ôm phô mai bỏ lò, rang muối tiêu… Trong đó, ngon nhất là thưởng thức món hấp với hương vị thịt cua được giữ lại tươi mới, đậm đà nhất.

2. Tu hài


Có lẽ ít người biết đến một loại hải sản mang tên tu hài. Nó không quen thuộc và có nhiều như ngao, tôm, sò… nhưng nếu ai đã một lần thưởng thức, chắc hẳn sẽ không thể nào quên được hương vị rất đặc trưng của loại hải sản này. Với hình dáng giống như một chiếc vòi của con voi, tu hài có thân hình oval kéo dài từ cổ tới lớp vỏ cứng hai mảnh. Nó là loài nhuyễn thể sống lâu nhất, lớn nhất trong hang cát.


Hiện nay, đến các nhà hàng hải sản có thể thưởng thức cả tu hài Canada. Chúng có giá trị dinh dưỡng và hương vị đặc biệt. Những món ăn từ tu hài như nướng mỡ hành, hấp tỏi kim ngân và món gỏi sashimi tu hài.

3. Cá mặt quỷ


Cá mặt quỷ là một trong những món ăn đặc sản vì thịt có vị thơm ngon đặc biệt. Loại cá này có thân hình lớn, xù xì, với nhiều vây ở sống lưng. Chúng thường sống trong các hang đá, hốc đá hoặc khe đá tầng nước sâu dưới đáy biển với vẻ bề ngoài như hòn đá bám rêu. Sở hữu những thớ thịt săn chắc, trong, giòn, ngọt, cá mặt quỷ giàu chất dinh dưỡng, omaga 3 giúp tuần hoàn máu tốt, ngăn chặn sự hình thành huyết khối, giảm nguy cơ mắc bệnh tim, chống đột quỵ…

Việc chế biến loại cá này đòi hỏi khá nhiều công phu và người đầu bếp phải thật sự khéo léo. Trước hết để lọc bỏ lớp da sần sùi, người đầu bếp phải nhẹ nhàng lách mũi dao giữa da cá và thịt cá để giữ nguyên khối thịt cá bên trong.

Tuy cá mặt quỷ trông xấu xí nhưng khi nướng chín lại trông như con chim xoãi cánh trên nền trắng muốt của chiếc đĩa, ấn tượng vô cùng.

4. Cá tầm


Không phải ngẫu nhiên mà cá tầm được các thực khách sành ăn hải sản lựa chọn nhiều đến thế. Đến từ nước Nga xa xôi, cá mang trong mình một nguồn dinh dưỡng dồi dào cũng những đặc trưng riêng. Thịt cá rất thơm, dai dai nhưng ngọt, vị ngon ngây ngất, sụn cá giòn tan ngay đầu lưỡi tạo nên cảm giác vừa đậm đà, vừa thích thú khi thưởng thức.


Thịt cá tầm thơm ngon, chắc nịch và đặc biệt xương cá tầm 100% là sụn nên sẽ là một nguyên liệu hết sức hấp dẫn cho món lẩu. Ngoài được dùng để nấu lẩu, cá tầm nướng cũng mang hương vị đậm đà riêng, các món khác như súp cá tầm, cá tầm ăn gỏi, nem cá tầm, cá tầm xào hành nấm, cá tầm om cà chua…

5. Ba ba


Ba ba được xem là đặc sản với nhiều món ăn được nhiều người biết đến. Ba ba thường sống ở dưới đáy sông, suối, đầm, hồ… Chuyên ăn động vật và đẻ trứng vào đất cát ở mé nước. Vào cuối mùa xuân sang đầu mùa thu là lúc ba ba mập đầy vì ôm trứng. Trứng ba ba hơi deo dẻo, béo bùi như trứng gà non, xóc với gừng thì ăn hoài không ngán bởi vị nồng nồng, cay cay.

Ba ba xóc gừng là món có cách chế biến khác với những cách nấu ba ba từ trước đến nay. Món tạo sự khoái khẩu mới mẻ, cùng những miếng thịt ba ba mà lớp da cũng giòn mặt ngoài, bên trong thịt vẫn mềm, ngọt. Ngoài ra còn có ba ba hầm nhân sâm kỷ tử, ba ba luộc nước dừa rang muối, lẩu chua ba ba, ba ba nấu chuối, ba ba xào lăn, ba ba nướng, tiềm thuốc bắc…

6. Tôm hùm


Tôm hùm được xem là “vua” của các loài hải sản bởi thịt chắc ngọt, vào mùa đông, tôm hùm còn nặng những tảng gạch son. Gạch đóng thành một dọc vàng ươm ở sống lưng con tôm, gạch là một mảng lớn đóng ở nơi đầu tôm, béo ngùi béo ngậy. Ở vùng biển nước ta, vào những ngày tháng 12 giá lạnh, tôm hùm vào đúng mùa nên thịt chắc và ngọt hơn bao giờ hết.


Món đơn giản nhất khi làm tôm hùm là nướng, dùng với muối tiêu chanh. Ngoài ra còn kể đến tôm hùm nướng phô mai, xốt bơ, xốt sò điệp hay tôm hùm nướng sả để món ăn thơm ngan ngán mùi làng quê dân dã. Dù chế biến cách nào, chắc chắn bạn sẽ không còn thiết bất cứ loại hải sản nào khác một khi đã thưởng thức qua tôm hùm mùa đông, nhất là khi may mắn sở hữu một chú tôm đầy gạch.

