Thursday, November 27, 2025

HOÀNG CHÂU HÀN THỰC THIẾP - TÔ THỨC


Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp

Tự ngã lai Hoàng Châu,
Dĩ quá tam hàn thực,
Niên niên dục tích xuân,
Xuân khứ bất dung tích.
Kim niên hựu khổ vũ,
Dữ nguyệt thu tiêu sắt.
Ngọa văn hải đường hoa,
Nê ô yến chi tuyết.
Ám trung thâu phụ khứ,
Dạ bán chân hữu lực.
Hà thù bệnh thiểu niên,
Bệnh khởi đầu dĩ bạch.


黄州寒食帖

自我來黃州
已過三寒食
年年欲惜春
春去不容惜
今年又苦雨
兩月秋蕭瑟
臥聞海棠花
泥污燕支雪
闇中偷負去
夜半真有力
何殊病少年
病起鬚已白


Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp
(Dịch thơ: yeuhannom)

Từ ngày tôi đến hoàng châu
Hàn thực ba tết qua mau mất rồi
Tháng ngày chỉ tiếc Xuân thôi
Xuân đi mà chẳng một lời luyến lưu
Năm nay liên tục mưa rào
Hai tháng hiu hắt gió gào Thu phai
Nằm nghe thấy, Hải Đường rơi
Phấn hoa như tuyết lại vùi bùn thâm
Tựa như tên trộm âm thầm
Nửa đêm cưỡng đoạt sức thân chống gì
Khác đâu tuổi trẻ bệnh suy
Đến khi bệnh dậy đầu thì bạc phơ


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.

Theo: yeuhannom



SÚP RẮN - MÓN ĂN SƯỞI ẤM NGÀY ĐÔNG BUỐT GIÁ

Loại súp đặc biệt này không phải thứ thích hợp với mọi du khách. Tuy nhiên, nhiều người đã thử và ấn tượng với nó.


Trong tiếng Quảng Đông, súp rắn có tên là "se gang" (蛇羹). Một bát súp rắn có chứa tới 5 loại thịt rắn khác nhau, gồm rắn hổ mang Trung Quốc, rắn cạp nia, rắn ráo, rắn sọc dưa và rắn lục mũi hếch. 2 loài đầu tiên có độc còn 3 loài còn lại không có.


Người Quảng Đông có một câu nói: "Khi gió thu nổi lên, 3 con rắn béo múp". Câu này ý chỉ 3 con rắn đầu tiên trong danh sách ăn rất nhiều trước khi ngủ đông. Do đó, chúng giàu dinh dưỡng nhất vào giai đoạn này. Cũng vì thế, món súp rắn rất phổ biến vào mùa thu, đông.


Súp rắn được chuộng ở vùng Đông Nam của Trung Quốc. Người dân ở đây sống gần biển. Gió biển khiến họ thường bị đau nửa đầu, viêm khớp. Súp rắn hay những món ăn từ rắn khác giúp bồi bổ cơ thể, ngừa cảm cúm và kéo dài tuổi thọ. Súp rắn luôn được xem là một trong những món đặc biệt nhất. Nó đã xuất hiện và được lưu truyền hàng thế kỷ.


Nơi có món súp rắn ngon nhất là Hong Kong (Trung Quốc). Các nhà hàng kinh doanh thịt rắn ở đây được gọi là "se wong" (tạm dịch: vua rắn). Một số món khác cũng được yêu thích là da rắn hầm, thịt rắn chiên, súp mật rắn tươi...


Về súp rắn, món này ngon nhất khi được làm tại chỗ. Tức là, khi khách yêu cầu, người chủ mới làm thịt rắn để bát súp luôn tươi, ngon. Thông thường, các nhà hàng sẽ giữ chúng trong hộp gỗ vì đây là môi trường khô ráo, lý tưởng nhất. Một điều lưu ý là không được đặt rắn hổ mang Trung Quốc chung với những con khác. Rắn hổ mang Trung Quốc được xem như vua và nó sẽ ăn các con khác.


Chính phủ khuyến nghị các cơ sở kinh doanh nên cho con rắn ngủ trước khi chặt đầu. Đây là một hành động nhân đạo. Sau đó, đầu bếp sẽ gỡ xương của nó ra. Rắn có từ 200 đến 400 đốt sống với nhiều xương sườn. Sau khi bỏ xương, người ta xé thịt thành từng miếng mỏng. Bên cạnh thịt rắn, món súp phải có thêm nấm đông cô, thịt gà và măng (đôi khi có thêm bong bóng cá).


Không chỉ thịt, mọi phần của con rắn đều được sử dụng để tránh lãng phí. Theo những đầu bếp Trung Quốc, mọi bộ phận của rắn đều bổ dưỡng. Phần tốt nhất là túi mật - thứ được dùng để làm rượu. Vào trước những năm 1980, thịt rắn là thứ xa xỉ không phải ai cũng có thể ăn. Thời điểm này, các thầy kinh kịch Quảng Đông thường ăn mật rắn trước buổi diễn để tăng cường năng lượng, cải thiện giọng nói.


Món súp rắn truyền thống được làm từ hỗn hợp 2 loại súp. Đầu tiên là loại nước dùng cơ bản làm từ giăm bông, thịt gà, ninh trong 6 giờ. Loại súp còn lại gồm xương rắn, vỏ quýt phơi khô, cùi nhãn, chà là, mía, gừng - nấu trong 4 giờ. Cuối cùng, họ thêm đậu phụ lên men và lá chanh khô để tăng độ giòn, loại bỏ mùi tanh của rắn.


Hiện nay, công thức này được xem là quá cầu kỳ. Một số nhà hàng cao cấp vẫn làm theo công thức này. Nhiều nhà hàng khác lại đơn giản hóa công thức bằng cách nấu chung thịt lợn và xương rắn trong một giờ. Doanh số bán hàng súp rắn trong mùa đông rất cao. Một số nhà hàng có thể bán tới 700-1.000 bát/ngày.

Theo: vivunow.com



TEM PHIẾU THỰC PHẨM Ở MỸ CÓ TỪ BAO GIỜ?

Chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ ra đời vào thời kỳ Đại Suy Thoái, được thiết kế để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp Mỹ.


Chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ được triển khai vào thời điểm nước này đang phải đối mặt với một nghịch lý bi thảm: Trong khi hàng triệu người Mỹ phải chịu đựng nạn đói trong thời kỳ Đại Suy Thoái, nông dân nước này lại bị dư thừa sản phẩm vật nuôi và cây trồng, khiến giá nông sản giảm mạnh.

Nguyên nhân là nền kinh tế sụp đổ những năm 1930 làm suy yếu sức mua của người tiêu dùng thực phẩm.

Để tạo ra sự khan hiếm nhân tạo và đẩy giá lên cao, Bộ Nông nghiệp Mỹ dưới thời Tổng thống Franklin D. Roosevelt ban đầu trả tiền cho nông dân để họ cày bỏ ruộng và giết lợn. Tuy nhiên việc phá hủy lương thực vào thời điểm rất nhiều người đói bụng đã gây ra sự phẫn nộ, khiến Tổng công ty Hàng hóa Dư thừa Liên bang (FSCC), một cơ quan thuộc chương trình Chính sách Kinh tế Mới của Mỹ được thành lập năm 1933, phải mua lại lương thực dư thừa và phân phối trực tiếp cho người nghèo với chi phí thấp hoặc miễn phí.

Chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ ra đời vào thời kỳ Đại Suy Thoái, được thiết kế để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp Mỹ.

Tuy nhiên, sáng kiến ​​này đã làm giảm doanh thu của các cửa hàng tạp hóa và bán buôn thực phẩm, những người phàn nàn về sự can thiệp của chính phủ và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.

Đối mặt với ba vấn đề: dư thừa nông sản, doanh số bán hàng yếu kém ở các cửa hàng tạp hóa và người dân đói khổ trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp lên tới 17%, FSCC hy vọng những tờ giấy vuông nhỏ xíu có thể giải quyết được vấn đề nan giải của mình. Rochester, New York, sau đó trở thành địa điểm cho một thí nghiệm kinh tế mới do chính phủ điều hành.

Phiếu thực phẩm ra mắt

Sáng 16/5/1939, các viên chức FSCC hồi hộp dõi theo khi họ mở cửa bưu điện cũ tại Rochester để triển khai biện pháp cứu trợ mới nhất của nước này.

Trong khi các phóng viên báo chí và nhiếp ảnh gia tranh giành vị trí để ghi lại khoảnh khắc lịch sử đang hình thành, người đầu tiên trong hàng tiến đến quầy thu ngân. Ralston Thayer, một thợ máy 35 tuổi, người đã thất nghiệp gần một năm, đưa cho nhân viên thu ngân 4 USD từ trợ cấp thất nghiệp mới nhất của mình và nhận lại 4 USD tem màu cam cùng với 2 USD tem màu xanh miễn phí.

Dựa trên thành công ban đầu, chương trình tem phiếu thực phẩm đã được triển khai đến các thành phố thí điểm khác và mở rộng đến một nửa số quận trên toàn nước Mỹ.

"Phiếu thực phẩm" màu cam có thể được đổi tại bất kỳ cửa hàng tạp hóa nào trong số 1.200 cửa hàng tạp hóa tham gia chương trình tại Rochester, để lấy bất kỳ hàng hóa nào trên kệ, trong khi tem màu xanh chỉ có thể được sử dụng để mua các mặt hàng nông sản dư thừa như bơ, trứng, mận khô, bột mì, cam, bột ngô và đậu.

Người bán hàng tạp hóa có thể đổi phiếu thực phẩm lấy tiền mặt tại các ngân hàng thương mại và văn phòng FSCC.

“Tôi chưa bao giờ nhận được thực phẩm dư thừa trước đây, nhưng thủ tục có vẻ khá đơn giản và tôi chắc chắn sẽ tận dụng nó”, Thayer nói với các phóng viên.

Trong suốt cả ngày, khoảng 2.000 cư dân Rochester đã tiếp bước Thayer. Cứ mỗi 1 USD mua tem cam, họ sẽ nhận được 50 xu tem xanh miễn phí, nhờ đó sức mua của họ tăng thêm 50%. Chiều hôm đó, hàng loạt khách hàng đổ xô đến các cửa hàng tạp hóa ở Rochester với những tập tem cam và xanh mới cứng trên tay.

Những người nhận tem thực phẩm đã chấp thuận chương trình mới, cho phép họ có nhiều lựa chọn hơn về thực phẩm, ngoài những mặt hàng dư thừa do chính phủ phân phát. “Giờ đây, chúng tôi sẽ có được thực phẩm tốt nhất”, một phụ nữ nói với tờ Rochester Democrat and Chronicle. “Chúng tôi có thể tự chọn những mặt hàng dư thừa này thay vì lấy những gì họ cho chúng tôi".

Các cửa hàng tạp hóa ở Rochester cũng được hưởng lợi. Một số người đã thu được 50.000 USD vào ngân quỹ của họ trong bốn ngày đầu tiên của chương trình.

“Tôi đã hết sạch bột mì khi cơn sốt tem bắt đầu”, chủ cửa hàng tạp hóa Joseph Mutolo nói với các quan chức FSCC khi ông trở thành nhà bán lẻ đầu tiên đổi tem. “Điều đó chắc chắn khác với ngày xưa khi bạn cho không thực phẩm tại các kho thực phẩm lớn. Khi đó, khi bạn cho không bột mì hoặc bơ, không bán được gì. Giờ đây, dường như tôi không còn dự trữ nữa".

Dựa trên thành công ban đầu, chương trình tem phiếu thực phẩm đã được triển khai đến các thành phố thí điểm khác và mở rộng đến một nửa số quận trên toàn nước Mỹ.

Người Mỹ đủ điều kiện có thể mua từ 1 đến 1,5 USD tem cam hàng tuần cho mỗi thành viên trong gia đình. Chương trình đã nuôi sống 20 triệu người Mỹ cho đến khi bị ngừng vào năm 1943 khi các biện pháp kích thích kinh tế do Thế chiến II mang lại đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng dư thừa mùa màng.

Bắt đầu từ năm 1990, thẻ chuyển tiền trợ cấp điện tử, tương tự như thẻ ghi nợ liên kết với tài khoản trợ cấp, đã thay thế tem phiếu thực phẩm giấy.

Tem phiếu quay lại nhiều lần

Tổng thống John F. Kennedy đã bị sốc trước cảnh nghèo đói mà ông chứng kiến ​​ở Tây Virginia trong cuộc bầu cử của Đảng Dân chủ năm 1960. Trong chiến dịch tranh cử sơ bộ, ông dự kiến khôi phục chương trình tem phiếu thực phẩm dưới dạng thí điểm. Đó trở thành một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi nhậm chức vào năm 1961.

Về sau, mặc dù người nhận vẫn phải trả tiền cho tem phiếu thực phẩm, nhưng các loại tem phiếu đặc biệt dành cho hàng hóa dư thừa bị bãi bỏ. Đạo luật Tem phiếu Thực phẩm năm 1964, được Tổng thống Lyndon B. Johnson ký thành luật vào ngày 31/8/1964, đã hệ thống hóa và mở rộng chương trình này. "Kế hoạch tem phiếu thực phẩm sẽ là một trong những vũ khí quý giá nhất của chúng ta trong cuộc chiến chống đói nghèo", ông Johnson tuyên bố tại lễ ký kết.

Mặc dù được khởi xướng bởi các tổng thống Đảng Dân chủ, chương trình tem phiếu thực phẩm đã chứng kiến ​​sự mở rộng lớn nhất dưới sự lãnh đạo của một tổng thống đảng Cộng hòa, Richard Nixon. Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của Nixon, chương trình tem phiếu thực phẩm tăng gấp năm lần, từ 3 triệu người nhận vào năm 1969 lên 15 triệu người vào năm 1974.

Chương trình tem phiếu thực phẩm tiếp tục nhận được sự ủng hộ của lưỡng đảng trong những năm tiếp theo. Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Bob Dole và Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ George McGovern đi đầu trong việc thông qua Đạo luật Cải cách Tem phiếu Thực phẩm năm 1977. Đạo luật này đã củng cố các điều khoản chống gian lận và loại bỏ yêu cầu người nhận phải mua phiếu tem phiếu thực phẩm.

