Thursday, September 4, 2025

GỐM SỨ "ĐƯỜNG TAM THẢI" TINH HOA VĂN HÓA NGHỆ THUẬT MỘT THỜI

“Cửu thiên xương hợp khai cung điện, vạn quốc y quan bái miện lưu.” Câu thơ nổi tiếng này của nhà thơ Vương Duy đời Đường, miêu tả sinh động về sự thịnh vượng, vinh hoa một thời của triều đại nhà Đường khi “vạn quốc lai triêu” – nhiều quốc gia đến bái kiến học hỏi.


Sau khi trải qua triều đại Trinh Quan ở giai đoạn đầu và thời đại thịnh vượng của Khải Nguyên ở giai đoạn giữa, quyền lực quốc gia của nhà Đường đạt đến đỉnh cao, hình thành lên một cục diện “tam niên nhất thượng kế, vạn quốc xu Hà Lạc”, ngụ ý rằng cứ 3 năm một kế sách hay thì rất nhiều nước khác sẽ đến Hà Lạc để học theo. Sự cường thịnh của một quốc gia đã tạo nên nền tảng văn hóa đa dạng, đặc biệt dung nạp các chủng tộc, tôn giáo khác nhau, ở một mức độ nhất định, văn hóa ngoại lai cũng tác động tích cực đến phong cách thẩm mỹ thời Đường.

Vào thời nhà Đường thịnh vượng, kinh tế xã hội thịnh vượng chưa từng có, dân số tăng lên đáng kể, giao thông nội địa tứ phương, người từ Đông phương, Đông hải, Tây vực đều đổ về đây, ngoại thương cũng vô cùng sôi động. Trong khi nhà Đường chấp nhận giao lưu và học hỏi từ các quốc gia khác nhau, các mặt xã hội, kinh tế, văn hóa, nghệ thuật và các mặt khác đều thể hiện đặc điểm đa dạng hóa, và các sản phẩm thủ công mỹ nghệ đầy màu sắc mang đầy phong tục phong phú cũng trở thành một nét chính của thời đó.

Ảnh: Internet

Gốm tráng men được coi là một trong những thành tựu cao nhất của văn hóa và nghệ thuật thời Đường, và có vị thế đặc biệt trong lịch sử gốm sứ Trung Quốc. Gốm tráng men thể hiện những kỹ thuật tinh xảo của đồ sứ Trung Quốc về hình dáng, trang trí, màu men và quy trình nung. Các sản phẩm của gốm tráng men có rất nhiều chủ đề, từ dày đến mịn, nhỏ đến lớn, sinh động và đầy đủ, căng tràn sức sống, với biểu cảm mạnh mẽ và tác động trực quan. Gốm tráng men thể hiện một cách hoàn hảo phong cách nghệ thuật thời Đường được tạo ra từ sự giao thoa và kết hợp giữa văn hóa phương Đông và văn hóa phương Tây.

Trong thời kỳ thịnh vượng của nhà Đường Gốm tráng men còn được mệnh danh là đại diện của nghệ thuật thời Đường, chủ yếu được làm từ men màu vàng, trắng và xanh lục nên được gọi là “Đường tam thải” (唐三彩). Trên thực tế, ngoài “ba màu” thông thường, nhiều đồ vật của gốm có nhiều màu sắc. Kỹ thuật nung cũng rất phức tạp và yêu cầu nung ở nhiệt độ cao. Một số loại men cần được nung trong lò lần thứ hai để đạt được hiệu quả mong muốn.

Các tác phẩm có thêm màu xanh coban để tạo hiệu ứng đốm xanh thậm chí làm cho gốm quý hiếm hơn. Chất liệu màu xanh coban là một loại bột màu rất quý được du nhập từ Ba Tư nên đồ sứ trang trí men xanh coban hầu hết là vật trang trí trong nhà của các chức sắc và là biểu tượng của địa vị.

Ảnh: Internet

Hệ thống chôn cất dày đặc thịnh hành vào thời nhà Đường, và Gốm tráng men nghiễm nhiên trở thành lựa chọn đầu tiên để chôn cất. Sự thịnh vượng của Gốm tráng men cũng phản ánh tính toàn diện của văn hóa thời Đường. Trước thời Đường, người ta chủ trương màu trơn, sau thời Đường, do giao lưu văn hóa với phương Tây nên nhà Đường đã tiếp thu nhiều nền văn hóa khác nhau, bao gồm chữ viết, hội họa, đồ gốm sứ, đồ vàng bạc, các bài hát, điệu múa, v.v. đến màu sắc và hình dạng mang tính biểu tượng của Gốm tráng men.

Gốm tráng men cũng chứng tỏ sức mạnh của nhà Đường lúc bấy giờ không chỉ về quân sự mà còn về kinh tế, văn hóa và nghệ thuật. “Đường tam thải” vốn đã chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong lịch sử mỹ thuật thế giới, trong cách thể hiện nghệ thuật tinh tế, có sức mê tìm tòi sáng tạo nghệ thuật vô hạn của Đường tam thải nội hàm.

Hình dạng phổ biến của “Đường tam thải” bao gồm các hình tượng và động vật như lạc đà và ngựa, ngoài đồ dùng, hầu hết đều là động vật. Trong các loài động vật, số lượng ngựa là lớn nhất, điều này liên quan đến môi trường xã hội thời bấy giờ, thời cổ đại con người cần ngựa chiến để chiến đấu, ngựa là cần thiết để liên lạc và vận chuyển, có thể nói ngựa là những con vật gần gũi với cuộc sống của con người thời bấy giờ, chính vì vậy, những con vật trong gốm tráng men đều bị ngựa thống trị. Hình dáng ngựa trong Đường tam thải khác với ngựa ở các triều đại trước, đầu nhỏ, cổ dài, thân hình mập mạp, đôi mắt tinh anh, mang đầy sức cảm hóa nghệ thuật. Trong số đó, ba màu trắng và ba màu đen là có giá trị nhất. Đặc điểm động của ngựa ba màu thời Đường chủ yếu là tĩnh, trong tĩnh có chuyển động, hình dáng mắt, tai của ngựa và các chi tiết khác thể hiện mặt động.


Các hình tượng trong Gốm tráng men đời Đường, có tỷ lệ vừa phải, hình dạng tự nhiên, đường nét uyển chuyển và sống động. Có rất nhiều loại tượng trong Đường tam thải, chẳng hạn như tượng của các vị vua, tượng của quan lại, tượng của chiến binh, tượng của phụ nữ, v.v. quan văn thì nhã nhặn, chiến binh dũng mãnh, tượng hình kỵ binh có mũi cao và mắt sâu, Thiên vương có ánh mắt giận dữ và uy nghiêm. Chúng đều có một đặc điểm chung là có hình dáng đầy đặn. Điều này trùng hợp với tiêu chuẩn thẩm mỹ phổ biến “béo là đẹp” vào thời nhà Đường.

Trong tạo hình tượng trưng khái quát ngắn gọn và sinh động, nét mặt được miêu tả cụ thể, trọng tâm là biểu hiện của phong thái. Các tác phẩm này có hình dáng hiện thực, dáng điệu uyển chuyển, cả về hình thức lẫn thần thái, mang tính nghệ thuật cao。

Trong quá trình sản xuất Đường tam thải tỉ mỉ, không có hai tác phẩm nào có màu sắc hoàn toàn giống nhau. Nước men chảy xuống một cách tự nhiên, trong quá trình nung sẽ xảy ra nhiều biến đổi phức tạp và tuyệt vời. Màu men bóng và trong như pha lê, màu sắc quyến rũ, tự do và mịn, do đó tạo ra các hiệu ứng nghệ thuật đầy màu sắc và tráng lệ trong sự phản chiếu lẫn nhau của màu sắc.

Gốm tráng men đời Đường, cùng với thơ ca và hội họa thời Đường, đã hình thành chủ đề chính của nền văn hóa thịnh vượng thời Đường, do đó, Đường tam thải đã trở thành một cột mốc quan trọng trong lịch sử gốm sứ Trung Quốc.

Nguyệt Hòa / Theo: vandieuhay

QUẢ XƯA CHỈ RỤNG DƯỚI GỐC, NAY THÀNH ĐẶC SẢN ĐƯỢC SĂN LÙNG

Từng bị bỏ quên dưới gốc rừng, hạt dổi nay trở thành “vàng đen Tây Bắc”, được săn lùng với giá gần 3 triệu đồng/kg nhờ hương thơm độc đáo và hiếm có.

 Hạt dổi nếp

Hành trình từ “quả bỏ đi” đến đặc sản quý hiếm

Từng bị coi là thứ quả vô giá trị, hạt dổi rụng đầy gốc cây trong rừng chẳng ai thèm nhặt, nhưng giờ đây nó đã trở thành đặc sản núi rừng Tây Bắc, được săn lùng với giá gần 3 triệu đồng/kg. Trong số đó, dổi nếp là loại hạt được ưa chuộng nhất bởi hương thơm nồng nàn, thoang thoảng mùi xá xị đặc trưng, hạt nhỏ, mẩy và vàng pha đen.

Loại này hiện được bán với giá 260.000-300.000 đồng/lạng, tương đương 2,6-3 triệu đồng/kg. Trong khi đó, dổi tẻ có hạt to, màu đen, mùi hắc hơn, ít thơm và giá rẻ hơn nhiều, chỉ khoảng 150.000-180.000 đồng/lạng.

Giá trị của hạt dổi đến từ sự quý hiếm. Cây dổi là loài gỗ cao lớn, tuổi đời hàng chục năm mới cho quả, mỗi cây trưởng thành cũng chỉ thu được vài kg hạt tươi mỗi mùa.

Hình ảnh cây dổi nếp.

Để có được 1 kg hạt khô, người dân phải thu hoạch rất nhiều hạt tươi, lại thêm việc hái khó khăn vì cây cao, hạt chỉ thu khi rụng. Người dân thường phải trải bạt dưới gốc để hứng, nếu để lẫn đất cát sẽ mất giá trị.

Chính sự khan hiếm này đã khiến hạt dổi được ví như “vàng đen Tây Bắc”. Thậm chí, những cây dổi cổ thụ lâu năm còn cho hạt có giá lên tới 4-5 triệu đồng/kg nhưng không phải lúc nào cũng có hàng.

Hương vị độc đáo và sức hút trên bàn ăn

Không chỉ quý hiếm, hạt dổi còn có hương vị khiến bao người mê mẩn. Khi nướng trên than hồng, tinh dầu trong hạt tiết ra mùi thơm cay nồng, hơi tê đầu lưỡi, tạo nên trải nghiệm ẩm thực không thể nhầm lẫn.


Người Thái, người Mường, người Tày từ lâu đã dùng dổi để làm gia vị trong món nướng, ướp thịt gác bếp, pha nước chấm chẩm chéo hay muối dổi. Chỉ cần vài hạt giã nhuyễn trộn với muối, ớt và chanh là đã có chén gia vị đặc sắc, nâng tầm bữa cơm vùng cao.

Do nhu cầu ngày càng lớn, hạt dổi không chỉ được bán tại địa phương mà còn có mặt ở khắp các thành phố lớn, trở thành gia vị được nhiều đầu bếp 5 sao săn lùng để sáng tạo món ăn mới. 


Dù giá thành cao, mặt hàng này vẫn thường xuyên “cháy hàng” bởi sản lượng hạn chế. Để giữ hương thơm lâu, người dân thường bảo quản hạt trong ống tre, để trên gác bếp hoặc cất trong ngăn mát tủ lạnh.