Theo: Văn hóa nghệ thuật



MERRY XMAS & HAPPY NEW YEAR

CHÚC CÁC BẠN MÙA GIÁNG SINH VUI VẺ VÀ MỘT NĂM MỚI HẠNH PHÚC, AN KHANG, THỊNH VƯỢNG.


(LKH)

PAN AM: BIỂU TƯỢNG MỘT THỜI CỦA NƯỚC MỸ SỤP ĐỖ KHIẾN CẢ THẾ GIỚI BÀNG HOÀNG

Pan Am là hãng hàng không "nổi đình nổi đám" vào nửa đầu thế kỷ XX, thể hiện cho ước mơ, sự tự do. Tuy nhiên, không lâu sau, thương hiệu này đã bị cuốn vào vòng xoáy bi kịch.

Có một thời, Pan American World Airways, hay đơn giản là Pan Am, không chỉ là một hãng hàng không, mà còn là biểu tượng của sức mạnh nước Mỹ, của tinh thần tiên phong, của sự xa hoa và của những chuyến bay vượt đại dương mà cả thế giới phải ngước nhìn.

Trong suốt nửa đầu thế kỷ XX, cái tên Pan Am gắn liền với hình ảnh chiếc máy bay trắng xanh mang biểu tượng địa cầu, mang theo ước mơ chinh phục bầu trời của con người. Nhiều người Mỹ lớn tuổi vẫn nhớ như in khoảnh khắc đứng bên cửa kính sân bay, ngước nhìn những chiếc Boeing 707 hay 747 của Pan Am khởi động động cơ, rồi chậm rãi lăn bánh ra đường băng với vẻ sang trọng và quyền lực đến nao lòng.

Pan Am ra đời năm 1927 trong bối cảnh ngành hàng không dân dụng còn là một lĩnh vực mới mẻ, mạo hiểm và không dành cho số đông. Nhưng chỉ trong vài thập kỷ, hãng đã vươn lên vị thế gần như không đối thủ, trở thành hãng hàng không đầu tiên thực hiện nhiều chuyến bay quốc tế quan trọng nhất thế giới.

Từ những năm 1930, Pan Am đã khai thác tuyến bay xuyên Thái Bình Dương nối Mỹ với châu Á, sử dụng những chiếc thủy phi cơ lớn và sang trọng mà báo chí khi đó gọi bằng cái tên đầy hoa mỹ “những con tàu bay của thời đại mới”. Khi thế giới bước vào kỷ nguyên máy bay phản lực, Pan Am là hãng đầu tiên đưa Boeing 707 vào hoạt động thương mại, mở ra cuộc cách mạng về tốc độ và sự tiện nghi trong di chuyển.


Những năm 1960 và 1970 là đỉnh cao của đế chế Pan Am. Người ta thường nói rằng, nếu muốn biết nước Mỹ vĩ đại đến mức nào trong nửa sau thế kỷ XX, hãy nhìn vào những chiếc máy bay của Pan Am. Đó là thời điểm mà hành khách cảm nhận rõ rệt sự xa hoa đặc trưng của “thời đại vàng hàng không” với chiếc ghế rộng rãi, dịch vụ tinh tế, nụ cười lịch thiệp của tiếp viên trong bộ đồng phục xanh lam, ly champagne trước bữa ăn và cảm giác được chăm sóc như một thượng khách.

Pan Am là “bầu trời của thế giới tự do”, là biểu tượng văn hóa đại chúng xuất hiện trong điện ảnh, trong âm nhạc, trong những album ảnh của du khách khắp năm châu. Với nhiều người Mỹ, Pan Am không đơn thuần là phương tiện đi lại, nó là niềm kiêu hãnh quốc gia.

Thế nhưng, ngay trong những năm tháng rực rỡ nhất, Pan Am đã vô tình đặt nền móng cho chuỗi bi kịch sau này. Việc đầu tư mạnh vào mạng lưới quốc tế, đội bay phản lực quy mô lớn và những dự án đầy tham vọng khiến hãng phình to quá nhanh, thiếu ổn định và dễ tổn thương trước những cú sốc kinh tế. Ở thời điểm đó, ít ai có thể tưởng tượng rằng biểu tượng hàng không hùng mạnh bậc nhất thế giới sẽ sụp đổ chỉ trong vòng vài năm.
Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973 là cơn rung chấn đầu tiên giáng mạnh vào Pan Am. Giá nhiên liệu tăng phi mã khiến chi phí vận hành đội bay khổng lồ trở thành gánh nặng không cách nào xoay sở. Pan Am, vốn phụ thuộc chủ yếu vào các tuyến quốc tế đường dài, nơi mức tiêu hao nhiên liệu lớn hơn, bắt đầu thua lỗ.

Nhưng cú đánh chí mạng chưa dừng lại ở đó. Năm 1978, Mỹ ban hành Đạo luật Tự do hóa hàng không (Airline Deregulation Act), tháo bỏ cơ chế bảo hộ và mở cửa cạnh tranh giữa các hãng trong nước. Đây là bước ngoặt lịch sử của ngành hàng không Mỹ, nhưng lại là cú đấm trực diện vào Pan Am.

Trong nhiều thập kỷ, Pan Am thống trị các tuyến quốc tế nhưng lại không có thị trường nội địa mạnh để tạo nguồn doanh thu ổn định. Khi cạnh tranh được mở cửa, các hãng hàng không nội địa mới nổi như American Airlines, Delta hay United nhanh chóng chiếm lĩnh thị trường, tạo thế phòng thủ vững chắc khiến Pan Am bị cô lập trong chính sân chơi của mình.