Tem phiếu thực phẩm màu cam và xanh từ năm 1939. Với mỗi đô la tiền mặt, một người thất nghiệp sẽ nhận được 1 đô la tem màu cam và 50 xu tem màu xanh.

Tem phiếu Thực phẩm Điện tử SNAP

Bắt đầu từ năm 1990, thẻ chuyển tiền trợ cấp điện tử, tương tự như thẻ ghi nợ liên kết với tài khoản trợ cấp, đã thay thế tem phiếu thực phẩm giấy. Biện pháp này tiếp tục giảm thiểu gian lận, vì người nhận không còn có thể bán tem phiếu thay vì sử dụng chúng để mua thực phẩm. Cùng với việc loại bỏ tem phiếu thực phẩm giấy, chương trình đã đổi tên thành Chương trình Hỗ trợ Dinh dưỡng Bổ sung (SNAP) vào năm 2008.

Chương trình SNAP phục vụ trung bình 41,7 triệu người Mỹ mỗi tháng vào năm 2024. Các nhà sản xuất và bán lẻ thực phẩm cũng tiếp tục được hưởng lợi.

Nhà phân tích Michael Lasser của UBS ước tính rằng Walmart có được khoảng 4 phần trăm doanh số bán hàng tại Mỹ từ việc mua tem phiếu thực phẩm vào năm 2018. Theo dữ liệu phân tích mua hàng từ năm 2025, Walmart chiếm khoảng 24 phần trăm chi tiêu của hộ gia đình tham gia SNAP - điều này nhấn mạnh mối quan hệ giữa hỗ trợ thực phẩm và các chuỗi bán lẻ thực phẩm lớn.

Phương Anh / Nguồn: History.com
Link tham khảo:




Wednesday, November 26, 2025

5 ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI "PHÚC MỎNG", MONG RẰNG BẠN KHÔNG CÓ LẤY MỘT ĐIỀU

Thiện – ác đều có báo, mọi sự đều có nhân quả. Vận mệnh của một người tốt hay xấu đều là do chính mình tạo ra, không thể trách ai khác. Một người mệnh khổ, phúc mỏng, đa phần mang 5 đặc điểm dưới đây. Nếu biết soi lại bản thân, nhận ra sai mà sửa, thì vẫn có thể thay đổi vận mệnh cả đời; còn nếu không, cuối cùng chỉ có thể rơi vào cảnh đường cùng bế tắc.

5 đặc điểm của người “phúc mỏng”, mong rằng bạn không có lấy một điều

1. Tự cao, luôn nhìn vào khuyết điểm của người khác

Có người tự cho mình hơn người một bậc, chẳng những khinh thường người khác, mà hễ người ta vừa mở miệng, họ liền thích lập tức phản bác, chỉ ra lỗi lầm của đối phương, khiến người ta khó xử. Nhưng với khuyết điểm của chính mình thì lại cực kỳ bao dung, không cho ai góp ý. Kết quả chỉ khiến bản thân kết oán với người, trở thành kẻ tự cao tự đại kiểu “dã lang dạ lang”. Phản bác người khác, ngoài việc cho thấy tu dưỡng của mình chưa đủ, xét ở góc độ khác, cũng chính là đang hạ thấp bản thân.

Vận mệnh một người xấu đi, thường là vì cái miệng không tốt. Luôn thích nói những lời tiêu cực, rồi tự hành vi của mình cũng bị ảnh hưởng theo, vận mệnh tự nhiên ngày càng khổ.

2 Tham lam

“Lòng người không đủ như rắn nuốt voi.”

Người tham lam, dù có bạc vạn đầy nhà cũng chẳng biết đủ, vẫn cảm thấy mình khổ mệnh. Làm người phải biết đủ thì mới thường vui; người không biết đủ, cuối cùng thường rơi vào bẫy lợi ích, càng tham thì lại càng chìm sâu.

Người tham lam, dù có bạc vạn đầy nhà cũng chẳng biết đủ, vẫn cảm thấy mình khổ mệnh. Ảnh internet.

3. Thích so bì

Có người lòng so đo rất nặng, luôn ganh tỵ khi thấy người khác hơn mình. Nhưng thực tế, ai cũng đều “kém hơn người này, lại hơn người kia”, đời người vốn không tệ đến vậy.

Người thích so bì thường cũng là người có tấm lòng rất hẹp hòi, không chịu nhìn thấy người khác tốt hơn mình. Khi nhận ra khoảng cách giữa mình và người khác, họ không thể tĩnh tâm suy xét, cũng không chịu khiêm tốn học ưu điểm của người ta. Những người như vậy có khi vốn dĩ mệnh cũng không đến mức quá khổ, nhưng vì lòng dạ hẹp hòi, không dung được người, nên phúc báo ngày càng cạn kiệt.

4. Sĩ diện

Xã hội ngày nay tràn ngập chủ nghĩa vụ lợi, nhiều người cho rằng muốn thành công thì phải sĩ diện và “mặt dày”. Khi một người sống chỉ vì sĩ diện, họ buộc phải làm vừa lòng người khác, trở thành kẻ muốn lấy lòng tất cả, cho rằng có như vậy người khác mới nói mình tốt. Nhưng thực tế, những lời hay ý đẹp người ta nói với mình đa phần đều là lời giả lược, chỉ dễ nghe chứ chẳng chân thật mấy.

Người sĩ diện cũng không dám đường hoàng mà đối đãi với người khác; khi bị ức hiếp, cũng chỉ biết nín nhịn nuốt giận. Cũng vì sĩ diện, nên lúc giao tiếp với bạn bè, người thân, họ thường thích tỏ ra rộng rãi, luôn muốn cho người khác được lợi, nhưng lại không biết từ chối đúng lúc, khiến cuộc sống của chính mình càng ngày càng vất vả.

4. Dễ nổi nóng, dễ bực bội

Người không thể tĩnh tâm thì tâm trạng dễ bồn chồn, dễ bị cơn giận chi phối. Chỉ cần gặp việc không vừa ý, họ liền bực bội khó chịu, vì nóng nảy mà không thể nhìn nhận mọi việc một cách lý tính, càng không thể nghĩ trước nghĩ sau.

Người không thể tĩnh tâm thì tâm trạng dễ bồn chồn, dễ bị cơn giận chi phối. Ảnh internet.

Loại người này vì dễ bốc đồng mà đánh mất lý trí, nên khi làm việc rất dễ mắc sai lầm; vừa sai, tính khí lại nổi lên, càng khiến họ thêm hấp tấp. Lâu dần tạo thành vòng luẩn quẩn: hiệu quả công việc giảm sút, các mối quan hệ cũng trở nên tệ hại, xung đột và mâu thuẫn với người khác tăng lên. Những phiền não do chính mình gây ra ngày càng nhiều, cuộc đời lại càng kém yên bình.

Những ai có các đặc điểm trên nhất định phải sửa đổi những tính xấu ấy, như vậy mới không làm tiêu hao trước phần phúc báo mà mình đang có.