Từ thứ quả từng bị bỏ quên dưới gốc cây rừng, hạt dổi nay đã vươn mình trở thành đặc sản đắt giá, mang hương vị riêng biệt của núi rừng Tây Bắc, góp phần làm phong phú bản sắc ẩm thực Việt Nam.

Yến Nguyễn / Theo: saostar



NGÀY XƯA HOÀNG THỊ - PHẠM THIÊN THƯ


Ngày xưa Hoàng thị
thơ Phạm Thiên Thư

Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng

Bước em thênh thang
Áo tà nguyệt bạch
Ôm nghiêng cặp sách
Vai nhỏ tóc dài

Anh đi theo hoài
Gót giầy thầm lặng
Đường chiều úa nắng
Mưa nhẹ bâng khuâng

Em tan trường về
Cuối đường mây đỏ
Anh tìm theo Ngọ
Dáng lau lách buồn

Tay nụ hoa thuôn
Vương bờ tóc suối
Tìm lời mở nói
Lòng sao ngập ngừng

Lòng sao rưng rưng
Như trời mây ngợp
Hôm sau vào lớp
Nhìn em ngại ngần

Em tan trường về
Đường mưa nho nhỏ
Trao vội chùm hoa
Ép vào cuối vở

Thương ơi vạn thuở
Biết nói chi nguôi
Em mỉm môi cười
Anh mang nỗi nhớ

Hè sang phượng nở
Rồi chẳng gặp nhau
Ôi mối tình đầu
Như đi trên cát

Bước nhẹ mà sâu
Mà cũng nhoà mau
Tưởng đã phai màu
Đường chiều hoa cỏ

Mười năm rồi Ngọ
Tình cờ qua đây
Cây xưa vẫn gầy
Phơi nghiêng ráng đỏ

Áo em ngày nọ
Phai nhạt mấy màu?
Chân tìm theo nhau
Còn là vang vọng

Đời như biển động
Xoá dấu ngày qua
Tay ngắt chùm hoa
Mà thương mà nhớ

Phố ơi muôn thuở
Giữ vết chân tình
Tìm xưa quẩn quanh
Ai mang bụi đỏ

Dáng em nho nhỏ
Trong cõi xa vời

Tình ơi tình ơi!

Bài thơ này đã được nhạc sĩ Phạm Duy phổ nhạc thành bài hát cùng tên.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Phạm Thiên Thư tên thật là Phạm Kim Long, sinh ngày 1-1-1940 xuất thân trong một gia đình đông y. Quê cha: xã Đình Phùng, Kiến Xương, Thái Bình. Quê mẹ: xã Trung Mẫu, Từ Sơn, Bắc Ninh. Sinh quán: Lạc Viên, Hải Phòng. Trú quán: Trang trại Đá Trắng, Chi Ngãi, Hải Dương (1943-1951), Sài Gòn - Tp.Hồ Chí Minh (1954 đến nay).

Từ 1964-1973: Tu sĩ Phật giáo, làm thơ. Năm 1973, đoạt giải nhất văn chương toàn quốc với tác phẩm Hậu Kiều - Đoạn trường vô thanh. Năm 1973-2000: Nghiên cứu, sáng lập và truyền bá môn Dưỡng sinh Điển công Phathata (viết tắt chữ Pháp-Thân-Tâm).

Nguồn: Thi Viện



TỘC NGƯỜI ĐỐI ĐẦU NHÀ THANH SUỐT 70 NĂM VÀ LÝ DO BỊ HOÀNG ĐẾ CÀN LONG RA LỆNH TẬN DIỆT

Cuộc chiến giữa tộc người Chuẩn Cát Nhĩ và nhà Thanh ở Trung Hoa là một trong những cuộc xung đột lịch sử kéo dài suốt 70 năm với nhiều sự kiện khốc liệt. Đây là cuộc đối đầu giữa đế quốc thảo nguyên du mục cuối cùng và một triều đại phong kiến Trung Hoa.

Cát Nhĩ Đan là người đứng đầu Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ - người chủ trương chiến tranh với nhà Thanh thời Khang Hi.

Trung Quốc ngày nay là một quốc gia thống nhất với 56 dân tộc. Vào thời phong kiến, có những dân tộc trừng phát triển rực rỡ hoặc có ảnh hưởng đang kể trong lịch sử Trung Hoa nhưng đã biến mất. Loạt bài dài kỳ này đề cập một số dân tộc như vậy, tầm ảnh hưởng của họ và lý do vì sao họ biến mất trong dòng chảy lịch sử.

Đế quốc thảo nguyên du mục cuối cùng

Chuẩn Cát Nhĩ từng là một trong những bộ tộc hùng mạnh nhất có nguồn gốc từ người Mông Cổ, xây dựng nên một đế quốc rộng lớn tại khu vực Tây Bắc Trung Quốc và Trung Á. Chuẩn Cát Nhĩ không chỉ là một tộc người du mục đơn thuần, họ đã phát triển thành một đế quốc có tổ chức chính trị và quân sự mạnh mẽ, với các thủ lĩnh kiệt xuất như Cát Nhĩ Đan (Galdan Boshugtu Khan) và Tháp Tang (Tsewang Rabtan).

Tộc người Chuẩn Cát Nhĩ từng là một phần của liên minh các bộ tộc Oirat, bao gồm người Khoshut, Dorbod và Torgut. Nhưng từ thế kỷ 17, người Chuẩn Cát Nhĩ bắt đầu nổi lên như một thế lực độc lập và mở rộng quyền kiểm soát khắp khu vực Trung Á. Đế quốc này phát triển mạnh nhờ vào các cuộc chiến tranh và chinh phạt, chiếm đóng nhiều vùng đất quan trọng thuộc Tân Cương, Tây Tạng và Nội Mông (ngày nay thuộc Trung Quốc). Những vùng đất này đều có vai trò chiến lược trong hệ thống thương mại của con đường tơ lụa, khiến Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ (Dzungar Khanate) trở thành đối thủ nguy hiểm của nhà Thanh.

Với vị trí địa lý nằm giữa Trung Quốc, Nga và các vương quốc Hồi giáo Trung Á, Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ không chỉ đối đầu với nhà Thanh mà còn với các thế lực ngoại bang khác. Tộc người này thường xuyên tham gia vào các cuộc chiến tranh khu vực, gây ra nhiều mối đe dọa cho nhà Thanh, đặc biệt là trong việc tranh giành quyền kiểm soát Mông Cổ và vùng biên giới phía Tây của Trung Quốc.

Vào thời điểm đỉnh cao dưới thời thủ lĩnh Cát Nhĩ Đan, Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ đã trở thành một thế lực hùng mạnh.

Chiến tranh với nhà Thanh suốt 70 năm

Nhà Thanh dưới thời hoàng đế Khang Hi đã nhiều lần mở các chiến dịch chinh phạt đế quốc của người Chuẩn Cát Nhĩ.

Cuộc chiến giữa tộc Chuẩn Cát Nhĩ và nhà Thanh kéo dài suốt gần 70 năm, bắt đầu từ cuối thế kỷ 17 khi tộc người này dưới sự lãnh đạo của thủ lĩnh Cát Nhĩ Đan, quyết định mở rộng lãnh thổ vào vùng Nội Mông và vùng tây bắc Trung Quốc. Trong quá trình bành trướng, họ đã vấp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ nhà Thanh.

Năm 1690, Cát Nhĩ Đan phát động một cuộc tấn công lớn vào khu vực Nội Mông, đe dọa trực tiếp sự ổn định của biên giới nhà Thanh. Để đối phó, hoàng đế nhà Thanh là Khang Hi đã đích thân dẫn quân tham chiến ba lần trong những năm 1690–1696. Trận Ulan Butung năm 1696 là một bước ngoặt khi quân đội nhà Thanh dưới sự chỉ huy của Khang Hi đã đánh bại quân của Cát Nhĩ Đan. Thủ lĩnh của người Chuẩn Cát Nhĩ sau đó tự sát vào năm 1697, kết thúc giai đoạn đầu của cuộc chiến.

Tuy nhiên, sự thất bại của Cát Nhĩ Đan không đồng nghĩa với sự sụp đổ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ. Người cháu là Tháp Tang tiếp tục củng cố quyền lực và mở rộng lãnh thổ. Tháp Tang duy trì sức mạnh quân sự và tiếp tục tiến hành nhiều cuộc tấn công vào lãnh thổ nhà Thanh.

Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ dưới sự lãnh đạo của Tháp Tang đã trở thành một đối thủ khó chịu, khiến nhà Thanh phải điều động nhiều nguồn lực để đối phó. Cuộc chiến tranh biên giới giữa hai bên kéo dài nhiều thập kỷ mà không có hồi kết.

Nổi loạn thời Càn Long và kết cục tuyệt diệt

Đỉnh điểm của cuộc xung đột diễn ra vào thời hoàng đế nhà Thanh là Càn Long. Khi thủ lĩnh Tháp Tang qua đời năm 1745, Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ tiếp tục suy yếu do cuộc nội chiến giữa những người thừa kế.

Con trai Tháp Tang là Lạp Mạt Tra (Lamdarjaa) trở thành thủ lĩnh nhưng bị lật đổ bởi người anh em họ là Đạt Lai Chi (Dawaachi). Tuy nhiên, Đạt Lai Chi cũng nhanh chóng bị quý tộc A Mục Nhĩ Sách Na (Amursanaa) lật đổ

Nhận thấy thời cơ chín muồi, hoàng đế Càn Long quyết định dứt điểm mối đe dọa từ Chuẩn Cát Nhĩ. Năm 1755, quân đội nhà Thanh dưới sự chỉ huy của tướng quân Phó Hằng đã tấn công trực diện vào kinh đô Y Ninh của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ (nay nằm ở phía tây Tân Cương, gần biên giới Kazakhstan).

Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ bị xóa sổ là một trong những sự kiện đáng chú ý nhất ở Trung Hoa thời nhà Thanh.

Chiến dịch này thành công nhanh chóng, nhà Thanh chiếm được kinh đô và bắt giữ nhiều thành viên hoàng tộc Chuẩn Cát Nhĩ.

A Mục Nhĩ Sách Na ban đầu quy thuận nhà Thanh, đòi được phong làm Khả Hãn, thay mặt nhà Thanh cai quản vùng lãnh thổ của Hãn quốc Chuẩn Cát Nhĩ trước đây. Càn Long lo người Chuẩn Cát Nhĩ sau này có thể tập hợp làm phản nên chỉ đồng ý để A Mục Nhĩ Sách Na làm thủ lĩnh một bộ tộc nhỏ. Toàn bộ vùng Tân Cương do người Mãn Thanh trực tiếp quản lý.

Tức giận vì quyết định của Càn Long, A Mục Nhĩ Sách Na phát động cuộc nổi loạn kéo dài suốt hai năm, tạo ra nhiều xáo trộn trong khu vực​.

Trước sự kháng cự của A Mục Nhĩ Sách Na và những người trung thành, Càn Long quyết định không thể để hãn quốc này hồi sinh. Năm 1757, nhà Thanh phát động cuộc chiến tổng lực nhằm tiêu diệt hoàn toàn tộc người Chuẩn Cát Nhĩ.

Quân đội Mãn Thanh đã tàn sát một cách không khoan nhượng, thực hiện chính sách diệt tộc. Theo lệnh của Càn Long, tất cả đàn ông Chuẩn Cát Nhĩ đều bị giết hại, trong khi phụ nữ và trẻ em bị bắt làm nô lệ hoặc bị phân phát cho binh lính.

Theo trang mạng Trung Quốc Sohu, sử gia Ngụy Nguyên ước tính trước khi bị xóa sổ, tổng dân số Chuẩn Cát Nhĩ là khoảng 600.000 người.