Pan Am cố gắng xoay chuyển tình thế bằng việc mua lại hãng National Airlines với giá 437 triệu USD. Thương vụ này nhằm giúp Pan Am có được mạng lưới nội địa và cạnh tranh sòng phẳng hơn. Nhưng thay vì giúp tái cấu trúc công ty, thương vụ trở thành gánh nặng tài chính khiến Pan Am kiệt quệ. Những khoản nợ nối tiếp nhau, đội bay cũ kỹ cần nâng cấp, chi phí nhiên liệu leo thang và áp lực cạnh tranh dồn dập làm Pan Am rơi vào vòng xoáy khó thoát.


Bi kịch còn kéo dài bởi những sự kiện đau thương không ai muốn nhắc lại. Năm 1988, chuyến bay Pan Am 103 phát nổ trên bầu trời Lockerbie, Scotland, do một quả bom khủng bố. Vụ việc khiến 270 người thiệt mạng và trở thành một trong những thảm kịch hàng không nghiêm trọng nhất thế giới. Hình ảnh Pan Am vốn đã yếu thế lại bị tổn thương đến mức gần như không thể hồi phục. Số lượng đặt vé tụt dốc nhanh chóng, niềm tin của hành khách giảm sút và hãng phải bồi thường hàng trăm triệu USD.

Đến đầu thập niên 1990, Pan Am rơi vào trạng thái kiệt quệ cả về tài chính, uy tín lẫn tinh thần. Những nỗ lực tái cấu trúc liên tiếp thất bại. Những tài sản tốt nhất bị bán tháo, mạng lưới quốc tế bị thu hẹp. Năm 1991, Pan Am chính thức nộp đơn phá sản và ngừng hoạt động.

Nhiều cựu nhân viên Pan Am nói rằng ngày hãng đóng cửa, họ cảm thấy như mất đi một gia đình. Sự sụp đổ của Pan Am không chỉ là câu chuyện của một doanh nghiệp, mà là mất mát của cả một thời đại.
Sự sụp đổ của Pan Am chứa đựng nhiều bài học giá trị cho các doanh nghiệp trong thời hiện đại, nhất là những thương hiệu đang đứng ở vị trí dẫn đầu và tin rằng uy tín của quá khứ sẽ luôn đủ để bảo vệ tương lai.

Pan Am cho thấy rằng một thương hiệu dù mạnh đến đâu cũng không thể sống sót nếu không thích ứng kịp thời với những biến động của thị trường.

Pan Am đã từng là biểu tượng của bầu trời, nhưng khi mất đi niềm tin của công chúng, mọi hào quang đều trở nên vô nghĩa. Và đó chính là bài học lớn nhất từ một trong những cuộc sụp đổ thương hiệu đau đớn nhất thế kỷ XX.

Vu Lam
Theo: Nhịp sống thị trường
Link tham khảo:




Tuesday, December 16, 2025

QUY VIÊN ĐIỀN CƯ KỲ 1 (歸園田居其一) - ĐÀO TIỀM (陶潛)


Quy viên điền cư kỳ 1

Thiếu vô thích tục vận,
Tính bản ái khâu sơn.
Ngộ lạc trần võng trung,
Nhất khứ tam thập niên.
Ky điểu luyến cựu lâm,
Trì ngư tư cố uyên.
Khai hoang nam dã tế,
Thủ chuyết quy viên điền.
Phương trạch thập dư mẫu,
Thảo ốc bát cửu gian.
Du liễu âm hậu diêm,
Đào lý la đường tiền.
Ái ái viễn nhân thôn,
Y y khư lý yên.
Cẩu phệ thâm hạng trung,
Kê minh tang thụ điên.
Hộ đình vô trần tạp,
Hư thất hữu dư nhàn.
Cửu tại phiền lung lý,
Phục đắc phản tự nhiên.


歸園田居其一

少無適俗韻
性本愛丘山
誤落塵網中
一去三十年
羈鳥戀舊林
池魚思故淵
開荒南野際
守拙歸園田
方宅十余畝
草屋八九間
榆柳蔭後檐
桃李羅堂前
曖曖遠人村
依依墟裡煙
狗吠深巷中
雞鳴桑樹巔
戶庭無塵雜
虛室有余閑
久在樊籠裡
復得返自然


Về quê ở kỳ 1
(Dịch thơ: Hoàng Tạo)

Trẻ không hùa thói tục
Tính thích núi non chơi
Lưới bụi khi trót vướng
Chốc ba chục năm trời
Chim lồng nhớ rừng cũ
Cá vũng tiếc đầm khơi
Đồng nam về vỡ rậm
Yên phận ruộng vườn vui
Mười mẫu đất vừa vặn
Tám chín gian sơ sài
Hiên sau du liễu rợp
Thềm trước lý, đào tươi
Xóm cũ tuôn khói bếp
Làng xa thoáng bóng người
Ngõ sâu chó sủa vọng
Ngon dâu gà gáy dài
Sân ngoài không mảy bụi
Nhà rỗng thừa thảnh thơi
Cũi lồng bó buộc mãi
Lại được thoả thuê đời


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.

Nguồn: Thi Viện



CÂU HỎI HÓC BÚA NHẤT CỦA SOCRATES: "NGƯỜI RẤT SẠCH SẼ VÀ NGƯỜI RẤT DƠ DÁY, AI SẼ TẮM TRƯỚC?"