Khai Tâm biên dịch
Theo: vandieuhay

XÍCH BÍCH HOÀI CỔ - TÀO TUYẾT CẦN


Xích Bích hoài cổ

Xích Bích trần mai thuỷ bất lưu,
Đồ lưu danh tính tải không chu.
Huyên điền nhất cự bi phong lãnh,
Vô hạn anh hồn tại nội du.


赤壁懷古

赤壁塵埋水不流
徒留名姓載空舟
喧闐一炬悲風冷
無限英魂在內遊


Xích Bích hoài cổ
(Dịch thơ: Vũ Bội Hoàng)

Xích Bích sông kia nước chẳng trôi,
Truyền trơ tên họ chở đi thôi.
Ầm ầm gió thảm theo làn khói,
Biết mấy hồn thiêng quẩn đấy rồi.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tào Tuyết Cần 曹雪芹 (4/4/1710 - 10/6/1765) là một tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết Hồng lâu mộng, một trong tứ đại kỳ thư của văn học cổ điển Trung Quốc.

Gia đình thế hệ trước của Tào Tuyết Cần là một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại quý tộc thời nhà Thanh Trung Quốc. Từ đời tổ đến đời cha của ông đã thay nhau giữ chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế trong triều đình. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào. Ông nội ông là Tào Dần, một nhà văn xuất sắc vùng Giang Ninh. Đến đời của ông tất cả sự giầu sang quyền quý của gia đình đã trở thành quá khứ. Gia đình ông bị mắc nạn. Ông sống trong nghèo khổ, phải đưa gia đình đi khắp nơi để mưu sinh. Mười năm cuối đời ông đã dồn toàn bộ tâm huyết và tinh thần vào để tạo nên kiệt tác Hồng lâu mộng.

Nguồn: Thi Viện


SỰ THẬT ROBOT HÌNH NGƯỜI TỪ THẾ KỶ 19 ĐÁNH LỪA CẢ NƯỚC MỸ

Đầu năm 1868, nhiều tờ báo trên khắp nước Mỹ đồng loạt đưa tin rằng một nhà phát minh trẻ tuổi đến từ New Jersey tên Zadock Dederick “chế tạo ra một con người".


Đầu năm 1868, nhiều tờ báo trên khắp nước Mỹ đồng loạt đưa tin rằng một nhà phát minh trẻ tuổi đến từ New Jersey tên Zadock Dederick “đã chế tạo ra một con người, vận hành bằng hơi nước. Nó được mô tả là có thể thực hiện một số chức năng quan trọng nhất của một con người.

Khi Zadock Dederick chế tạo ra một cỗ máy gọi là "người cơ khí”, báo chí đặt biệt danh cho ông là “Frankenstein mới”. Đến tháng 3, tin tức này đã lan rộng đến mức người dân New York xếp hàng dài trên đại lộ Broadway để được tận mắt chứng kiến điều kỳ diệu.

Người máy hơi nước Newark

Zadock Dederick (cũng có tài liệu ghi là Zadoc) khi đó là một thợ cơ khí và chế tạo khuôn ở độ tuổi 20. Ông dành nhiều năm để phát triển nguyên mẫu “người cơ khí”. Ông mở xưởng trưng bày ngay đối diện nơi từng là Bảo tàng Mỹ thuật P.T. Barnum ở Hạ Manhattan. Vé vào cửa xưởng có giá 25 xu.

Bên trong, “người máy hơi nước” được trưng bày cho khách tham quan. Ông ta trông giống nhân vật thường được lấy làm biểu tượng của trò chơi Monopoly (cờ tỷ phú), chỉ khác là cơ thể mập mạp được tạo nên bằng máy móc, có còi hơi thay cho miệng, động cơ giấu trong lồng ngực to như thùng phi, và một ống khói đội trên đầu như mũ chóp cao thật.

Hình nhân nặng gần 250 kg này vận hành bằng động cơ hơi nước 4 mã lực, có thể kéo xe kéo hoặc xe ngựa. Đôi chân khớp kép cho phép di chuyển linh hoạt. Ngoại hình cũng được chăm chút theo hình dáng “quý ông” với găng tay, áo khoác lịch sự và khuôn mặt trắng men kèm bộ ria mép rậm.

Dederick kỳ vọng phát minh của mình có thể phục vụ giao thông công cộng hoặc lao động, ví dụ thay thế ngựa. Cả người máy và xe kéo nặng khoảng 1 tấn, chi phí chế tạo khoảng 3.000 USD (tương đương hơn 70.000 USD năm 2025).

Hình ảnh mô tả ứng dụng của người máy hơi nước Newark.

Ông đã cùng cộng sự Isaac Grass ấp ủ, xây dựng và tinh chỉnh cỗ máy trong nhiều năm. Người máy này được gọi là Steam Man of Newark (người hơi nước ở Newark), nhưng người thợ đặt biệt danh cho nó là “Daniel Lambert", theo tên một cai ngục Anh thế kỷ 18 nổi tiếng với cân nặng hơn 300 kg.

Tờ New York Express khi đó chỉ chê duy nhất một điểm ở robot này: “Vào sáng sớm, ông ta xuất hiện khá lôi thôi – và… không mặc quần".

“Frankenstein mới”

Phát minh này không chỉ để giải trí. Nhiều người ủng hộ cho rằng nó có thể thay thế hoàn toàn ngựa kéo. Tờ The Friend năm 1868 viết rằng cỗ máy có thể “đi hoặc chạy theo lệnh, theo bất kỳ hướng nào, gần như ở bất kỳ tốc độ nào, kéo theo tải trọng mà bình thường phải cần đến ba con ngựa khỏe mới làm nổi".

Trong bối cảnh công nghiệp hóa, mở rộng lãnh thổ và di dân tăng nhanh, người máy hơi nước này trở thành biểu tượng của thay đổi. “ Chỉ cần 9 kg áp suất hơi là ông ta có thể vận hành ”, Dederick nói trên tờ The St. Louis Republic, “và 20 xu tiền than là đủ cho cả ngày” . Đây là "nhân công" lao động không biết mệt, khỏe hơn cả người và ngựa, vừa hứa hẹn lợi ích cho giới giàu có, vừa gợi liên tưởng khó chịu đến chế độ nô lệ.

Phản ứng với phát minh này rất đa dạng. Giới khoa học khuyên nên kiên nhẫn, Scientific American nhận định phát minh “dù có triển vọng nhưng còn xa mới hoàn thiện”.

Phóng viên Flag Of Our Union gọi Dederick là “Frankenstein mới.” Trong khi đó, American Artisan and Patent Record lại chế nhạo: “Năm phụ nữ đã viết thư đặt mua người chồng bằng gang này, và một quý ông thì hỏi mua vợ".

Hình ảnh thực tế của người máy hơi nước Newark.

Sự thật hay viễn tưởng?

Là nhà phát minh trẻ, Dederick đại diện cho hình mẫu “tự lập” kiểu Mỹ – nơi tài năng và lợi nhuận có thể đến với bất kỳ công dân bình thường nào. Vậy cỗ máy của Dederick thật sự có công dụng hay chỉ là một trò gợi mở viễn cảnh tương lai?