Hơn 40% dân số bị chết do dịch bệnh đậu mùa, 20% chạy trốn sang đế quốc Nga hoặc các bộ lạc Kazakh, 30% còn lại bị quân đội nhà Thanh tàn sát​. Những người sống sót sau này trở thành một phần của các dân tộc khác. Tộc người Chuẩn Cát Nhĩ cơ bản biến mất hoàn toàn, đặt dấu chấm dứt cho sự tồn tại của đế quốc thảo nguyên du mục cuối cùng.

_____________

Vào thời nhà Tống, một tộc người thiện chiến trỗi dậy mạnh mẽ, có thời điểm kiểm soát một nửa lãnh thổ Trung Hoa. Họ là ai, bắt nguồn từ đầu và kết cục của họ ra sao? Mời độc giả đón đọc bài kỳ 2

Kỳ 2: Tộc người thiện chiến từng kiểm soát một nửa Trung Hoa, bắt nhà Tống cống nạp và kết cục bi thảm

Theo Nhật Minh - Tổng hợp (Tri thức & Cuộc sống)

Wednesday, September 3, 2025

MÓN ĂN MÙA XUÂN Ở ÚC: HƯƠNG VỊ ĐỘC ĐÁO CỦA ĐẤT TRỜI NAM BÁN CẦU

Từ các món hải sản đặc trưng, những loại rau củ thanh mát đến các món tráng miệng tinh tế, món ăn mùa xuân ở Úc luôn mang lại cảm giác đặc biệt. Hãy cùng khám phá những món ăn không thể bỏ lỡ trong mùa đẹp nhất của xứ sở chuột túi.

1. Món ăn mùa xuân ở Úc và nguồn cảm hứng từ thiên nhiên

Mùa xuân ở Úc là thời điểm các cánh đồng xanh tươi, hoa trái rực rỡ (Nguồn hình: Sưu tầm)

Mùa xuân ở Úc, kéo dài từ tháng 9 đến tháng 11, là thời điểm các cánh đồng xanh tươi, hoa trái rực rỡ và hải sản dồi dào nhất. Đây cũng là mùa các đầu bếp và người dân địa phương sáng tạo ra những món ăn mùa xuân ở Úc mang đậm dấu ấn thiên nhiên. Sự kết hợp hài hòa giữa nguyên liệu tươi sống, cách chế biến đơn giản nhưng tinh tế đã tạo nên những món ăn vừa đẹp mắt vừa ngon miệng.

Người Úc đặc biệt chú trọng đến việc sử dụng nguyên liệu theo mùa, giúp món ăn mùa xuân ở Úc không chỉ giữ được hương vị tự nhiên mà còn đảm bảo giá trị dinh dưỡng cao. Đó là lý do mùa xuân luôn là khoảng thời gian được mong đợi, không chỉ để thưởng thức cảnh sắc mà còn để khám phá nền ẩm thực đặc sắc của đất nước này.

2. Hải sản – Tinh hoa của món ăn mùa xuân ở Úc

Nguồn hải sản dồi dào của Úc (Nguồn hình: Sưu tầm)

Úc là quốc gia nổi tiếng với nguồn hải sản phong phú, và mùa xuân là thời điểm lý tưởng để thưởng thức những loại hải sản ngon nhất. Món ăn mùa xuân ở Úc thường bao gồm các loại tôm hùm, hàu, cua và cá barramundi – những đặc sản của vùng biển nước này. Các món hải sản được chế biến với nhiều phong cách khác nhau, từ nướng, hấp, đến chiên giòn, đều giữ được hương vị tươi ngon và đậm đà.

Đặc biệt, hàu Sydney Rock và cua Tasmanian là những món không thể bỏ qua khi nói về món ăn mùa xuân ở Úc. Được khai thác vào thời điểm chúng đạt chất lượng tốt nhất, các loại hải sản này mang đến trải nghiệm ẩm thực tuyệt vời cho cả người dân địa phương lẫn du khách quốc tế.

3. Rau củ tươi và salad thanh mát trong món ăn mùa xuân ở Úc

Những món salad thanh mát vào mùa xuân ở Úc (Nguồn hình: Sưu tầm)

Một trong những đặc điểm nổi bật của món ăn mùa xuân ở Úc chính là sự xuất hiện của các loại rau củ tươi mát, mang đến cảm giác nhẹ nhàng nhưng đầy đủ dinh dưỡng. Rau chân vịt, măng tây, củ cải đường, và bí ngòi là những nguyên liệu được yêu thích nhất trong mùa này. Các loại rau củ không chỉ được sử dụng làm salad mà còn được chế biến thành các món nướng hoặc ăn kèm với thịt và hải sản.

Salad mùa xuân là một món ăn tiêu biểu của người Úc trong thời gian này. Với cách chế biến đơn giản, kết hợp dầu olive, nước chanh và các loại rau củ giòn ngọt, món salad mang lại cảm giác sảng khoái, rất phù hợp với không khí ấm áp của mùa xuân. Món ăn mùa xuân ở Úc luôn khéo léo làm nổi bật sự tươi mới của nguyên liệu, tạo nên sức hút khó cưỡng.

4. Thịt nướng – Linh hồn của món ăn mùa xuân ở Úc

Thịt nướng là một phần không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực Úc (Nguồn hình: Sưu tầm)

Thịt nướng là một phần không thể thiếu trong văn hóa ẩm thực Úc, và mùa xuân là thời điểm hoàn hảo để thưởng thức món ăn này. Các loại thịt như bò, cừu, và gà thường được tẩm ướp với các loại gia vị địa phương và nướng trên than hồng, mang lại hương vị thơm lừng, đậm đà.

Đặc biệt, món thịt cừu nướng kiểu Úc luôn được đánh giá cao nhờ chất lượng thịt mềm ngọt và cách chế biến tinh tế. Người Úc thường kết hợp thịt nướng với các loại rau củ tươi sống hoặc bánh mì, tạo nên một món ăn mùa xuân ở Úc vừa no bụng vừa hấp dẫn.

5. Món tráng miệng đặc trưng của mùa xuân

Mùa xuân ở Úc cũng là lúc các loại trái cây nhiệt đới tươi ngon (Nguồn hình: Sưu tầm)

Mùa xuân ở Úc cũng là lúc các loại trái cây nhiệt đới như dâu tây, xoài, kiwi và việt quất đạt độ chín hoàn hảo. Đây là nguyên liệu chính trong các món tráng miệng nổi tiếng như bánh pavlova, tart trái cây hay kem gelato.

Bánh pavlova – món tráng miệng biểu tượng của Úc, là một sự kết hợp tuyệt vời giữa lớp vỏ giòn tan và phần nhân kem mềm mịn, thường được trang trí với các loại trái cây tươi mát. Không chỉ đẹp mắt, những món tráng miệng này còn mang lại cảm giác nhẹ nhàng và tươi mới, rất phù hợp với không khí mùa xuân.

Món ăn mùa xuân ở Úc không chỉ là sự kết tinh của thiên nhiên tươi đẹp mà còn phản ánh nét văn hóa độc đáo của đất nước này. Từ những món hải sản thượng hạng, rau củ thanh mát đến các món tráng miệng ngọt ngào, ẩm thực mùa xuân ở Úc luôn mang lại cảm giác hài lòng cho mọi thực khách. Nếu bạn đang lên kế hoạch cho một chuyến đi vào mùa xuân, đừng bỏ lỡ cơ hội thưởng thức những món ăn mùa xuân ở Úc để cảm nhận trọn vẹn hương vị và tinh thần của xứ sở chuột túi trong mùa đẹp nhất năm.

Theo: Vietravel

GIA CÁT LƯỢNG CHẾT VẪN KHÔNG QUÊN BA THỤC, CHUYỂN SINH DỰNG ĐẠI PHẬT LẠC SƠN

“Tại sao mắt tôi ngấn lệ, vì tôi yêu mảnh đất này”. Duyên phận cũng kỳ diệu như vậy, không rõ tại sao mọi người đều vô cùng quyến luyến với quê hương. Có những người yêu quê hương, một đời vẫn chưa đủ, đời sau chuyển sinh vẫn tiếp tục yêu mảnh đất đó. Sách cổ “Tuyên thất chí” có ghi chép câu chuyện Gia Cát Lượng chuyển sinh, xây dựng tượng Đại Phật Lạc Sơn bảo hộ quốc gia Phủ Trời…

Ảnh: Ntdvn

Năm 746, gia tộc họ Vi vô cùng hiển đạt đương thời vui mừng chào đón một bé trai, đặt tên là Vi Cao. Khi Vi Cao đầy tháng, nhà họ Vi tổ chức “triệu tặng trai”, mời rất nhiều cao tăng đến cầu phúc cho bé.

Lạ thay, trong đám thực khách hôm đó có một tăng nhân Ấn Độ tướng mạo xấu xí, không biết tên gọi là gì, không mời tự đến. Trông thấy cậu bé Vi Cao – lúc này vẫn còn là trẻ sơ sinh – liền hỏi: “Từ biệt đã lâu, vẫn mạnh giỏi chứ?”

Bé Vi Cao hình như hiểu lời ông ta, nét mặt lộ vẻ vui mừng, cứ cười mãi với vị tăng nhân kỳ lạ này. Mọi người đều vô cùng kinh ngạc, phụ thân Vi Cao nói: “Đứa bé mới sinh được một tháng, tại sao sư phụ lại nói là từ biệt đã lâu?”.

Hồ tăng nói: “Việc này không phải là điều mà thí chủ có thể biết được”.

Phụ thân Vi Cao truy vấn mãi, tăng nhân Ấn Độ mới cho biết rằng: “Đứa bé này chính là Gia Cát Lượng chuyển thế. Vũ Hầu là thừa tướng của Tây Thục, người Thục nhận ân huệ của ông đã lâu. Ngày nay ông lại giáng sinh xuống thế gian sinh ra trong gia đình thế gia, sau này còn làm nguyên soái đất Thục, bảo vệ đất Thục. Xưa kia tôi ở Kiếm Môn, kết thân với Vũ Hầu, nay nghe nói ông giáng sinh ở nhà họ Vi, do đó tôi mới không quản xa xôi đến đây”.

Đứa bé này chính là Gia Cát Lượng chuyển thế. (Ảnh: NTD Việt Nam tổng hợp)

Nhà họ Vi nghe xong câu chuyện của vị cao tăng thì cảm thấy rất kỳ lạ, thế là họ bèn đặt tên hiệu cho Vi Cao là Vũ Hầu. Sau này Vi Cao quả nhiên trải qua đúng như những gì tăng nhân Ấn Độ này nói.

Sách cổ “Thần tăng truyện” có ghi chép, Vi Cao tài học hơn người, quan lộ thuận lợi, lần lượt được phong làm Kim ngô vệ Tướng quân, Thiên đại tướng quân, Kiếm Nam Tây Xuyên Tiết độ sứ, cuối cùng là người bảo vệ đất Thục, lập công lớn, được ban chức Phong cương Đại sứ (Quan đứng đầu đất Thục).

Người dân đất Thục dũng mãnh ngang ngạnh, vốn không dễ quản lý, hơn nữa phía nam có nước Nam Chiếu và phía tây có nước Thổ Phồn thường xuyên gây hấn, xâm phạm bờ cõi.

Vi Cao tinh thông binh pháp, sau khi nhậm chức, ông tiến hành phân tích cục diện tình thế Kiếm Nam, đặt ra phương pháp ứng đối khác nhau đối với kẻ địch khác nhau, hiệu quả nổi bật.

Những năm Thiên Bảo, liên tiếp xảy ra chiến tranh giữa quân Đường và quân Nam Chiếu, tổng cộng có 18 vạn binh sĩ đổ máu trên mảnh đất này.