Socrates, triết gia Hy Lạp, được mệnh danh là bậc thầy về lý luận, truy vấn. Ông có một phương pháp biện luận rất hay là đưa ra một loạt câu hỏi, từ đó rút ra chân lý. Những câu hỏi của Socrates thoạt nghe có vẻ rất đơn giản, ví dụ như: “Một người rất sạch sẽ, một người thì rất dơ dáy. Tôi mời hai người họ đi tắm, thử hỏi ai sẽ đi tắm trước?“.


Ngụy biện là gì?

Đang lúc lên lớp triết học, các học sinh thỉnh giáo nhà hiền triết Socrates: “Thưa thầy, thầy có thể lấy ví dụ thực tế để nói rõ một chút rốt cuộc cái gì gọi là ngụy biện được không ạ?”.

Socrates suy nghĩ một lúc, sau đó nói: “Giả sử có hai người đến nhà thầy làm khách, một người rất sạch sẽ tươm tất, còn người kia thì rất bẩn thỉu xuề xòa. Thầy mời hai người này đi tắm, các em thử nghĩ xem, hai người họ ai sẽ đi tắm trước?”.

“Điều này còn phải hỏi, tất nhiên là người bẩn thỉu kia rồi“. Một em học sinh lớn tiếng nói.

“Sai rồi, là người sạch sẽ kia”. Socrate phản bác nói, “Bởi vì người sạch sẽ kia đã dưỡng thành thói quen thích tắm gội, còn người bẩn thỉu lại cho rằng không cần phải đi tắm gì cả. Hãy nghĩ thử đi, rốt cuộc ai sẽ đi tắm trước đây?“.

“Là người sạch sẽ kia“. Hai em học sinh nói tiếp.

“Không đúng, là người bẩn thỉu. Bởi vì người bẩn thỉu càng cần phải tắm gội hơn người sạch sẽ kia“. Socrates lại phản bác nói.

Sau đó, Socates lại hỏi thêm lần nữa: “Như vậy xem ra, trong hai người khách rốt cuộc ai sẽ đi tắm trước đây?“.

“Là người bẩn thỉu!“. Ba em học sinh lớn tiếng lặp lại câu trả lời lần thứ nhất.

“Lại sai nữa rồi. Đương nhiên là cả hai người đều sẽ đi tắm“. Socrates nói, “Bởi người sạch sẽ có thói quen tắm gội, còn người bẩn thỉu kia thì cần phải đi tắm. Thế nào, rốt cuộc ai sẽ là người đi tắm trước đây?“.

“Thế thì xem ra hai người đều sẽ đi tắm“. Bốn em học sinh lưỡng lự trả lời.

“Không đúng, cả hai đều sẽ không tắm“. Socrates giải thích nói, “Bởi vì người bẩn thỉu không có thói quen tắm gội, còn người sạch sẽ kia thì vốn không cần phải tắm“.

“Lời thầy nói đều có đạo lý cả, nhưng chúng em rốt cuộc nên phải hiểu thế nào đây?“. Các học sinh bất mãn nói, “Mỗi lần thầy nói đều không như nhau, nhưng lại đều luôn đúng cả!“.

Socrates nói: “Chính là như vậy. Các em xem, ở bề ngoài, ở hình thức dường như là vận dụng thủ đoạn suy luận chính xác nhưng trên thực tế lại là trái với quy luật khách quan, đưa ra kết luận nghe thì thấy giống thật nhưng lại là sai, đấy chính là ngụy biện! Thủ đoạn ngụy biện thường thấy là có thay đổi luận đề, ngụy tạo căn cứ, luận chứng vòng vo, cưỡng từ đoạt lý, cắt câu lấy nghĩa…“.


Sai lầm khách quan trong ngụy biện

Các học sinh lại thỉnh giáo Socrates: “Thưa thầy, ngụy biện chính là cố ý làm luận chứng cho lý lẽ sai trái nào đó, sai lầm khách quan tinh vi trong đó thật không dễ phát hiện. Thầy có thể dùng ví dụ để làm rõ một chút làm sao mới có thể nhìn thấy được sai lầm khách quan trong ngụy biện đó đây?”.

Socrates suy nghĩ một hồi, đưa ra một ví dụ kiểm tra trí khôn như sau:

“Có hai người công nhân cùng nhau chui vào sửa chữa ống khói đã nhiều năm chưa từng lau chùi. Khi họ chui từ ống khói ra, một người thì rất sạch sẽ, còn người kia thì muội than nhem nhuốc khắp người”. Thế thầy hỏi các em: “Ai sẽ đi tắm trước đây?“.

Một em học sinh nói: “Đương nhiên là người công nhân bị lấm bẩn khắp người sẽ đi tắm trước“.

Socrates nói: “Thật như vậy ư? Mong các em hãy chú ý, người công nhân sạch sẽ thấy người kia lấm bẩn khắp người hết cả, anh ta chắc chắn sẽ cho rằng từ trong ống khói chui ra thật sự rất là bẩn; còn người kia nhìn sang thì thấy đối phương rất sạch sẽ, lúc đó anh ta khẳng định sẽ không nghĩ như vậy nữa, mà cho rằng bản thân nhất định cũng rất sạch sẽ. Bây giờ thầy hỏi các em, ai sẽ là người đi tắm trước?“.