Báo chí năm 1868 ghi nhận rằng vị trí địa điểm đặt robot của tận dụng ngay “cơn sốt hỏa hoạn” khi bảo tàng đối diện vừa bị cháy và vẫn đang thu hút sự chú ý. Tuy nhiên, mỗi khi có yêu cầu về việc trình diễn đầy đủ khả năng của robot này thì những người tổ chức luôn có lý do ngăn cản – hoặc căn phòng quá nhỏ, hoặc công ty bảo hiểm phản đối.

Kết cục, người máy Newark chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Chưa đầy một năm sau, tờ Monmouth Democrat ở New Jersey gọi đây là một “trò bịp tai hại”, cho biết cỗ máy đã được rao bán. Và robot này cũng chưa bao giờ đi được trên đường như tin đồn. Tuy vậy, di sản nó để lại là rất to lớn – dù không như Dederick mong muốn.

Trong bối cảnh tỷ lệ biết chữ tăng, in ấn giá rẻ, bản sắc Mỹ toàn cầu hóa và tiểu thuyết giá rẻ (dime novel) đang thịnh hành, Người máy hơi nước trở thành chất liệu tuyệt hảo cho các câu chuyện phiêu lưu.

Năm 1868, nhà văn Edward Ellis mượn nguyên mẫu này, kể cả mũ ống khói bằng sắt tán đinh và những chàng trai phát minh gan dạ, để viết tiểu thuyết Steam Man of the Prairies. Tác phẩm này có ảnh hưởng to lớn đến văn học giả tưởng, văn hóa steampunk và thể loại Edisonade – những câu chuyện xoay quanh các nhà phát minh trẻ cùng sáng chế của họ. Bằng cách hư cấu hóa phát minh của Dederick, Ellis đã góp phần đặt nền móng cho văn học khoa học viễn tưởng hiện đại.

Nguồn: History.com
Phương Anh / Theo: VTCNews
Link tham khảo:



NHẬT BẢN - TỪ CƯỜNG QUỐC CÔNG NGHỆ ĐẾN LỖI THỜI KỸ THUẬT SỐ

Từng là biểu tượng công nghệ toàn cầu, Nhật Bản nay loay hoay với máy fax và con dấu thủ công trong cuộc đua số hóa.

Liệu Nhật Bản có từ bỏ máy fax không? (Nguồn: CNN)

Khi nhắc đến Tokyo, người ta thường hình dung những tòa nhà chọc trời rực rỡ ánh đèn neon, hệ thống tàu cao tốc hiện đại, hay những bộ phim viễn tưởng như Akira và Ghost in the Shell mô tả một Nhật Bản tương lai đầy robot và hình ảnh ba chiều. Tuy nhiên, thực tế đời sống thường nhật lại khác xa: Máy fax, đĩa mềm và con dấu cá nhân hóa (hanko) vẫn tồn tại dai dẳng – những công cụ đã biến mất ở hầu hết các quốc gia tiên tiến.

Sự chậm trễ trong số hóa và bộ máy hành chính rườm rà khiến người dân gặp nhiều bất tiện. Một người dùng Facebook từng ví von: “Các ngân hàng Nhật Bản là cánh cổng dẫn đến địa ngục”, kèm theo lời mỉa mai: “Có lẽ gửi fax sẽ giúp ích.”

Từ đỉnh cao công nghệ đến tụt hậu

Trong thập niên 1970–1980, Nhật Bản từng là biểu tượng công nghệ toàn cầu với những cái tên như Sony, Toyota, Panasonic và Nintendo. Các sản phẩm như máy nghe nhạc Walkman hay trò chơi Mario Bros đã trở thành biểu tượng văn hóa.

Tuy nhiên, khi thế giới chuyển sang nền kinh tế phần mềm và internet, Nhật Bản – vốn mạnh về phần cứng – đã chậm thích ứng. Theo ông Daisuke Kawai, Giám đốc Chương trình Đổi mới Chính sách và An ninh Kinh tế tại Đại học Tokyo, Nhật Bản không đầu tư đủ vào công nghệ thông tin và truyền thông, dẫn đến sự suy thoái của ngành điện tử và sự chảy máu chất xám sang các công ty nước ngoài.

Nhân viên tại một công ty nhận đơn đặt hàng qua fax và điện thoại tại Tokyo vào năm 2013. (Nguồn: New York Times)

Hệ quả là chính phủ thiếu hiểu biết kỹ thuật số, lực lượng lao động công nghệ bị thiếu hụt, và các cơ quan nhà nước triển khai chiến lược CNTT rời rạc, dẫn đến sự phụ thuộc vào giấy tờ và con dấu thủ công.

Ông Kawai cho rằng: “Các công ty Nhật Bản nổi tiếng với văn hóa ngại rủi ro, hệ thống phân cấp dựa trên thâm niên... và quy trình ra quyết định chậm chạp, dựa trên sự đồng thuận - tất cả những điều này đã cản trở sự đổi mới".

Thêm vào đó, tỷ lệ người già cao khiến xã hội ngờ vực công nghệ mới, lo ngại gian lận kỹ thuật số và vẫn chuộng phương pháp truyền thống.

Theo Jonathan Coopersmith, Giáo sư danh dự ngành Lịch sử tại Đại học Texas A&M, các doanh nghiệp nhỏ không thấy cần thiết phải chuyển từ fax sang máy tính, vì “fax vẫn hoạt động tốt và mọi người đều dùng nó.” Các tổ chức lớn như ngân hàng hay bệnh viện thì lo ngại gián đoạn dịch vụ khi chuyển đổi.

Việc số hóa cũng đòi hỏi thay đổi hàng nghìn quy định pháp lý – một thách thức mà các nhà lập pháp không mấy mặn mà, vì đây không phải là vấn đề thu hút cử tri.

Con dấu hanko được đóng trên một chứng từ ngân hàng tại Tokyo, Nhật Bản. (Nguồn: Getty Images)

Đại dịch buộc phải thay đổi

Sự lạc hậu kỹ thuật số của Nhật Bản trở nên rõ ràng trong đại dịch COVID-19. Chính quyền không có công cụ số để xử lý khủng hoảng, dẫn đến quá tải. Mãi đến tháng 5/2020, Bộ Y tế mới ra mắt cổng thông tin trực tuyến để báo cáo ca nhiễm – thay cho fax, điện thoại và email.

Một ứng dụng theo dõi tiếp xúc gặp lỗi kéo dài nhiều tháng. Việc học và làm từ xa gặp khó khăn vì nhiều người chưa từng dùng Zoom hay dịch vụ chia sẻ tệp. Năm 2022, một thị trấn vô tình chuyển toàn bộ quỹ cứu trợ COVID-19 khoảng 46,3 triệu yên (322.000 USD) vào tài khoản một cá nhân. Sự nhầm lẫn bắt nguồn từ việc ngân hàng được cung cấp cả đĩa mềm chứa thông tin và mẫu đơn yêu cầu bằng giấy - nhưng đến khi các nhà chức trách nhận ra sai sót của mình, người đàn ông này đã đánh bạc gần hết số tiền.

Tình hình trở nên tồi tệ đến mức có lúc, Takuya Hirai - người được bổ nhiệm vào vị trí Bộ trưởng Chuyển đổi Số mới được thành lập vào năm 2021 - đã mô tả cách xử lý đại dịch của đất nước là một "thất bại về mặt kỹ thuật số".