Những năm Trinh Nguyên, dưới sự dẫn dắt của Vi Cao, tuy biên giới không ngừng va chạm nhưng Đại Đường cuối cùng cũng không có tổn thất lớn nào.

Năm Trinh Nguyên thứ 17, Vi Cao chủ động xuất kích, chia quân làm 10 lộ, đem đại quân tấn công vào vùng đất trọng yếu bên trong vương quốc Thổ Phồn. Chỉ một lần là phá vỡ liên quân giữa vương quốc Thổ Phồn và Đế quốc Abbas Ả-rập. Trải qua mấy tháng Vi Cao đã đánh tan đội quân 16 vạn của vương quốc Thổ Phồn, đánh hạ 7 tòa thành trì và 5 khu quân đội trấn thủ.

Vi Cao ở đất Thục 21 năm, tổng cộng đánh tan 48 vạn quân Thổ Phồn, bắt sống và hàng phục 1500 tiết sứ, đô đốc, thành chủ, lung quan; thu được 25 vạn con dê, bò, và 630 vạn binh khí.

Vi Cao ở đất Thục 21 năm, tổng cộng đánh tan 48 vạn quân Thổ Phồn. (Ảnh chụp phim Tam Tự Kinh)

Xây dựng, khánh thành Đại Phật Lạc Sơn

Lạc Sơn là nơi 3 con sông hội tụ, đương thời thế nước hung dữ, thuyền bè thường bị lật chìm. Mỗi lần nước lũ mùa hạ về, nước sông xô đập vào vách núi, thường tạo ra những tai nạn bi kịch thuyền tan người chết. Để giảm thiểu tai họa sông nước, thiền sư Hải Thông triệu tập nhân lực vật lực để tạc tượng Phật. Năm Khai Nguyên thứ nhất đời Đường Huyền Tông (năm 713) bắt đầu khai công xây dựng tượng Đại Phật Lạc Sơn.

Hàng trăm hàng nghìn thợ thủ công giỏi đều nô nức tề tựu đến núi Lăng Vân. Ngày khai công tạc bức tượng đá khổng lồ này có hàng ngàn chiếc búa đập đá cùng tạo tác, tiếng vang tới tận trời xanh, quả là cảnh tượng ngàn năm có một. Tương truyền thủy quái thường ẩn sâu đáy sông, nổi gió nổi sóng mà khi nghe những âm thanh chấn động này đã kinh hoàng nổi lên mặt nước, vội vàng trốn chạy. Hình dáng bức tượng Đại Phật càng ngày càng hình thành rõ nét, nơi ba con sông hội tụ này cũng càng ngày càng lặng sóng.

Khi tượng Đại Phật tạc đến phần vai thì thiền sư Hải Thông qua đời, công trình vì vậy mà gián đoạn.

Nhiều năm sau, Kiếm Nam Tây Xuyên Tiết độ sứ Chương Cừu Kiêm Quỳnh quyên tặng lương bổng, mời đồ đệ của Hải Thông dẫn dắt thợ tiếp tục tạo tác tượng Đại Phật, nhưng khi tạc đến đầu gối thì Chương Cừu Kiêm Quỳnh được thăng làm Thượng thư Bộ Hộ nên chuyển nhà về kinh thành, công trình lại lần nữa dừng lại.

40 năm sau, Vi Cao quyên tặng lương bổng tiếp tục tạo dựng Đại Phật Lạc Sơn. Như thế trải qua 3 đời thợ thủ công, thời gian kéo dài tới 90 năm, đến năm 803, bức tượng Đại Phật Lạc Sơn cao 71 mét cuối cùng cũng đã hoàn thành.

40 năm sau, Vi Cao quyên tặng lương bổng tiếp tục tạo dựng Đại Phật Lạc Sơn. (Ảnh: Wikipedia)

Vi Cao biên soạn sách “Gia Châu Lăng Vân Tự Đại Di Lặc thạch tượng ký”, đã ghi chép lại toàn bộ quá trình từ đầu đến cuối công việc tạc tượng Đại Phật này.

Tương truyền vì Gia Cát Lượng lưu luyến không quên Ba Thục, nên ông đã chuyển sinh thành Vi Cao, tạo dựng bức tượng Phật Di Lặc ngồi này, hai tay tượng Phật để trên gối, chân đặt trên đài sen, mặt nhìn ra dòng sông cuồn cuộn chảy về đông, thần thái ung dung tự tại, bảo hộ vùng đất 3 con sông hội tụ, bảo hộ chúng sinh Ba Thục.

Tường Hòa – Ntdvn
Theo Sound of Hope



CUỘC CHIẾN GÀ RÁN Ở MỸ

Nằm ngay giữa Vùng Đại Đồng Bằng của Mỹ, khu vực xung quanh thành phố Pittsburg, bang Kansas, trải rộng như một thảo nguyên rộng lớn.

Ảnh: Bruce N Meyer

Ở đây, gió thổi lạnh thấu xương vào mùa đông; mặt trời làm khô nẻ đất vào mùa hè; và các chủ trang trại, nông dân và người dân ở cộng đồng 20.000 dân này tụ tập để xem các trận bóng bầu dục mỗi tối thứ Sáu tại trường trung học địa phương.

Theo tất cả những gì được kể lại, thị trấn trước đây từng là mỏ than này khá yên tĩnh - cho đến khi chủ đề gà rán nổi lên.

Sự nguy hiểm của mỏ than

Trong hơn 80 năm qua, thành phố khiêm tốn này đã trở thành một trong những tâm điểm của món gà rán Mỹ, và mọi thứ bắt đầu khi hai người phụ nữ mở các quán gà rán cách nhau chừng 100 mét trên cùng một con đường - do đó đã mở ra cuộc ganh đua địa phương mà đến nay vẫn còn sục sôi và tóe lửa.

Bốn thế hệ sau, con cháu của họ vẫn sử dụng công thức nấu ăn của họ để duy trì di sản họ để lại, và theo nhiều cách, việc những người phụ nữ này là ai và bằng cách nào những miếng gà chiên giòn của họ làm cho Pittsburg nổi sóng đã cho biết rất nhiều điều về trái tim và lịch sử của Miền Trung nước Mỹ.

Các đồng bằng xung quanh Pittsburg luôn là nơi có trữ lượng lớn than. Những cục đá đen tuyền này đã từng dồi dào đến nỗi trên mặt đất cũng có. Thổ dân Osage vốn từng sống ở đây gọi chúng là 'đá đen tạo lửa' và họ đã trao đổi chúng với những người định cư da trắng.

Những người thợ mỏ đầu tiên đã đến đây vào năm 1866, chỉ một năm sau khi Cuộc Nội chiến Mỹ kết thúc.

Đào các trụ sâu và đập vỡ các khối than là công việc nguy hiểm, cực khổ đến oằn lưng. Chẳng mấy chốc, các thông báo đã lan truyền khắp châu Âu để kêu gọi người nhập cư đến làm việc ở Pittsburg và Hạt Crawford lân cận.

Vào thời đỉnh điểm sản xuất than ở đây vào năm 1914, hơn 12.000 thợ mỏ và gia đình của họ đã xem Hạt Crawford là nhà, và vùng nông thôn với khoảng 55.000 dân này đã sản xuất hơn một phần ba than của nước Mỹ.

Một trong những gia đình định cư ở đây là nhà Rehak, vốn đã đi đường biển từ Áo vào đầu Thế kỷ 20, mang theo đứa con gái sơ sinh của họ, Annie. Khi còn là thiếu nữ, Annie đã kết hôn với Charles Pichler. Đôi vợ chồng này có ba đứa con và mua một căn nhà dưới bóng mỏ than ngay bên ngoài Pittsburg nơi Charles làm việc.

Những làn sóng người nhập cư từ châu Âu đổ tới Kansas, vùng đất quanh Pittsburg vốn từng có thời sản xuất ra hơn một phần ba tổng sản lượng than nước Mỹ. Nguồn hình ảnh,Getty Images

Vào giữa ca làm việc của Charles một ngày vào tháng 3/1933, tiếng còi ở khu mỏ vang lên bốn lần, báo hiệu đã xảy ra một vụ tai nạn. Charles đã bị một chiếc xe chở than đâm trên đường ray của khu mỏ. Chân phải của ông đã bị cắt lìa tại chỗ và chân trái của ông bị thương nặng.

Vào thời điểm đó, không có chuyện bảo hiểm hay bồi thường thương tật cho công nhân, và Annie buộc phải một thân một mình kiếm tiền nuôi gia đình năm người giữa cơn Đại Khủng hoảng ở Mỹ.

Tìm đường sống

Để gia đình không bị đói, Annie bắt đầu bán giăm bông và bánh mì kẹp thịt bê với giá vài xu cho những công nhân mỏ đi ngang trước nhà.

Bọn đàn ông ăn dưới bóng mát cây bạch dương và cây phong bên ngoài ngôi nhà trắng nhỏ của nhà Pichler, cách nhà phụ không xa, và uống rượu tự ngâm của Annie mà bà bán với giá 0,25 đô la cho khoảng hai lít.

"Bà tôi không bao giờ nói nhiều về khoảng thời gian đó, nhưng nó phải nói là rất khó khăn," Anthony Pichler, cháu trai của Annie nói. "Nhưng bà cũng rất kiên cường, và đó là lý do tại sao chúng tôi được như ngày nay."

Trong thời Đại Suy thoái, Annie Pichler buộc phải tìm kế sinh nhai để một mình bươn chải nuôi con cái, cho nên bà bắt đầu bán món gà rán. Nguồn hình ảnh,Getty Images

Năm 1934, khi đang tìm cách để phát triển công việc kinh doanh, bà để ý những con gà thả rông trước sân nhà, và Annie bắt đầu bán gà rán.

Bà vặt cổ gà, nhanh chóng làm sạch, chặt chúng thành từng miếng và chiên gà trên bếp than nóng trong gian bếp nhỏ của bà.

Vào mỗi thứ Bảy, Annie chuyển đồ đạc khỏi phòng khách của gia đình và đặt một vài bàn cho thực khách ngồi ăn trong căn nhà nhỏ của họ. Bà cũng làm salad khoai tây, bắp cải trộn, ớt ngâm chua và cà chua xắt lát lấy từ vườn nhà để làm món ăn kèm, và hoàn chỉnh món ăn với lát bánh mì trắng. Đôi khi, khách nán lại và khiêu vũ cho đến nửa đêm về sáng.

Một ngày nọ không lâu sau khi bà Annie bắt đầu mở tiệm, một bác sĩ địa phương cũng là người hâm mộ tài nấu ăn của Annie đề nghị bà đặt tên cho tiệm ăn gia đình của bà là 'Chicken Annie's'. Cái tên đó đã dính chặt với tiệm ăn như dầu dính trên chảo kể từ đó.

Năm 1941, có một đôi vợ chồng nhập cư người Đức, Joe và Mary Zerngast, sống cách nhà Pichler một vài ngôi nhà.

Joe làm 'người khai hỏa' tại mỏ, tức là ông sẽ đi sâu vào trong mỏ, châm thuốc nổ và chạy ra ngoài trước khi nó phát nổ. Đó là một trong những công việc nguy hiểm nhất ở mỏ than, và sau 20 năm, 'lá phổi đen' (bệnh phổi của công nhân than) đã cắt ngắn sự nghiệp của ông, để Mary phải làm việc lo cho gia đình.