Hai em học sinh rất phấn khích tranh nhau trả lời: “Ồ! Em biết rồi! Khi người công nhân sạch sẽ trông thấy người công nhân kia toàn thân nhem nhuốc lấm bẩn, tất nhiên sẽ cho rằng bản thân mình cũng bẩn y như vậy. Còn người công nhân nhem nhuốc bởi thấy đối phương sạch sẽ, nên sẽ tưởng rằng mình cũng sạch sẽ như vậy! Vậy nên nhất định là người công nhân sạch sẽ đó sẽ chạy đi tắm gội trước rồi“.

Socrates nhìn nhìn những em học sinh khác, dường như tất cả họ đều đồng ý với câu trả lời này.

Chỉ thấy Socrates chậm rãi nói: “Câu trả lời này cũng không đúng. Hai người cùng chui từ trong ống khói đó ra, làm sao có thể có chuyện người này thì sạch sẽ, còn người kia thì nhem nhuốc bẩn thỉu được? Đây chính gọi là trái với quy luật khách quan, cũng chính là sai lầm khách quan trong ngụy biện“.

Các em học sinh lại thỉnh giáo Socrates: “Thưa thầy, vậy ta nên nhìn nhận tác dụng trong ngụy biện thế nào đây?“.

Socrates trả lời: “Kẻ giỏi nói không bằng người biết phân tích lắng nghe. Ngụy biện nhìn ngoài thì hiệu nghiệm thật, nhưng không cao. Xảo trá chi bằng hãy sống chân thành, muôn nghìn diệu kế chẳng bằng sống đúng đạo làm người”.

Yêu Ly / Theo: ĐKN

Monday, December 15, 2025

RỪNG TRE - NƠI GẮN VỚI PHÁT MINH VĨ ĐẠI CỦA EDISON

Ít ai ngờ mối liên hệ đặc biệt giữa Edison và thành phố Yawata, Kyoto lại chính là những cây tre trên đỉnh núi Otokoyama.


Rừng tre ở đền Iwashimizu Hachiman – nơi gắn với phát minh vĩ đại của Edison

Bóng đèn dây đốt, phát minh hoàn hảo của Thomas Edison, giúp những căn nhà trên khắp thế giới được chiếu sáng. Ông nhận được sự tôn kính từ khắp nơi, nhưng đặc biệt phải kể đến người dân Nhật Bản. Theo tờ Plain Dealer, người Nhật Bản chiếm tỷ lệ lớn nhất trong lượng khách đến thăm ngôi nhà thời thơ ấu của Edison ở Milan, Ohio (Mỹ).

Sợi dây liên kết giữa Edison và Nhật Bản khá khác thường. Nhà khoa học này thực sự có mối quan hệ đặc biệt sâu sắc với cư dân thành phố Yawata, tỉnh Kyoto khi nơi này dựng một tượng đài Edison ở đền Iwashimizu Hachiman trên đỉnh núi Otokoyama. Yawata cũng được xem là thành phố chị em với Milan, nơi Edison sinh ra. Từ đầu những năm 1980, rất nhiều món quà hữu nghị được hai bên trao tặng nhau.

Đền Iwashimizu Hachimangu. Ảnh: Patrick Vierthaler/Flickr.

Năm 1878, Edison bắt đầu nghiên cứu và thí nghiệm bóng đèn sợi đốt. Nguyên lý hoạt động của đèn là dùng điện để đốt một dải chất liệu mỏng, hay còn gọi là dây tóc, nóng đến mức đủ phát sáng. Nhiều nhà phát minh đã cố gắng hoàn thiện đèn dây đốt song chúng có tuổi thọ cực kỳ ngắn. Những chất liệu khác quá đắt tiền để áp dụng trên quy mô thương mại. Lúc này, tìm ra chất liệu tốt cho bóng đèn dây tóc là thách thức lớn mà chính Edison vượt qua được.

Edison đi tìm chất liệu có điện trở lớn và nhiệt độ nóng chảy cao để kéo dài tuổi thọ của dây tóc. Sau khi thử nghiệm hàng nghìn chất liệu từ platinum đến tóc, Edison phát hiện sợi làm từ carbon chứa những điều kiện mình cần. Ông quyết định thử chế một dây tóc từ sợi bông carbon hoá, và bóng đèn đã phát sáng trong 14 giờ, lập kỷ lục thời bấy giờ. Edison nhanh chóng xin cấp bằng sáng chế, trong đó mô tả sợi carbon có thể làm từ nhiều chất liệu khác nhau như sợi bông, sợi lanh, que gỗ, giấy… cuộn theo nhiều cách khác nhau.

Edison kiên trì thử nghiệm với các chất liệu hữu cơ carbon hóa trong phòng thí nghiệm của mình. Ông liên hệ với các nhà sinh học và nhờ họ gửi những loại sợi thực vật khác nhau từ miền nhiệt đới. Ông còn cử công nhân đi khắp thế giới tìm chất liệu hoàn hảo. Edison ước tính mình đã thực hiện thí nghiệm với hơn 6.000 loại rau củ.

William H.Moore, một công nhân của Edison, đã gửi cho ông một mẫu vật lấy từ rừng tre gần đền Iwashimizu Hachiman ở Kyoto vào năm 1880. Loài tre này có nguồn gốc từ Trung Quốc và Nhật Bản, thân rỗng được dùng làm sáo, chế tác những tác phẩm nghệ thuật hay thủ công. Edison từng thấy cần câu tre trong chuyến đi chơi ở Wyoming (Mỹ) hai năm trước đó. Nhà khoa học phát hiện ra rằng sợi từ tre sau khi carbon hóa là chất liệu tuyệt vời nhất để chế tạo dây tóc bóng đèn.