Từ năm 2021, Cơ quan Kỹ thuật Số được thành lập để thúc đẩy số hóa. Theo Giáo sư Coopersmith, đây là kết quả của “sự kết hợp giữa nỗi sợ hãi và cơ hội.” Cơ quan này triển khai thẻ an sinh xã hội thông minh, thúc đẩy hạ tầng đám mây, và tuyên bố chiến thắng trong “cuộc chiến chống đĩa mềm” vào tháng 7 năm ngoái – loại bỏ hơn 1.000 quy định liên quan.

Tuy nhiên, vẫn có những khó khăn ban đầu. Một lần, chính phủ yêu cầu người dân góp ý về siêu dữ liệu qua bảng tính Excel gửi email – khiến dư luận phản đối. Bộ trưởng Kỹ thuật Số Taro Kono sau đó cam kết sẽ dùng biểu mẫu trực tuyến.

Nhiều con dấu tên hanko được trưng bày tại một cửa hàng hanko ở Quận Toshima, Tokyo. (Nguồn: AP)

Tương lai số hóa của Nhật Bản

Theo ông Kawai, các công ty đang nhanh chóng bắt kịp, thuê chuyên gia bên ngoài để cải tổ hệ thống. Masahiro Goto, thành viên nhóm chuyển đổi số tại Viện Nghiên cứu Nomura (NRI), cho biết nhiều doanh nghiệp “háo hức tiến lên nhưng không biết bắt đầu từ đâu.” Họ vẫn dùng hệ thống cũ, cần hỗ trợ để chuyển đổi.

Nhu cầu tư vấn số hóa tăng mạnh trong 5 năm qua, vì các công ty Nhật Bản từng thuê ngoài CNTT, nay thiếu kỹ năng nội bộ để tự số hóa.

“Về cơ bản, họ muốn hoạt động hiệu quả hơn, và tôi tin rằng họ muốn chủ động áp dụng công nghệ số như một phương tiện sinh tồn,” ông Kawai nhận định. Với dân số giảm, cải thiện năng suất là điều tất yếu.

Biển báo thanh toán không dùng tiền mặt bên ngoài một cửa hàng ở quận Omotesando thời thượng của Tokyo. (Nguồn: Getty Images)

Dù có sự phản đối – như 400 ý kiến phản đối việc loại bỏ máy fax trong chính phủ năm 2021 – các chuyên gia vẫn lạc quan. Ông Kawai dự đoán Nhật Bản có thể bắt kịp một số nước phương Tây trong vòng 5 - 10 năm tới.

Công chúng cũng đang khao khát số hóa, với nhiều doanh nghiệp chấp nhận thanh toán không tiền mặt và triển khai dịch vụ trực tuyến. “Tôi chắc chắn rằng người trẻ và công chúng nói chung đều muốn số hóa càng nhanh càng tốt,” ông Kawai nói.

Anh Quang / Theo: VTC News
Link tham khảo:
https://edition.cnn.com/2025/08/09/asia/japan-digital-technology-fax-intl-hnk-dst



Tuesday, November 25, 2025

TẠI SAO CÓ NGƯỜI TRONG LÒNG MUỐN GIÚP ĐỞ NGƯỜI KHÁC NHƯNG LẠI KHÔNG HÀNH ĐỘNG?

Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta thường được dạy rằng giúp đỡ người khác là một giá trị đạo đức cơ bản, một sợi chỉ đỏ kết nối con người với nhau giữa bộn bề của thế giới.


Ai trong chúng ta cũng từng chứng kiến những khoảnh khắc khó khăn của người lạ: một ông lão ngã xe giữa đường phố đông đúc, một bà mẹ đơn thân vật lộn với gánh nặng cuộc sống, hay chỉ đơn giản là một người bạn đang chìm trong nỗi buồn không tên. Lúc ấy, trái tim chúng ta rung động, một giọng nói nội tâm thì thầm: “Hãy giúp họ đi, vì chính bạn cũng có thể rơi vào hoàn cảnh ấy một ngày nào đó.”

Thế nhưng, không phải ai cũng hành động ngay lập tức. Có người lao vào giúp đỡ mà không mảy may do dự, biến khoảnh khắc ấy thành một câu chuyện đẹp về lòng nhân ái. Còn có những người, dù lòng đầy thiện chí, lại ngần ngại, rồi tự nhủ: “Không phải mình thì chắc chắn sẽ có người khác giúp thôi.” Và rồi, khi biết bao nhiêu người cùng mang ý nghĩ ấy, ai sẽ là người thật sự dang tay? Câu hỏi ấy không chỉ là một nghịch lý xã hội, mà còn là lời nhắc nhở sâu sắc về bản chất con người; nơi lòng tốt không phải lúc nào cũng dễ dàng nảy nở, mà thường phải vượt qua một cuộc đấu tranh nội tâm đầy gay gắt.

Điều gì khiến chúng ta ngần ngại như vậy? Phải chăng chính là nỗi sợ những rắc rối mà bản thân sẽ phải đối mặt?

Thật sự, những rắc rối ấy không cần phải quá lớn lao, chỉ cần những điều nhỏ nhặt thôi cũng đủ để làm lung lay quyết định của chúng ta. Hãy tưởng tượng một buổi sáng bận rộn ở thành phố nhộn nhịp. Bạn đang vội vã lái xe máy đến công ty để kịp cuộc họp quan trọng; một hợp đồng lớn có thể thay đổi sự nghiệp của bạn.

Bất chợt, phía trước, một người phụ nữ trung niên ngã xe, giỏ rau củ trên xe đạp đổ tung tóe ra đường: cà chua lăn lóc, rau muống vương vãi, và những quả bí xanh lăn xa tít. Bà ấy hoảng hốt, cố gắng ngồi dậy nhưng tay chân run rẩy, rõ ràng là đang đau.

Bạn dừng xe, tim đập thình thịch. Một phần trong bạn muốn lao đến, giúp bà nhặt từng mớ rau, an ủi vài câu, thậm chí chở bà đến bệnh viện nếu cần. Nhưng rồi, những suy nghĩ khác ùa về như cơn lũ: “Mình đang muộn rồi, cuộc họp bắt đầu trong 15 phút nữa. Nếu giúp, mình sẽ kẹt xe thêm, sếp sẽ mắng, và hợp đồng có thể bay mất.” Hay là: “Chỉ là rau củ thôi, bà ấy nhặt một mình cũng xong nhanh mà. Đường phố đông thế này, chắc chắn có ai đó sẽ dừng lại giúp.”


Bạn liếc nhìn xung quanh, vài chiếc xe máy lướt qua, vài người đi bộ cúi đầu tránh né. Không ai dừng lại. Và bạn, với nỗi day dứt thoáng qua, vẫn nhấn ga, tự an ủi rằng: “Mình không phải người xấu, chỉ là… không phải lúc này thôi.”

Câu chuyện ấy không phải hiếm gặp. Nó phản chiếu một hiện tượng tâm lý mà các nhà xã hội học gọi là “hiệu ứng người ngoài cuộc” (bystander effect); khi càng nhiều người chứng kiến một sự việc, mỗi cá nhân lại càng ít có khả năng hành động, vì họ vô thức giao phó trách nhiệm cho “người khác”.