Đã 68 năm trôi qua kể từ khi Annie Pichler lần đầu tiên vặn cổ gà, quán Chicken Annie's vẫn là một địa chỉ tên tuổi ở Kansas. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

Nhà Zerngast cũng nuôi những con gà cục tác trong sân nhà, một cái chảo gang lớn và một cái lò than. Và cũng giống như Annie, Mary cũng rất giỏi nấu ăn. Vì vậy, cũng như nhà Pichler đã làm, nhà Zerngast dọn dẹp đồ đạc trong phòng khách nhỏ của họ, đặt bàn và bắt đầu bán gà rán với salad khoai tây và bắp cải.

"Tôi cần phải sống sót," Larry Zerngast, cháu trai của Mary, nhớ lại lời bà Mary nói với gia đình.

Lúc đầu, nhà Zerngast gọi tiệm ăn nhỏ của họ là 'Joe and Mary's'. Họ có một chiếc hộp nhạc trong phòng khách và, cũng giống như ở nhà bà Annie, mọi người thường khiêu vũ cho đến sáng sớm. Nếu dân địa phương đang say xỉn đến lúc nửa đêm muốn ăn gà rán, họ thường sẽ đập cửa và hét lên: "Gà, Mary! Gà, Mary!" (Chicken, Mary!). Bà Mary sẽ ra mở cửa, nhóm than và rán gà cho đến khi trời sáng - do đó, cái tên 'Chicken Mary's' đã ra đời từ đó.

Ăn nên làm ra

Ngay sau khi quán Chicken Annie ra mắt thì Mary Zerngast cũng bắt đầu bán món gà rán, tạo nên sự cạnh tranh vẫn còn âm ỉ cho đến tận bây giờ. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

Những ngôi nhà nhỏ của nhà Pichler và nhà Zerngast chẳng mấy chốc đã tấp nập thực khách ăn tối và khiêu vũ đến nỗi gia đình các bà đã phải dời đi để họ có thể dành toàn bộ ngôi nhà chỉ để làm nhà hàng mà thôi.

Lời đồn tiếp tục lan truyền về món gà rán ngon nhỏ dãi của hai nhà này sau Đệ nhị Thế chiến, và những tín đồ gà rán sẽ lái xe hàng giờ băng qua Kansas để ăn tối tại tiệm của Annie hoặc Mary - hoặc đôi khi, cả hai.

Khi ngày càng có nhiều người đổ dồn đến tiệm của họ trong những năm 1960 và 70, hai bà đã phá sập ngôi nhà ban đầu của họ để mở rộng một lần nữa, xây dựng những nhà hàng hiện đại với nhà bếp chuyên nghiệp, có thể phục vụ khoảng 300 thay vì chỉ 30 thực khách.

"Bà ấy luôn nở nụ cười và sẽ chào đón khách hàng bằng tên của họ," bà Donna Lipoglav, cháu gái của Annie, nói. Bà nhớ lại rằng các nữ phục vụ ở tiệm của Annie luôn mặc váy trắng và tạp dề gọn gàng. "Bà tôi rất ngọt ngào và dịu dàng, và không, tôi không cho rằng bà sẽ hài lòng đồng ý cho tôi mặc chiếc áo ấm tôi đang mặc thế này đâu."

Mặc dù có công thức và món ăn kèm gần như y hệt nhau, nhưng Chicken Annie's và Chicken Mary's đã nhanh chóng nảy sinh sự cạnh tranh thân thiện, và người dân trong cộng đồng gắn kết chặt chẽ này phải chọn đứng về bên nào và cẩn thận với việc nhỡ có ai nhìn thấy họ bước vào nhà hàng nào.

Ngày nay, Donna Lipoglav dùng công thức chế biến món gà rán giống hệt như cách mà bà của bà đã làm tại quán Chicken Annie's Original. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

Những ký ức đầu tiên của Lipoglav là thời gian làm việc với bà mình, dọn bàn và phục vụ. Thỉnh thoảng, Annie sẽ kêu cháu gái đạp xe xuống tiệm Chicken Mary's để đếm xem trong bãi đỗ của họ có bao nhiêu xe. "Tôi nghĩ bà tôi cảnh giác trước những gì đang diễn ra," Lipoglav nói. "Bãi đỗ xe của chúng tôi lúc nào cũng ken đặc như ở chỗ quán Mary's."

Vào năm 1982, nhà Pichler đã cố gắng đổi tên cho con phố nhỏ chạy trước mặt cả hai tiệm là 'Đường Chicken Annie's'. Khi nhà Zerngast phản đối, vụ việc đã chiếm dòng tít báo trên toàn quốc với một bài viết bỡn cợt trên tờ The New Yorker có nhan đề 'Cuộc chiến gà rán'.

"Ông tôi Joe luôn nói: 'Đừng quay lưng lại với những người bên nhà Pichler, con không thể tin họ được đâu!'," Donna Zerngast, cháu gái của Mary, cười nói.

Khó biết ai hơn ai

Ngày nay, các gia tộc bán gà rán đầu tiên ở Pittsburg vẫn còn gắn bó với công việc này: Lipoglav đang điều hành Gà Chicken Annie's Chính hiệu, Larry Zerngast điều hành Chicken Mary's và Anthony Pichler điều hành Pichler's Chicken Annie's cùng với một đồng sở hữu thể không ngờ: Donna Zerngast, người hẳn là đã phớt lờ lời khuyên của ông nội Joe và kết hôn với một người thuộc nhà Pichler trong 54 năm qua.

Donna Zerngast đã phớt lờ lời khuyên của ông nội Joe và kết hôn với một người thuộc nhà Pichler trong 54 năm qua. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

Ngoài quy mô của các tòa nhà và việc họ không còn tự tay bẻ cổ gà nữa, cả ba chuỗi nhà hàng vẫn làm mọi thứ y như cách mà Annie và Mary đã làm trong thời thập niên 1930-40.

Mỗi tiệm vẫn nhào bột để chế biến gà, sau đó bọc gà trong lớp bột và muối chỉ vài phút trước khi chiên trong mỡ lợn. Chicken Mary's bỏ trứng và sữa trong bột nhào; trong khi Chicken Annie's Chính hiệu và Pichler's Chicken Annie's chỉ sử dụng trứng.

Đối với một người đến từ miền Trung Tây, gà rán ở cả hai tiệm Annie's và Mary's đều có lớp vỏ giòn, nhẹ và bên trong mềm, ngon. Nhưng người dân Pittsburgh biết sự khác biệt.

"Bạn có thể đặt đĩa gà rán của chúng tôi bên cạnh đĩa gà rán của họ và dân địa phương sẽ biết đĩa nào là của ai," Lana Brooks, vốn đã làm việc ở tiệm Chicken Mary's được 51 năm và cho rằng cả hai nhà đều sử dụng cùng một loại gia vị, chỉ là với liều lượng khác nhau.

"Tôi nghĩ rằng chìa khóa thành công ở cả hai nhà hàng là chúng tôi vẫn làm mọi thứ y hệt như cách mà Mary và Annie đã làm. Đó là một phần làm nên sự cuốn hút đối với các gia đình đã đến đây cả đời. Đó thuộc về di sản của cộng đồng chúng tôi."

Đã 79 năm kể từ khi mở cửa bán hàng lần đầu tiên, nhà hàng Chicken Mary's nay do Larry Zerngast và vợ điều hành, với món ăn nấu theo công thức của bà nội ông trước đây. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

Qua nhiều năm, Chicken Annie's và Chicken Mary's đã truyền cảm hứng cho ít nhất là chín tiệm gà rán gia truyền khác ở Hạt Crawford.

"Chúng tôi có những khách hàng rất trung thành, nhưng mỗi tuần, chúng tôi vẫn có những khách hàng đến từ khắp mọi miền đất nước bởi vì họ đã nghe nói về chúng tôi và gà rán ở nơi này của Kansas," Missy Pichler, thuộc thế hệ thứ tư của gia tộc Pichler vốn làm việc tại tiệm Chicken Annie's Chính hiệu và có cô con gái đang tuổi thiếu nữ cũng đang phục vụ bàn ở đó, cho biết.

Khách hàng trung thành

Cứ sau vài tháng, Steve và Melissa Pulis và các con trai họ lái xe khoảng hai giờ từ Springfield, Missouri, tới Pittsburg và đến ăn tại tiệm Chicken Mary's lần này thì lần sau sẽ đến ăn tại tiệm Chicken Annie's.

"Tôi thích gà của tiệm Annie's nhất, nhưng Steve lại thích gà của tiệm Mary's nhất," Melissa nói. "Nhưng đối với món rau trộn thì ngược lại. Tôi thực sự thích cách tiệm Mary's cho thêm tỏi vào. Nhưng Steve không chịu."

Ngày nay, cả ba nhà hàng đều tẩm bột và rán gà bằng mỡ lợn, giống như ngày trước Annie và Mary từng làm. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

Và đó là cách mọi việc diễn ra ở Hạt Crawford. Các gia đình ở đây bị chia phe trong cuộc tranh cãi về gà rán và các món ăn kèm.

Al Eshelbrenner lớn lên ở phía bắc Pittsburg và đã ăn gà rán trong gần 60 năm qua. Mặc dù thừa nhận rằng tiệm Chicken Mary's làm ngon, nhưng ông một mực cho rằng sự khác biệt nằm ở cách nêm nếm.

Ngày nay, ông vẫn duy trì lòng trung thành của bố mẹ và dẫn các cháu của mình đến tiệm Chicken Annie's. "Những người trong nhà sẽ đưa chúng tôi đến tiệm Chicken Annie's vào mỗi Chủ Nhật và tôi đã lớn lên như thế," Eshelbrenner nói.

"Mọi người không thực sự tranh luận về vấn đề này ở đây bởi vì chúng tôi tôn trọng rằng mọi người đều có sở thích, truyền thống gia đình của riêng họ."

Thật ra, nhà Eshelbrenner gắn bó với tiệm Chicken Annie's đến nỗi họ đặt nhà hàng nấu tiệc cho các buổi họp mặt Giáng Sinh gia đình của họ.

Ngày nay, Kansas vẫn còn bị chia rẽ về việc gà của Chicken Annie's hay của Chicken Mary's ngon hơn. Nguồn hình ảnh,Bruce N Meyer

"Tôi nghĩ salad khoai tây và bắp cải trộn là những món mà tôi thèm nhất," Kristian Walker, người sinh ra và lớn lên ở Pittsburg nhưng hiện đang sống ở Harrisburg, Pennsylvania, nói. Mặc dù không còn gia đình sống ở khu vực này nữa, nhưng ông từng lái xe năm tiếng đồng hồ khỏi chỗ của mình chỉ để có thể ăn gà rán cho bữa tối ở Pittsburg.

"Tôi đã gặp những người từ khắp mọi nơi trên đất nước. Ngay khi họ biết tôi đến từ Pittsburg, họ bắt đầu hỏi tôi về món gà rán tôi ưa thích nhất và kể về những lần họ có cơ hội được ăn," ông nói.

"Có thể chúng tôi không nổi tiếng thế giới, nhưng chắc chắn có rất nhiều người trên khắp thế giới biết về món gà rán của Hạt Crawford, Bang Kansas."

Diana Lambdin Meyer / BBC Travel
Theo: BBC Tiếng Việt (24/05/2020)
Link tiếng Anh:



BIÊN NIÊN SỬ BỎ TÚI VỀ XUNG ĐỘT ISRAEL-PALESTINE: TỪ GÓC NHÌN CÔNG PHÁP QUỐC TẾ

Lịch sử xung đột giữa người Israel và người Palestine có lẽ là một câu chuyện có nhiều góc nhìn phân cực còn hơn cả chiến tranh Việt Nam, theo nhận định riêng của người viết. Cách một người hiểu về xung đột này hoàn toàn lệ thuộc vào việc người đó có cảm tình với người Do Thái hay với thế giới Arab.