Khu rừng tre gần đền thờ Iwashimizu Hachimangu ở Kyoto. Tre từ khu vực này đã được sử dụng để làm dây tóc cho những bóng đèn đầu tiên. Ảnh: mTaira.

Để tạo ra những sợi tơ này, thân tre được chẻ thành những sợi siêu mảnh và uốn cong như kẹp tóc hoặc hình vòng. Chúng được phủ thêm một lớp bột carbon và nung trong lò nhiệt độ cao nhiều giờ và để nguội. Quá trình này, các sợi tre sẽ chuyển từ cấu trúc cellulose sang cấu trúc carbon tinh khiết, sẵn sàng để gắn vào bóng đèn thủy tinh.

Do độ dài của sợi dây tóc hạn chế, bóng đèn không sáng hơn nến quá nhiều nhưng chúng có thể cháy lâu hơn bất kể sợi dây tóc từ chất liệu nào khác vào thời đó. Một số bóng đèn của Edison thử nghiệm có thể cháy tới hơn 1.200 giờ. Đèn dây tóc carbon phổ biến cho đến khi hai nhà khoa học người Hungari, Alexander Friedrich Just và Franjo Hanaman, nghiên cứu thành công sợi dây tóc từ vonfram vào năm 1904. Năm 1911, công ty General Electric của Edison chuyển sang dùng vonfram.

Dưới chân núi Otokoyama còn có một khu mua sắm nhỏ tên là Phố Edison với một bức tượng đồng khắc hoạ chân dung nhà khoa học Mỹ. Ảnh: Douglas Sprott/Flickr.

Edison qua đời năm 1931. Ba năm sau, đài tưởng niệm Thomas Alva Edison được xây dựng trong khuôn viên đền Iwashimizu Hachimangu. Năm 1964, Madeleine Edison Sloane, con gái của Edison, có dịp đến thăm nơi này. Cô vô cùng xúc động khi thấy đài tưởng niệm cha và khẳng định chưa có một đài tưởng niệm nào vĩ đại như vậy trên đất Mỹ.

Hằng năm, vào dịp kỷ niệm ngày sinh và ngày mất của Edison (11/2/1847-18/10/1931), lễ hội ánh sáng diễn ra ở đền Iwashimizu Hachimangu. Những chiếc đèn lồng tre truyền thống sẽ thắp sáng tượng đài và bản quốc ca Mỹ được phát lên.

Vân Phạm / Theo: Vnexpress
Link tham khảo:




HANUKKAH LÀ GÌ? NHỮNG SỰ THẬT ÍT BIẾT VỀ LỄ HỘI THẮP NẾN CỦA NGƯỜI DO THÁI

Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng tìm hiểu về Lễ Hội Thắp Nến Hanukka độc đáo này nhé.


Lễ hội Hanukka là gì?

Hanukka là một lễ hội truyền thống kéo dài trong 8 ngày của dân tộc Do Thái. Lễ hội Hanukka bắt đầu vào ngày thứ 25 của tháng Kislev (tháng thứ ba của năm dân sự và tháng thứ chín của năm giáo hội theo lịch Do Thái). Bởi vậy ngày này không cố định, có thể là bất cứ ngày nào ở khoảng giữa tháng 11 đến cuối tháng 12 hàng năm.

Lễ hội Hanukkah 2020 sẽ bắt đầu vào thứ năm, ngày 10 tháng 12 và kết thúc vào tối thứ sáu, ngày 18 tháng 12.

Lễ hội Hanukkah của người Do Thái. (Ảnh: Internet)

Lễ hội Hanukka có đặc điểm là mỗi gia đình Do Thái sẽ thắp sáng những ngọn nến của một cây nến có chín nhánh, được gọi là menorah (hay hanukkiah). Một nhánh thường được đặt trên hoặc dưới những nhánh khác và ngọn nến của nó được dùng để thắp sáng tám ngọn nến còn lại. Ngọn nến chính giữa độc đáo này được gọi là shamash (tiếng Do Thái : שַׁמָּשׁ có nghĩa là “người phục vụ”). Mỗi đêm, thêm một ngọn nến được thắp sáng bởi shamash cho đến khi tất cả tám ngọn nến được thắp sáng cùng nhau trong đêm cuối cùng của lễ hội.

Các gia đình Do Thái sẽ thắp cây nến 9 nhánh trong 8 ngày lễ hội Hanukkah. (Ảnh: Internet)

Nguồn gốc và ý nghĩa của từ Hanukka

Hanukka viết theo chữ Do Thái là חֲנוּכָּה, phát âm là [χanuˈka] bằng tiếng Do Thái hiện đại. Còn tiếng Anh sẽ phát âm từ Hanukka là [hɑːnəkə] (ha-nờ-kờ).

  • Chữ Hanukka trong tiếng Do Thái có nghĩa là “dâng tặng/cống hiến”. Có nhiều giả thuyết tôn giáo được đưa ra để giải thích cho từ này:Hanukka có thể được chia nhỏ thành חנו כ”ה, có nghĩa là “[họ] nghỉ ngơi [vào] ngày 25”, ám chỉ sự kiện người Do Thái ngừng chiến đấu vào ngày 25 của tháng Kislev, cũng chính là ngày bắt đầu lễ hội Hanukka.