Nhưng sâu xa hơn, sự ngần ngại ấy xuất phát từ cuộc đấu tranh nội tâm giữa bản ngã cá nhân và giá trị cộng đồng. Lòng tốt, sự yêu thương giữa người với người, không phải là một hành động tự phát đơn thuần, mà là quá trình phải buộc chọn lựa: vì bản thân hay vì người khác?

Nhiều người sẽ viện dẫn câu nói: “Người không vì mình, trời tru đất diệt.” Dù hiện tại không phải bản thân đang gặp nạn, nhưng họ nghĩ rằng, nếu ai cũng giúp đỡ vô điều kiện, thì ai sẽ lo cho chính mình?

Trong câu chuyện trên, người tài xế có thể tự biện minh: “Dù nhiều rau củ rơi và chỉ một mình bà ấy nhặt thì lâu chút là xong ngay, không quá nghiêm trọng. Hơn cả là mình cũng có việc gấp, đâu phải là mình không muốn giúp, mình cũng muốn giúp nhưng công việc của mình thật sự cần phải xong ngay mới được.” Những lời tự nhủ ấy nghe có vẻ hợp lý, thậm chí nhân văn, nhưng chúng che giấu một sự thật phũ phàng rằng, chúng ta đang chọn sự an toàn của bản thân thay vì rủi ro nhỏ bé của lòng tốt.

Để minh họa rõ hơn, hãy nghĩ đến một câu chuyện khác. Đó là vào một buổi chiều mưa tầm tã, anh chàng sinh viên tên Tuấn đang chen chúc trên chuyến xe buýt đông đúc để về ký túc xá. Anh mệt mỏi sau một ngày học hành căng thẳng, đầu óc chỉ nghĩ đến bữa cơm nóng hổi và giấc ngủ ngắn ngủi trước khi ôn bài.

Bất ngờ, một cụ ông già nua, tay cầm túi ni lông đựng vài lon sữa, trượt chân ngã dúi dụi giữa lối đi chật hẹp của xe. Cụ đau đớn kêu lên, lon sữa lăn ra sàn, và không ai nhúc nhích. Mọi người chỉ nhìn, thì thầm vài câu rồi quay đi. Minh đứng ngay bên cạnh, anh có thể dễ dàng cúi xuống đỡ cụ dậy, nhặt lon sữa và hỏi han vài câu.

Nhưng rồi, anh do dự: “Xe đang đông, nếu mình cúi xuống, sẽ chen lấn mọi người, có khi bị chửi. Với lại, tài xế sắp dừng ở trạm tiếp theo, chắc chắn sẽ có ai đó giúp cụ thôi. Mình còn phải về sớm để làm bài tập nhóm nữa chứ.”


Anh liếc nhìn cụ ông, thấy đôi mắt cụ long lanh nước mưa lẫn nước mắt, và một nỗi ân hận chợt dâng trào. Cuối cùng, Minh quyết định hành động. Anh quỳ xuống giữa lối đi chật hẹp, đỡ cụ dậy, lau khô lon sữa và thì thầm: “Cụ ơi, cháu giúp cụ nhé.” Khoảnh khắc ấy, không chỉ cụ ông mà cả những hành khách xung quanh bắt đầu xì xào, rồi một vài người khác cũng tham gia giúp đỡ. Minh muộn học một chút, nhưng anh nhận ra rằng, sự ngần ngại ban đầu chỉ là bức tường mỏng manh; một khi vượt qua, lòng tốt sẽ lan tỏa như cơn mưa ấy, thấm đẫm cả không gian.

Từ những câu chuyện ấy, chúng ta thấy rằng, con người vốn không phải có bản chất xấu xa, mà chính sự ngần ngại của con người làm chúng ta chọn dừng lại. Chúng ta sợ rắc rối vì chúng ta đã quen với việc bảo vệ bản thân trước những bất trắc. Nhưng chính cuộc đấu tranh nội tâm ấy mới làm nên giá trị thực sự của lòng tốt. Nó không phải là hành động dễ dàng, mà là sự lựa chọn có ý thức, nơi chúng ta quyết định rằng, dù chỉ là một cử chỉ nhỏ, nó có thể thay đổi cuộc đời ai đó. Và khi nhiều người cùng vượt qua nỗi sợ ấy, xã hội sẽ không còn là nơi ai cũng nghĩ “không phải mình thì ai đó sẽ giúp”, mà trở thành một cộng đồng thực sự gắn kết, nơi lòng nhân ái không còn là ngoại lệ.

Hãy thử nghĩ, lần tới khi bạn chứng kiến một khoảnh khắc khó khăn của người khác, bạn sẽ chọn gì? Sự an toàn quen thuộc của bản thân, hay rủi ro nhỏ bé để gieo mầm yêu thương? Câu trả lời nằm trong trái tim mỗi chúng ta và chỉ khi hành động, chúng ta mới thực sự sống với lòng tốt đích thực.

Tú Uyên biên tập
Theo: vandieuhay

DỮ CHƯ TỬ ĐĂNG HIỆN SƠN - MẠNH HẠO NHIÊN


Dữ chư tử đăng Hiện Sơn

Nhân sự hữu đại tạ,
Vãng lai thành cổ kim.
Giang sơn lưu thắng tích,
Ngã bối phục đăng lâm.
Thuỷ lạc ngư lương thiển,
Thiên hàn Mộng trạch thâm.
Dương công bi tự tại,
Độc bãi lệ triêm khâm.


與諸子登峴山

人事有代謝
往來成古今
江山留勝跡
我輩復登臨
水落魚梁淺
天寒夢澤深
羊公碑字在
讀罷淚沾襟


Cùng mấy người lên núi Hiện
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Chuyện đời vẫn lắm đổi thay.
Bao nhiêu chuyện cũ đến nay chẳng còn.
Giang sơn thắng tích dấu son.
Ta cùng bầu bạn lội non trèo đèo.
Ngư chài đăng đó vẫn nghèo.
Nước đầm Vân Mộng trong veo lạnh lùng.
Dương Công bia đá hào hùng.
Lệ rơi thấm ướt, muôn trùng cảm thương.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Mạnh Hạo Nhiên 孟浩然 (689-740) tên Hạo, tự Hạo Nhiên, hiệu Mạnh sơn nhân 孟山人, người Tương Dương (nay là huyện Tương Dương tỉnh Hồ Bắc), cùng thời với Trần Tử Ngang.

Ông từng làm quan, nhưng ông không thích hợp với đám quý tộc lạm quyền, nên rất thích nơi nhàn cư. Ông lui về ở ẩn, tìm lấy đời sống tao nhã ở Long Môn quê nhà và trong cuộc du ngoạn ở những nơi xa, khắp vùng đất. Ông đi nhiều, thấy nhiều, mạnh thơ đầy ắp những khí chất hồn hậu của thiên nhiên núi sông diễm lệ, hợp với tâm hồn trong sáng của mình.