Bản đồ khu vực Israel – Palestine hiện nay. Ảnh: sbs.com.au.

Tranh chấp Israel – Palestine được xem là cuộc tranh chấp điển hình nhất, nhưng dai dẳng nhất liên quan đến chủ quyền quốc gia, biên giới, xung đột vũ trang và phi thực dân hóa… trong quan hệ quốc tế. Trong bài viết này, người viết hy vọng cung cấp được một lượng thông tin vừa phải, được trung tính hóa qua lăng kính pháp luật quốc tế, nhằm góp phần giúp các cuộc thảo luận tại Việt Nam về chủ đề này mang tính xây dựng hơn.

Người viết nhận thức được rằng các yếu tố đồng minh và địa chính trị, như việc Israel là bạn “vào sinh ra tử” của Hoa Kỳ tại Trung Đông, và việc Palestine là anh em “giọt máu đào” của cả Liên Hiệp Arab (Arab League) lẫn Tổ chức Hợp tác Hồi giáo (Islamic Cooperation Organization – ICO) hùng mạnh là lý do quan trọng khiến cho xung đột giữa hai thực thể kéo dài đến tận ngày nay.

Tuy nhiên, chỉ biết cúi đầu chấp nhận trước tư duy “cá lớn nuốt cá bé” chưa bao giờ là cách mà lịch sử, pháp luật và sự tiến bộ của nhân loại chuyển động, tiến hóa. Có hiểu biết và có nhìn nhận sâu sắc về sự kiện này thông qua lăng kính pháp lý mới có thể giúp người Việt Nam nhìn nhận nghiêm túc hơn về công lý quốc tế và một trật tự pháp lý quốc tế bình đẳng.

1. Israel và Palestine có danh nghĩa gì trong pháp luật quốc tế?

Có thể sẽ có học giả mang hai học thuyết là thuyết cấu thành (constitutive theory) và thuyết tuyên bố (declaratory theory) để bàn về tính chính danh và sự tồn tại của một quốc gia.

Thuyết cấu thành cho rằng một thực thể chính trị chỉ có thể được xem là một quốc gia nếu nó được các quốc gia khác công nhận. Tuy nhiên, thuyết này đã quá lỗi thời và thậm chí có tính phản động, vì nó từng tạo ra sân chơi độc quyền giữa các quốc gia tự nhận mình là văn minh. Họ thường xem các quốc gia khác là chưa đủ phát triển để có thể tự quyết định vận mệnh của mình, từ đó tạo nên nền tảng của chủ nghĩa thực dân.

Thuyết tuyên bố lại cho rằng một thực thể chính trị đương nhiên phải được công nhận là một quốc gia nếu nó đã đạt đủ các quy chuẩn khách quan theo pháp luật quốc tế. Đây là học thuyết đã và đang được đại đa số học giả quốc tế ủng hộ.

Vậy tiêu chuẩn khách quan đó là gì?

Có bốn yếu tố cơ bản để đánh giá một thực thể chính trị đã đến ngưỡng quốc gia (state) trong pháp luật quốc tế hay chưa, xuất phát từ Công ước Montevideo (được ký kết và có hiệu lực từ năm 1933 giữa một số quốc gia châu Mỹ). Ngày nay, bốn nguyên tắc Montevideo đã được xem là tập quán pháp quốc tế và được thừa nhận rộng rãi.

Bốn nguyên tắc này bao gồm:
  1. Có dân cư xác định;

  2. Có lãnh thổ xác định;

  3. Có chính quyền đại diện, quản lý;

  4. Có khả năng tham gia và bảo đảm các nghĩa vụ quốc tế.

Như vậy, trong trường hợp của Israel, nó đương nhiên được xem là một quốc gia theo pháp luật quốc tế mà không còn gì để bàn cãi. Tuy nhiên, nếu buộc phải nói thêm về sự thừa nhận quốc tế, có thể ghi nhận thêm rằng Israel là thành viên của Liên Hiệp Quốc từ năm 1949 và được hầu hết các quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc công nhận.

Hiển nhiên, vẫn có trên dưới 30 quốc gia Arab và Hồi giáo, điển hình như Iran, không công nhận sự tồn tại của Israel. Họ công khai cho rằng quét sạch Israel và người Do Thái ra khỏi bản đồ thế giới là nghĩa vụ tôn giáo của mình.

Riêng về Palestine, câu chuyện có hơi phức tạp hơn.

Nếu xét về mặt quốc tế, cũng đã có hơn 100 quốc gia thừa nhận sự tồn tại của quốc gia Palestine. Họ cũng có danh nghĩa quan sát viên thường trực tại Liên Hiệp Quốc từ năm 2012 (Permanent Observer of the State of Palestine to the United Nations). Dù chưa phải là thành viên chính thức, như chúng ta đã nói ở trên, đây không phải là vấn đề để cân nhắc liệu Palestine có phải là một quốc gia hay không.

Vấn đề ở chỗ khó có thể xem Palestine có một chính phủ hiệu quả và có năng lực tham gia vào các mối quan hệ quốc tế.

Nói ngắn gọn, Tổ chức Giải phóng Palestine (Palestine Liberation Organization – PLO) và Chính quyền Palestine (Palestinian Authority – PA) hiện nay là hai tổ chức được xem có chức năng đại diện quốc tế cho một dân tộc Palestine thống nhất (với PLO đóng vai trò trung tâm).

Song bên trong PLO lại là nhiều đảng phái chính trị có vũ trang khác nhau, với hai thế lực lớn nhất là Hamas và Fatah.

Fatah là một nhóm chính trị tương đối ôn hòa mong muốn theo đuổi hòa bình cho Palestine bằng con đường ngoại giao và pháp luật quốc tế. Hamas, ngược lại, hoạt động giống với tư cách một tổ chức cực đoan thường xuyên thực hiện các vụ khủng bố nhắm vào dân thường Israel. Họ tin rằng bạo lực vũ trang là con đường duy nhất.

Từ thập niên 1990, trong giai đoạn Fatah nắm đa số trong PLO và đang thực hiện các nỗ lực hòa giải với Israel và nhiều nghĩa vụ quốc tế khác, Hamas đã phá hoại các nỗ lực này bằng các cuộc khủng bố.

Cho đến giai đoạn 2019 – 2020, Hamas dần phủ nhận tính chính danh của PLO và tự hành động một mình.

Thậm chí, từ năm 2005, nhiều chuyên gia cho rằng quốc gia Palestine từ khi chưa thành hình đã ở trong tình trạng nội chiến.

Vì những lý do này, rất khó xem Palestine đã có đầy đủ các tiêu chuẩn để được công nhận là một quốc gia theo đúng pháp luật quốc tế.

Điều này không nhằm phủ nhận nhu cầu độc lập của người Palestine. Tuy nhiên, việc chỉ ra nó có ý nghĩa quan trọng trong việc xác định các nghĩa vụ quốc tế mà chúng ta sẽ phân tích ở phần sau.

2. Có một thực thể chính trị và dân tộc Palestine xuyên suốt trong lịch sử hay không?

Trước tiên cần phải nói rõ ràng là việc một vùng đất mang tên Palestine không đồng nghĩa với việc “người Palestine” đương nhiên là chủ nhân của nó. Câu chuyện không kết thúc đơn giản ở đó.

Từ Palestine hiện đại là một phiên bản của từ “Philistia” trong tiếng Hy Lạp, chỉ vùng đất nhỏ ở Trung Đông do người Philistines sinh sống và cai quản. Người Philistines đúng gốc theo tên gọi thì lại là một chủng người gốc Aegean và không có liên hệ máu mủ gì với người Palestine đương đại ngày nay.

Đến thế kỷ thứ hai sau Công nguyên, người La Mã đặt tên chung cho vùng đất này là Syria Palaestina, một đơn vị hành chính nhỏ thuộc tỉnh Syria trong đế chế khổng lồ của mình.

Sau một khoảng thời gian dài thuộc về Đế chế Ottoman (mà Thổ Nhĩ Kỳ ngày nay là thực thể kế thừa), dân cư của Palestine bị Arab hóa (Arab-ise). Bản thân người Palestine cũng xem mình là người gốc Arab nói chung, và chỉ sinh sống ở Palestine mà thôi.

Như vậy, cho đến tận những năm 1948, danh từ riêng Palestine thường được dùng để chỉ vùng địa lý nằm giữa biển Địa Trung Hải và sông Jordan. Nhóm dân cư Arab sinh sống tại đây chỉ được nhắc đến như là “Palestinian” cũng vào cùng thời điểm mà chủ nghĩa dân tộc cực đoan Do Thái (Zionism) phát triển mạnh mẽ.

Nếu nhìn vào tiến trình lịch sử, có thể nói chủ nghĩa dân tộc của người Palestine được xây dựng như là một đối trọng với sự trở về đông đảo (và có tính vũ lực, cưỡng chế) của người Do Thái trên vùng đất thánh của cả Hồi giáo, Công giáo lẫn Do Thái giáo này.

3. Lược sử lãnh thổ Palestine nhìn từ góc độ công pháp quốc tế

Sau khi đã xác định được rằng Palestine suốt trong lịch sử chỉ là tên gọi cho một vùng địa lý mà không phải một dân tộc cụ thể, chúng ta có thể loại bỏ định kiến cho rằng vùng đất này đương nhiên thuộc về ai và ai là kẻ xâm lược.

Về quá trình phát triển và tranh chấp tại Palestine, đó là thứ lộn xộn nhất mà một sinh viên công pháp quốc tế buộc phải tìm hiểu trong chặng đường học tập của mình. Do đó, người viết xin được phép tóm gọn quá trình bằng các gạch đầu dòng để bạn đọc có thể dễ theo dõi và hình dung.
  • Trước Đệ nhất Thế chiến (1914 – 1918), Palestine là một vùng đất thuộc Đế chế Ottoman. Như đã nói, không tồn tại dân tộc Palestine và cũng không có chủ nghĩa dân tộc Palestine tại đây.

  • Sau Đệ nhất Thế chiến, với tư cách là một quốc gia thua trận, cộng với những vấn đề nội địa, Đế chế Ottoman chính thức tan rã và nhiều vùng đất thuộc địa của nó trước đó được đặt dưới mô hình lãnh thổ ủy trị của Hội Quốc Liên (League of Nations Mandate territories). Vương quốc Anh được giao quản lý Palestine theo sự ủy quyền của Hội Quốc Liên.

  • Sau Đệ nhị Thế chiến (1939 – 1945), không còn đủ sức kiểm soát các phong trào vũ trang và các lãnh chúa quân sự tại đây, Vương quốc Anh đưa tình huống Palestine lên Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc (UNGA) để cộng đồng quốc tế xem xét.

  • Nghị quyết UNGA 181, phê chuẩn Partition Plan, được ban hành vào năm 1947 với dự định lập ra cả hai nhà nước Do Thái và nhà nước Arab. Thánh địa Jerusalem nằm bên trong phần lãnh thổ của nhà nước Arab, nhưng có chế độ chính trị đặc biệt corpus separatum, không thuộc chủ quyền của cả hai nhà nước.


  • Lãnh thổ màu xanh thuộc người Do Thái và lãnh thổ màu cam thuộc người Arab. Ảnh: Britannia.Năm 1948, dựa trên Partition Plan, Israel tuyên bố thành lập nhà nước độc lập của người Do Thái và được cả hai “ông lớn” Hoa Kỳ và Liên Xô cùng công nhận (một điều không quá lạ lùng nếu bạn đọc qua Kinh Thánh Công giáo). Tuy nhiên, tuyên bố này cũng dẫn đến xung đột giữa cộng đồng Do Thái và người Arab ở đây.