  • חנוכה (Hanukkah) cũng là từ viết tắt trong tiếng Do Thái của ח נ רות ו הלכה כ בית ה לל – “Tám ngọn nến, và halakha giống như Ngôi nhà của Hillel”. Đây là ám chỉ đến sự bất đồng giữa hai trường phái tư tưởng giáo sĩ – Nhà Hillel và Nhà Shammai đối với thứ tự thích hợp để thắp sáng ngọn lửa Hanukkah. Shammai cho rằng nên thắp 8 ngọn nến vào đêm đầu tiên, bảy ngọn nến vào đêm thứ hai, và cứ tiếp tục như vậy xuống một ngọn vào đêm cuối cùng (bởi vì phép màu là lớn nhất vào ngày đầu tiên). Hillel lại cho rằng bắt đầu với một ngọn nến và thắp thêm một ngọn mỗi đêm, lên đến 8 ngọn vào đêm thứ 8 (bởi vì phép màu cứ lớn dần lên mỗi ngày). Và người Do Thái áp dụng quan điểm của Hillel với việc thắp từng ngọn nến từ 1 đến 8 trong 8 đêm liền.

Người Do Thái kỷ niệm ngày lễ Hanukkah theo cách của Hillel. (Ảnh: Internet)

Lịch sử hình thành Lễ hội thắp nến Hanukka

Ngày lễ Hanukka được tạo ra nhằm đánh dấu ngày người dân Do Thái giành lại Jerusalem và Ngôi đền thiêng thứ 2 từ tay vương quốc Seleukos vào năm 168 trước CN.

Các sự kiện truyền cảm hứng cho ngày lễ Hanukkah diễn ra trong một giai đoạn đặc biệt hỗn loạn của lịch sử Do Thái. Khoảng năm 200 trước Công nguyên, Antiochus IV Epiphanes đã bác bỏ các luật lệ và tôn giáo của người Do Thái, bắt buộc người Do Thái phải thờ các vị thần Hy Lạp. Vào năm 168 trước Công nguyên, binh lính của Antiochus IV đã tấn công Jerusalem, tàn sát hàng nghìn người và xúc phạm Đền thờ thứ hai linh thiêng bằng cách dựng một bàn thờ thần Zeus và hiến tế lợn trong các bức tường thiêng của đền thờ.

Lễ hội Hanukkah bắt nguồn từ trước Công Nguyên. (Ảnh: Internet)

Hành động áp bức này đã vấp phải sự phản đối và nổi dậy của người Do Thái, do linh mục Do Thái Mattathias và năm người con trai của ông lãnh đạo. Khi Matthathias qua đời vào năm 166 TCN, con trai của ông là Judah, được gọi là Judah Maccabee đã lên nắm quyền lãnh đạo. Và trong vòng 2 năm, người Do Thái đã thành công đánh đuổi người Syria khỏi Jerusalem. Judah kêu gọi các môn đồ của mình dọn dẹp Đền thờ thứ hai, xây dựng lại bàn thờ và thắp sáng menorah của nó — chiếc chân đèn bằng vàng có bảy nhánh tượng trưng cho tri thức và sự sáng tạo và được đốt cháy hàng đêm.

Và một truyền thuyết được lưu giữ đến ngày nay đã kể về “phép màu” của Hanukka. Khi Judah Maccabee và các môn đồ xây dựng lại Ngôi đền thứ 2, họ không có đủ dầu oliu để thắp sáng cây đèn vàng trong 1 ngày. Nhưng điều kỳ diệu là cây đèn vẫn cháy sáng trong 8 đêm liền, để thời gian để Judah tìm được nguồn dầu tiếp ứng. Đây cũng chính là cảm hứng cho lễ hội Hanukka diễn ra trong 8 ngày đêm với 8 cây nến được thắp sáng mỗi đêm.

Và từ đó “phép màu Hanukkah” tiếp tục được lưu truyền và kỷ niệm qua nhiều thế kỷ. (Ảnh: Internet)

Những hoạt động truyền thống của lễ hội Hanukka

Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của Lễ hội Thắp Nến Hanukka chính là cây nến 9 nhánh Menorah. Ngày đầu tiên của lễ hội, ngọn nến chính giữa – shamash (“người phục vụ”) được thắp lên và thắp sáng ngọn nến đầu tiên. Những lời chúc phúc đặc biệt được đọc theo một giai điệu truyền thống trước khi ngọn nến menorah được thắp lên, và các bài hát truyền thống của người Do Thái sẽ được hát sau đó.

Các ngày thứ 2, 3…đến ngày thứ 8 đều như vậy, mỗi khi một menorah được thắp sáng là những lời chúc phúc, những bài hát được vang lên trong những ngôi nhà. 

Khi ngọn nến được thắp sáng là những lời cầu nguyện và bài hát truyền thống cũng vang lên. (Ảnh: Internet)

Cây nến Menorah được thắp sáng và được đặt ở cửa ra vào hoặc cửa sổ như một lời nhắc nhở những người khác về phép màu đã truyền cảm hứng cho ngày lễ.. Menorah cũng được thắp sáng trong các giáo đường Do Thái và những nơi công cộng khác. Trong những năm gần đây, hàng nghìn menorah khổ lồ đã mọc lên trước các tòa thị chính thành phố và các tòa nhà lập pháp cũng như trong các trung tâm thương mại và công viên trên khắp thế giới.

Người Do Thái sẽ đọc lời cầu nguyện Hallel đặc biệt hàng ngày, và thêm V’Al HaNissim trong các lời cầu nguyện cùng lời tạ ơn sau bữa ăn, để dâng lời ca ngợi và cảm tạ Đức Chúa Trời.