  • Cuộc chiến Israel – Arab 1948 bùng nổ. Các quốc gia Arab láng giềng như Ai Cập, Transjordan (Jordan ngày nay) và Syria đổ quân vào can thiệp và hỗ trợ dân cư Arab tại vùng này. Song họ không được Liên Hiệp Quốc ủy quyền.Tuy nhiên, Israel thân cô thế cô lại chiến thắng cuộc chiến tưởng chừng không cân sức này. Họ giành quyền kiểm soát không chỉ vùng lãnh thổ của nhà nước Do Thái được ghi nhận trong Partition Plan, mà còn hơn 60% vùng lãnh thổ được ghi nhận dành cho nhà nước Arab, bao gồm cả phía Tây Jerusalem.

    Nhưng đáng nói hơn cả, đường phân định này được các quốc gia Hồi giáo lớn mạnh nhất trong khu vực như Ai Cập, Jordan, Lebanon và Syria đồng ý với Israel bằng nhóm Hòa ước Armistice.

Tình hình lãnh thổ hai nhà nước sau cuộc chiến năm 1948 với sự góp mặt của Ai Cập và Jordan. Lưu ý, khái niệm dân tộc Palestine vẫn chưa hình thành ngay cả ở thời điểm này.

  • Năm 1964, Liên hiệp Arab chính thức được thành lập và hỗ trợ tài chính cho hoạt động của cái gọi là Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO). Đây là giai đoạn quan hệ đối ngoại giữa Israel và liên minh thế giới Arab ngày càng xấu đi. Chủ nghĩa dân tộc Palestine chính thức thành hình bằng ngoại lực.

  • Cuộc chiến 6 ngày 1967 bùng nổ.
    Trong bối cảnh các quốc gia Hồi giáo gần biên giới chuẩn bị vũ trang và huy động quân đội ráo riết sẵn sàng cho một cuộc chiến chống mình, Israel “tiên hạ thủ vi cường”, tấn công trước cả ba quân đội Ai Cập, Syria và Jordan. Hiển nhiên, cái gọi là tự vệ chủ động này hoàn toàn vi phạm pháp luật quốc tế.

  • Israel, một lần nữa, chiến thắng cuộc chiến đáng lẽ họ phải thua. Qua đó, họ chiếm toàn bộ vùng Sinai (có kênh đào Suez cực kỳ quan trọng của Ai Cập), chiếm toàn bộ khu vực Gaza và West Bank (Bờ Tây) thuộc phần lãnh thổ còn lại của nhà nước Arab theo Partition Plan, và chiếm cả vùng Golan Heights (Cao nguyên Golan) của Syria. 

  • Cùng năm 1967, Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc đồng thuận tuyệt đối và ban hành Nghị quyết 242, yêu cầu Israel rút khỏi West Bank, Gaza, Sinai và Golan Heights.

  • Năm 1982, Israel trao trả Sinai cho Ai Cập.

  • Tình hình lãnh thổ này kéo dài cho đến ngày nay mà không có biến chuyển nào đáng kể. Israel tiếp tục là bên có khả năng kiểm soát thực tế ba vùng Gaza, West Bank và Golan Heights.

4. Như vậy, thế nào là “nguyên trạng” của Palestine? Ai đang cai quản vùng nào?

Cho đến hiện nay, khi các quốc gia và tổ chức quốc tế yêu cầu Israel rút quân và ngừng chiếm đóng vùng đất của người dân Palestine, họ đang mong muốn chuyển về hiện trạng trước năm 1967, tức bản đồ dưới đây.

Với cách tiếp cận này, cộng đồng quốc tế phần nào công nhận các phiên bản của Hòa ước Armistice giữa Israel và nhiều nước láng giềng. Lãnh thổ Israel nhờ đó mà được mở rộng hơn nhiều lần so với Partition Plan trước đây (vốn đã khó có thể trở thành hiện thực chính trị).

Tuy nhiên, Israel vẫn có trách nhiệm rút quân hoàn toàn khỏi Gaza và West Bank, mà quan trọng hơn cả là Đông Jerusalem để trao trả đất cho người Palestine. Họ cũng cần rút khỏi Golan Heights để trao trả lãnh thổ cho Syria.

Cần ghi nhận rằng Israel có một số nhượng bộ dân sự và lãnh thổ cho PLO trong suốt giai đoạn xung đột.

Ví dụ với Hiệp định Oslo (Oslo Accord) vào năm 1993, Israel rút quân của mình khỏi một phần West Bank và Gaza (nhưng không xác định cụ thể vị trí với công chúng) để PLO có thể thành lập chính quyền và các cơ quan dân sự tự trị dành cho người Palestine.

Hay vào năm 2005, Israel chính thức rút quân khỏi toàn bộ Gaza, đồng thời với việc xóa bỏ các khu định cư Do Thái tại đây. Kế hoạch này thường được biết đến với tên gọi “Gaza disengagement”. Hiện nay, tổ chức Hamas là thế lực Palestine nắm giữ và quản lý trực tiếp tại Gaza.

Khúc mắc ở chỗ, quân đội Israel vẫn đang tiếp tục quản lý bầu trời và vùng biển Gaza. Họ cũng có khả năng triển khai quân sự triệt để và toàn diện lên vùng đất này vào bất kỳ lúc nào.

Trong khi đó, tại West Bank, Israel vẫn đang tiếp tục mở rộng chiến lược định cư vĩnh viễn của các khu dân cư Do Thái, dù tại đây đã có sự hiện diện của một chính phủ tự trị do người Palestine làm chủ.

Trong giai đoạn Donald Trump nắm quyền ở Hoa Kỳ, ông này cũng chính thức công nhận Golan Heights và Đông Jerusalem thuộc chủ quyền của Israel, khiến cộng đồng quốc tế vô cùng lo ngại. Bản thân chính quyền Joe Biden hiện nay cũng né tránh việc phủ nhận hoàn toàn hệ quả chính sách ngoại giao từ thời Trump.

5. Việc Israel chiếm đóng và mở rộng định cư có phù hợp với pháp luật quốc tế hay không?

Chắc chắn là có vi phạm tại ba điểm nóng Gaza, West Bank và Golan Heights.

Điều này đã được khẳng định rõ trong Nghị quyết 242 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc, vốn có giá trị pháp lý bắt buộc theo pháp luật quốc tế. Nghị quyết yêu cầu rõ Israel rút quân hoàn toàn khỏi các vùng lãnh thổ đang bị chiếm đóng sau xung đột (1967), từ đó khẳng định việc thôn tính lãnh thổ thông qua xung đột vũ trang là vi phạm các nguyên tắc cơ bản của pháp luật quốc tế.

Ngoài ra, hàng loạt các nghị quyết khác của Đại Hội Đồng Liên Hiệp Quốc trải dài nhiều thập niên tiếp tục lên án việc mở rộng các khu tái định cư Do Thái tại West Bank và Golan Heights.

Cuối cùng, không thể không kể đến Quan điểm tham vấn của Tòa án Công lý Quốc tế trong văn bản “Legal Consequences of the Construction of a Wall”, phủ nhận hoàn toàn tính pháp lý quốc tế của việc xây dựng các bức tường cắt sâu vào lãnh thổ West Bank.

6. Pháp luật quốc tế nào điều chỉnh xung đột vũ trang giữa Israel và người Palestine?

Có hai loại xung đột vũ trang được pháp luật quốc tế thừa nhận và điều chỉnh.

Một là xung đột vũ trang quốc tế, hay International Armed Conflict (IAC).

Đây là loại xung đột vũ trang diễn ra giữa hai chủ thể có tư cách quốc gia, với hệ thống pháp luật điều chỉnh xung đột đã được xây dựng và hoàn thiện từ một, hai thế kỷ nay. Cơ chế bảo vệ thường dân và các nguyên tắc nhân đạo cũng rõ ràng, mạnh mẽ hơn.

Chúng ta có thể nghĩ đến Bốn Công ước Geneva về tù binh, hàng binh, về thường dân/ người tham chiến hay các nạn nhân chiến tranh nói chung, cũng như nhóm Công ước Hague về luật chiến tranh, v.v. Đây là các văn kiện tạo thành một hệ thống đồ sộ và có tính thẩm quyền tối cao trong việc điều chỉnh hoạt động chiến tranh.

Liên hệ với chiến tranh Việt Nam cho gần gũi, xung đột diễn ra giữa quân đội Bắc Việt và Nam Việt, giữa Bắc Việt và Hoa Kỳ là IAC.

Loại xung đột thứ hai là xung đột vũ trang phi quốc tế (song không nhất thiết phải là quốc nội), hay Non-international Armed Conflict (N-IAC).

Đây là xung đột vũ trang diễn ra giữa quốc gia với một lực lượng vũ trang phi nhà nước, hoặc giữa hai lực lượng vũ trang nhà nước với nhau. Hệ quả nhân đạo và cường độ bạo lực của nó không hề kém so với loại xung đột thứ nhất. Tuy nhiên, hệ thống pháp luật điều chỉnh N-IAC lại tương đối yếu, với nội dung chủ yếu nằm trong Nghị định thư bổ sung thứ Hai dành cho Công ước Geneva (Additional Protocol II).

Tiếp tục viện dẫn đến chiến tranh Việt Nam, xung đột giữa chính quyền Nam Việt Nam và Hoa Kỳ với Mặt trận Dân tộc Giải phóng Miền Nam Việt Nam (thường được gọi là Việt Cộng) là điển hình của xung đột vũ trang phi quốc tế.

Trong tình huống giữa Israel và Palestine, do vẫn không thể xác định được chính quyền và nhà nước thống nhất đại diện cho dân tộc Palestine, như chúng ta đã nói ở trên, nhiều học giả thiên về việc xác định xung đột vũ trang giữa Palestine và Israel là xung đột vũ trang phi quốc tế.

Điều này dẫn đến nhiều hệ lụy khác nhau.

Ví dụ, nếu áp dụng IAC, quân nhân tham chiến không thể bị truy tố hay trừng phạt chỉ vì họ tham gia vào hoạt động vũ trang. Tuy nhiên, nếu áp dụng N-IAC, những người tham chiến hoàn toàn có thể phải hầu tòa hình sự vì hành vi chiến đấu của mình.

Trong ngữ cảnh khác, nếu xác định xung đột là N-IAC, thẩm quyền của các cơ quan tài phán hình sự quốc tế sẽ không thể được áp dụng.

Một số học giả đưa ra đề xuất “nước đôi”, tức xem xung đột vừa là quốc tế vừa là phi quốc tế.

Họ dẫn chứng rằng vì Hamas đã nắm giữ Gaza và quân đội Israel đã đồng ý rút hoàn toàn khỏi đây, Hamas có thể đại diện người dân Palestine tham gia vào IAC với Israel.

Riêng ở West Bank, với lực lượng chiếm đóng Israel vẫn kiểm soát hoàn toàn khu vực và tiếp tục vai trò quản lý hành chính của mình, xung đột nếu có giữa Israel và các nhóm dân cư ở West Bank nên được xem là N-IAC.

7. Trong quá trình xung đột vũ trang này, ai đang vi phạm pháp luật quốc tế?

Đáng tiếc là cả hai.

Về phía Israel, việc duy trì chiếm đóng và phân biệt đối xử về mặt pháp lý, cưỡng chế tài sản, đất đai của người Palestine để phục vụ cho các khu tái định cư Do Thái vi phạm nghiêm trọng Công ước Geneva thứ Tư về quyền của thường dân mà thế lực chiếm đóng trên lãnh thổ chiếm đóng phải tuân thủ.