Bài hát Hanukkah:


Món ăn truyền thống của lễ hội Hanukka

Bởi vì truyền thuyết về phép màu của Hanukah liên quan đến dầu nên món ăn truyền thống của Lễ hội thắp nến này cũng thường có những món ăn chiên, rán. Bánh khoai tây (được gọi là latkes) trang trí với sốt táo hoặc kem chua và bánh rán nhân mứt (sufganiyot) đặc biệt phổ biến ở nhiều hộ gia đình Do Thái.

Món ăn truyền thống của lễ hội Hanukkah. (Ảnh: Internet)

Trò chơi truyền thống của lễ hội Hanukka

Theo thông lệ, bạn có thể chơi với con quay 4 mặt được gọi là dreidel. Con quay dreidel gồm có các chữ cái tiếng Do Thái: nun, gimmel, hei và shin – viết tắt của nes gadol hayah sham (một phép màu tuyệt vời đã xảy ra ở đó). Trò chơi thường được chơi để lấy tiền xu, quả hạch hoặc những thứ khác, thắng hoặc thua dựa trên chữ cái mà dreidel tiếp đất khi nó được quay. Ngoài ra các thành viên trong gia đình Do Thái cũng trao đổi, tặng quà cho nhau vào ngày lễ này.

Trò chơi truyền thống trong lễ hội Hanukkah với con quay 4 mặt. (Ảnh: Internet)

Trong những thập kỷ gần đây, đặc biệt là ở Bắc Mỹ, Hanukkah đã bùng nổ thành một hiện tượng thương mại lớn, phần lớn là do nó rơi vào gần hoặc trùng với Giáng Sinh. Tuy nhiên, từ góc độ tôn giáo, đây vẫn là một ngày lễ tương đối nhỏ không hạn chế việc đi làm, đi học hoặc các hoạt động khác.

Xam Chan / Theo: bloganchoi

Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Theo thông lệ, bạn có thể chơi với con quay 4 mặt được gọi là dreidel. Con quay dreidel gồm có các chữ cái tiếng Do Thái: nun, gimmel, hei và shin – viết tắt của nes gadol hayah sham (một phép màu tuyệt vời đã xảy ra ở đó). Trò chơi thường được chơi để lấy tiền xu, quả hạch hoặc những thứ khác, thắng hoặc thua dựa trên chữ cái mà dreidel tiếp đất khi nó được quay. Ngoài ra các thành viên trong gia đình Do Thái cũng trao đổi, tặng quà cho nhau vào ngày lễ này. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/This article is referenced content from https://bloganchoi.com - Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Theo thông lệ, bạn có thể chơi với con quay 4 mặt được gọi là dreidel. Con quay dreidel gồm có các chữ cái tiếng Do Thái: nun, gimmel, hei và shin – viết tắt của nes gadol hayah sham (một phép màu tuyệt vời đã xảy ra ở đó). Trò chơi thường được chơi để lấy tiền xu, quả hạch hoặc những thứ khác, thắng hoặc thua dựa trên chữ cái mà dreidel tiếp đất khi nó được quay. Ngoài ra các thành viên trong gia đình Do Thái cũng trao đổi, tặng quà cho nhau vào ngày lễ này. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/
Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của Lễ hội Thắp Nến Hanukka chính là cây nến 9 nhánh Menorah. Ngày đầu tiên của lễ hội, ngọn nến chính giữa – shamash (“người phục vụ”) được thắp lên và thắp sáng ngọn nến đầu tiên. Những lời chúc phúc đặc biệt được đọc theo một giai điệu truyền thống trước khi ngọn nến menorah được thắp lên, và các bài hát truyền thống của người Do Thái sẽ được hát sau đó. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/This article is referenced content from https://bloganchoi.com - Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Điểm đặc biệt và quan trọng nhất của Lễ hội Thắp Nến Hanukka chính là cây nến 9 nhánh Menorah. Ngày đầu tiên của lễ hội, ngọn nến chính giữa – shamash (“người phục vụ”) được thắp lên và thắp sáng ngọn nến đầu tiên. Những lời chúc phúc đặc biệt được đọc theo một giai điệu truyền thống trước khi ngọn nến menorah được thắp lên, và các bài hát truyền thống của người Do Thái sẽ được hát sau đó. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/

Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Lịch sử hình thành Lễ hội thắp nến Hanukka. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/This article is referenced content from https://bloganchoi.com - Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Lịch sử hình thành Lễ hội thắp nến Hanukka. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/

Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Các gia đình Do Thái sẽ thắp cây nến 9 nhánh trong 8 ngày lễ hội Hanukkah. (Ảnh: Internet)Nguồn gốc và ý nghĩa của từ Hanukka. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/This article is referenced content from https://bloganchoi.com - Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Các gia đình Do Thái sẽ thắp cây nến 9 nhánh trong 8 ngày lễ hội Hanukkah. (Ảnh: Internet)Nguồn gốc và ý nghĩa của từ Hanukka. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/

Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng tìm hiểu về Lễ Hội Thắp Nến Hanukka độc đáo này nhé. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/This article is referenced content from https://bloganchoi.com - Hanukkah là gì? Những sự thật ít biết về Lễ hội thắp nến của người Do Thái - BlogAnChoi. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng ti. Lễ hội Hanukkah là một ngày lễ quan trọng của người Do Thái với hoạt động thắp 8 cây nến và những nghi lễ kiêng kị khắt khe. Cùng tìm hiểu về Lễ Hội Thắp Nến Hanukka độc đáo này nhé. https://bloganchoi.com/le-hoi-hanukkah/