Về phía Palestine, PLO và các chính đảng quân sự của mình tiếp tục thất bại trong việc kiểm soát các hoạt động khủng bố nhắm vào thường dân Israel. Đã xuất hiện các cáo buộc về việc sử dụng thường dân làm bia đỡ đạn (human shield), không tuân thủ nguyên tắc phân biệt giữa thường dân/ người tham chiến, tấn công vũ trang không phân biệt (indiscriminate armed attack), bắt cóc và ám sát quân dân lẫn thường dân quốc tịch Israel, v.v. Thực tế cho thấy, bộ máy công tố của Tòa án Hình sự Quốc tế (International Criminal Court – ICC) đang có những động thái điều tra và khởi tố các cáo buộc liên quan đến tội ác chiến tranh (war crimes) mà cả hai bên thực hiện.

Nguyễn Quốc Tấn Trung
Theo: luatkhoa.com

Tuesday, September 2, 2025

THÀNH PHỐ THẨM DƯƠNG TRUNG QUỐC CÓ GÌ?

Thành phố Thẩm Dương nằm ở vùng Đông Bắc, là thủ phủ của tỉnh Liêu Ninh. Không chỉ có sự thay đổi rõ rệt về mặt kinh tế, những năm gần đây, du lịch cũng đã thu hút được rất nhiều lượt khách. Cùng du học VIMISS tìm hiểu về thành phố Thẩm Dương nhé!


1. Khái quát về thành phố

Tổng giá trị sản xuất: 769,58 tỷ nhân dân tệ.
Diện tích khu vực: 12.900 km2.
Dân số thường trú: 9,147 triệu người.
Tuyến Metro: Tuyến số 4.

Thẩm Dương, thủ phủ của tỉnh Liêu Ninh, là một trong những thành phố đông dân nhất ở Đông Bắc Trung Quốc.

Sau chiến tranh nhà Minh và nhà Thanh, Thẩm Dương được coi là thủ đô của nhà Thanh. Thời Trung Hoa Dân Quốc , quy mô xây dựng đô thị của Thẩm Dương được xếp hạng hàng đầu châu Á và phát triển thành một trung tâm công nghiệp nặng quan trọng ở Trung Quốc vào thời điểm đó. Sau năm 1949, Thẩm Dương chuyển đổi thành một cơ sở công nghiệp quan trọng và trung tâm giao thông toàn diện trong nước.


Thẩm Dương nằm ở rìa phía nam của đồng bằng Liêu Hà , nối với Bán đảo Liêu Đông ở phía nam và nằm trong Vòng tròn Kinh tế Bột Hải. Đây là một trung tâm quan trọng kết nối khu vực Bột Hải với Bán đảo Triều Tiên và cũng là trung tâm chính trị, trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, giao thông, văn hóa và thương mại của khu vực Đông Bắc.

Thẩm Dương có lịch sử hơn 2.300 năm là nơi ra đời và thịnh vượng của văn hóa Mãn Châu và là thành phố văn hóa lịch sử quốc gia đầu tiên ở Đông Bắc Trung Quốc. Nhiều phong tục dân gian và nghệ thuật dân gian mang văn hóa Mãn Châu đã được phản ánh trong lịch sử. Trong các lễ hội, Thẩm Dương có truyền thống tổ chức lễ hội đèn lồng và hội chợ chù. Mùa đông ở miền bắc Trung Quốc, có truyền thống đi lễ hội đèn lồng và xem đèn lồng. Sau chiến tranh Minh-Thanh, Thẩm Dương làm thủ đô và đồng tổ chức lễ hội đèn lồng với Bắc Kinh. Vào cuối thời nhà Thanh, văn hóa đèn lồng của Thẩm Dương đạt đến đỉnh cao.

2. Những địa điểm du lịch nổi tiếng

Công viên Bắc Lăng


Là công viên lớn nhất ở thành phố Thẩm Dương. Ở giữa công viên là lăng mộ của Hoàng Thái Cực, vị vua sáng lập thứ hai của nhà Thanh và Hoàng hậu Tiêu Duẫn Văn.

Không giống như các lăng mộ hoàng gia khác, Bắc Lăng được xây dựng trực tiếp trên nền đất bằng phẳng và có tường bao quanh, giống như một thành phố nhỏ.

Toàn bộ lăng mộ được chia thành ba phần. Tòa nhà chính là cổng vòm ở phía trước và thành phố hình vuông ở phía sau. Có một đỉnh quý giá mà từ đó bạn có thể leo lên đỉnh và có tầm nhìn toàn cảnh ra toàn bộ Bắc Lăng.

Có các buổi biểu diễn văn hóa dân gian nhà Thanh và biểu diễn hiến tế trong các lễ hội và năm hàng năm, đây là cơ hội tuyệt vời để tìm hiểu về văn hóa nhà Thanh.

Bảo tàng Cung điện Thẩm Dương


Bảo tàng Cung điện Thẩm Dương còn được gọi là Tử Cấm Thành của nhà Thanh, đây là một trong hai quần thể cung điện cổ hoàn chỉnh nhất ở Trung Quốc. Đây cũng là một địa điểm cổ chứa đựng nhiều ý nghĩa lịch sử và văn hóa phong phú.

Có 114 tòa nhà cổ và hơn 500 phòng. Ngoài ra còn có một số lượng lớn các di tích văn hóa quý giá từ các triều đại nhà Minh và nhà Thanh được cất giấu trong các phòng trưng bày khác nhau, được bảo tồn tốt cho đến ngày nay.

Toàn bộ cung điện uy nghiêm và tráng lệ, thể hiện sự hoành tráng của hoàng gia khắp mọi nơi. Phong cách kiến ​​trúc bên trong “cao cung thấp” là độc nhất vô nhị trong lịch sử kiến ​​trúc cung điện Trung Quốc.

Công viên giải trí Thẩm Dương


Ở Công viên giải trí Thẩm Dương, bạn có thể trải nghiệm những công nghệ như phim viễn tưởng. Với khoa học viễn tưởng và trải nghiệm tương tác là những tính năng lớn nhất, công viên được xây dựng với mục tiêu trở thành "Thiên đường viễn tưởng phương Đông" và "Ma thuật khoa học viễn tưởng châu Á".

Công viên giải trí bao gồm hơn 20 khu vực dự án chủ đề quy mô lớn , phù hợp dành cho mọi lứa tuổi. Như "Bay vượt giới hạn", "Thế giới khủng long"...

Phố mua sắm Tây Tháp


Phố mua sắm Tây Tháp là con phố mua sắm theo phong cách của Hàn Quốc. Hai bên đường là những tòa nhà kiểu Hàn Quốc. Có nhiều cửa hàng quần áo nơi bạn có thể mua quần áo đa dạng kiểu dáng, giá cả. Ngoài việc mua sắm, bạn còn có thể nếm thử nhiều món ngon của Hàn Quốc. Quán mì lạnh Tây Tháp nổi tiếng nằm ở đây. Có rất nhiều quán hát và quán bar trên phố Tây Tháp. Mỗi đêm, khu Tây Tháp đầy màu sắc sẽ biến thành "Thành phố Tây Tháp" nổi tiếng là "thành phố không ngủ" ở Thẩm Dương. Địa điểm ăn chơi được các bạn trẻ yêu thích.

Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh


Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh là nơi lưu giữ các tài liệu về lịch sử của thành phố, thủ phủ của tỉnh. Là một trong những bảo tàng lịch sử nghệ thuật quy mô lớn của Trung Quốc. Bảo tàng tỉnh Liêu Ninh lưu giữ các di tích văn hóa cấp kho báu quốc gia như loài vật thời nhà Thương, chân máy và bức tượng hình con vịt Tây Chu. Bạn cũng có thể tham quan Triển lãm các di tích dân tộc cổ độc đáo của văn hóa Liêu Hà.

Khu thắng cảnh Bàn Sơn


Khu thắng cảnh Bàn Sơn núi Trường Bạch. Được đặt theo tên của hòn đá nguyên thủy được chạm khắc hình bàn cờ trên núi. Nó bao gồm Núi Bàn cờ, núi Huệ Sơn, núi Đại dương và Tú Hồ.

Khu danh lam thắng cảnh có núi non, cây cối tươi tốt. Bạn có thể ngắm hoa sen vào mùa hè và chụp ảnh lá phong vào mùa thu. Trên đỉnh núi có đình ngắm hồ, có thể ngắm nhìn toàn cảnh khung cảnh xung quanh.

Một đường cáp treo và đường trượt đã được xây dựng trên Núi Bàn cờ, bạn có thể trải nghiệm nhiều hoạt động giải trí như leo núi, trượt băng tốc độ trên núi cao , tổ chức các buổi dã ngoại.

Mỗi mùa đông, "Thế giới băng tuyết núi Bàn cờ" ở đây là thiên đường để xem các tác phẩm điêu khắc trên băng, vui chơi trong tuyết và trượt tuyết.

3. Ẩm thực Thẩm Dương có đặc sắc gì?

Bánh bao Lào


Bánh bao Lào là món ăn nhẹ đặc sản nổi tiếng ở Thẩm Dương. Được du nhập vào Thẩm Dương vào thời Đạo Quang của nhà Thanh và có lịch sử hơn 160 năm kể từ khi được tạo ra. Bánh bao Lào tinh tế trong khâu lựa chọn nguyên liệu, làm cầu kỳ, hình dáng độc đáo và hương vị tươi ngon.

Bánh mì thịt xông khói


Thịt xông khói của Lí Liên Quý có màu nâu đỏ, vỏ trong, béo nhưng không béo ngậy, nạc nhưng không khô, bánh dẹt có màu vàng, tròn như trăng rằm, chia thành từng lớp, giòn bên ngoài, mềm bên trong. C hương vị đậm đà. Khi ăn người ta cho thêm nước sốt, hành lá thái sợi và một bát cháo kê, đậu xanh, táo tàu cho thêm phần thú vị.

Bánh Thẩm Dương hồi đầu


Theo truyền thuyết, bánh được tạo ra bởi một người đàn ông tên Tân vào thời Quảng Tự của triều đại nhà Thanh. Phương pháp này là nhào bột thành một quả bóng, dùng tay ấn dẹt, cán mỏng và đổ nhân vào, cuối cùng gấp thành hình chữ nhật và quấn chặt hai đầu. Hồi đầu là một món ăn nhẹ của người đạo Hồi ở Thẩm Dương. Bánh có màu vàng và hương vị thơm ngon, rất được thực khách ưa chuộng.

Món canh huyết


Món canh huyết đó được các gia đình người Mãn Châu yêu thích. Cho nước và gia vị vào tiết lợn tươi, đổ vào lòng lợn, buộc chặt 2 đầu rồi nấu chín. Khi ăn chấm thịt và huyết vào các gia vị như tỏi băm, tương hẹ, dầu ớt.

Bánh mỳ Lão Sơn ký Hải thành


Bánh mỳ Lão Sơn ký Hải thành là một món ăn nhẹ truyền thống ở thành phố Thẩm Dương. Được Mao Thanh Sơn tạo ra vào năm 1920 trên các con phố ở huyện Hải Thành, tỉnh Liêu Ninh. Khi làm bánh, trộn bột với nước ấm, chọn thịt lợn và thịt bò làm nhân vịt, sau đó nấu với hơn mười loại gia vị, thêm nước cốt vào nhân để tăng hương vị. Nhân rau thay đổi theo mùa. Giá đỗ, tỏi tây, dưa chuột, ớt xanh, bí ngô, cần tây, bắp cải, v.v. được chọn để chế biến nhân, sao cho thịt và rau của nhân phù hợp.

Theo: vimiss.vn