Ông để lại 260 bài thơ. Có thể gọi thơ ông là thơ sơn thuỷ được. Thơ năm chữ của ông luật lệ nghiêm cách, phóng khoáng, hùng tráng, rất nổi tiếng. Bài Lâm Động Đình được nhiều người truyền tụng.

Nguồn: Thi Viện



CÓ GÌ TRONG LY CÀ PHÊ ĐẮT NHẤT THẾ GIỚI GIÁ GẦN 1,000 USD Ở DUBAI?

Ly cà phê đắt nhất thế giới vừa được phục vụ tại Dubai, có giá gần 1.000 USD mỗi ly, đánh dấu kỷ lục mới trong thế giới cà phê xa xỉ.

Serkan Sagsoz pha chế loại cà phê đắt nhất thế giới

Một quán cà phê ở Dubai vừa giới thiệu loại cà phê đắt nhất thế giới, có giá 980 USD mỗi ly, được pha từ những hạt cà phê Panama từng lập kỷ lục đấu giá quốc tế.

Loại cà phê này có tên Nido 7FC Panama, được pha từ hạt cà phê Geisha trồng gần núi lửa Baru ở Panama – vùng đất nổi tiếng cho ra những hạt Arabica thượng hạng với hương thơm và độ ngọt tự nhiên.

Theo hãng tin AFP, lô hạt mà Julith Coffee – quán cà phê ở Dubai mua lại đã lập kỷ lục tại một phiên đấu giá quốc tế, khi 20 kg hạt được bán với giá khoảng 600.000 USD.

Nông trại trồng cà phê (Ảnh minh hoạ: Reuters)

“Chúng tôi cảm thấy Dubai là nơi hoàn hảo cho khoản đầu tư này”, nhà đồng sáng lập Serkan Sagsoz chia sẻ. Julith Coffee tọa lạc tại một khu công nghiệp đang trở thành điểm đến của giới yêu cà phê, dự kiến phục vụ khoảng 400 cốc loại cà phê hiếm này từ ngày 1/11.

Theo ông Sagsoz, ly cà phê đặc biệt này mang hương vị thanh thoát như trà, với “hương hoa nhài, cam bergamot, thoang thoảng vị cam quýt cùng chút đào và mơ – mềm mại và ngọt như mật ong".

Julith Coffee, nằm trong khu công nghiệp đang nổi lên như “thiên đường cà phê” ở Dubai, dự kiến chỉ phục vụ khoảng 400 ly của dòng cà phê siêu hiếm này, bắt đầu từ ngày 1/11.

Trước đó, Dubai từng lập kỷ lục Guinness với ly cà phê giá 680 USD/ly, do thương hiệu Roasters phục vụ. Tuy nhiên, với mức giá mới gần 1.000 USD, Julith Coffee đã xác lập đỉnh cao mới trong thế giới cà phê xa xỉ.

Dubai từ lâu đã gắn liền với sự xa hoa, từ trung tâm thương mại có khu trượt tuyết trong nhà đến tòa tháp cao nhất thế giới và đảo nhân tạo phủ kín khách sạn năm sao. (Ảnh: Reuters)

“Thật sốc, nhưng đó là Dubai,” một người dân nói với AFP.

“Với người giàu, đây chỉ là thêm một trải nghiệm để khoe khoang”, một người khác chia sẻ.

Julith Coffee cho biết sau khi kỷ lục được công bố, nhiều nhà sưu tầm và tín đồ cà phê từ châu Á và Trung Đông đã liên hệ để mua hạt Nido 7 Geisha. Tuy nhiên, quán khẳng định chỉ dành một phần nhỏ “kho báu” này cho gia đình hoàng gia Dubai.

Nguồn: Channel News Asia
Diễm Châu / Theo: VTC News
Link tham khảo:



Monday, November 24, 2025

CÁ NGỪ VẰN NƯỚNG TÁI, MÓN ĂN NGON NHẤT NHẬT BẢN

Ở phía nam của đảo Shikoku, nằm lọt giữa hai bán đảo khổng lồ, Kochi là một trong những tỉnh ở Nhật Bản có ít người ghé thăm nhất - ít ra là người nước ngoài.

Ảnh: Jamie Lafferty

Đây là địa điểm quen thuộc với những Phật tử dòng Chân Ngôn Tông (Shingon) Nhật Bản hành hương tới khu 88 Ngôi Đền Shikoku nổi tiếng.

Nhưng nơi đây còn là địa điểm quen thuộc cho một kiểu hành hương khác.

Bên trong Chợ Hirome ở Thành phố Kochi vào một buổi tối tháng Tám ẩm ướt, thực khách đã chen chúc nhau quanh những chiếc bàn chung, xung quanh là các cửa tiệm, quầy hàng.

Những thực khách đói bụng ngày càng kéo tới đông thêm, và những chiếc bàn nhanh chóng được bày ra bên trong khu vực chỉ có một tầng khi giờ ăn tối đến gần.

Hirome là nơi lúc nào trong năm cũng tấp nập như thế này, và bất kể là vào mùa nào thì món ăn được tìm kiếm nhiều nhất trong thị trấn vẫn luôn là katsuo-no-tataki (món cá ngừ vằn, hay trong tiếng Nhật là cá bonito, nướng tái).

Chợ Hirome ở Kochi là nơi có nhà hàng Myo Zhima chuyên phục vụ món cá ngừ vằn nướng tái. Nguồn hình ảnh,Jamie Lafferty

Được gọi là cá ngừ vằn, đây là loại họ hàng nhỏ hơn của giống cá ngừ thường. Sống ở vùng biển sâu nhưng chúng lại bơi lượn gần một cách bất thường vào sát bờ, ngay ngoài khơi Kochi. Chúng thường bơi theo sau những luồng cá trích trôi theo dòng hải lưu Kuroshio.

Bởi có thể đánh bắt được ở nơi rất gần cho nên cư dân Kochi được ăn thứ cá tươi nhất.

Qua năm tháng, các đầu bếp địa phương ở đây đã phát triển một kỹ thuật chế biến món ăn vô cùng ấn tượng để giữ được tối đa hương vị cá ngừ.

Kỹ thuật chế biến thức ăn tataki ngày nay được áp dụng trên toàn thế giới là được bắt nguồn từ đây, Kochi.

Có nghĩa đen là "đánh", đây là phương pháp nướng sơ thức ăn trong một thời gian ngắn, khoảng 90 giây, trong đó cá hoặc thịt được thui đốt trên ngọn lửa rơm cháy bừng bừng.

Lửa cháy bùng sẽ làm chín phần bên ngoài miếng cá, làm cháy săn phần thịt đen sẫm và khiến phần ngoài thấm đẫm hương vị hun khói, trong khi bên trong vẫn giữ được chất lượng sashimi tươi sống, mọng nước.

Đầu bếp sau đó dùng dao lớn xắt cá thành những lát dày, bày cùng hành lá, gừng, tỏi và nêm muối hoặc nước tương vừa miệng.

Thường được gọi là cá ngừ vằn, loại cá ngừ này sống ở biển sâu, nhưng chúng lại bơi gần bờ tới mức khác thường ở ngoài khơi bờ biển Kochi. Nguồn hình ảnh,Jamie Lafferty

Ngày nay, các nhà hàng Nhật Bản áp dụng kỹ thuật tataki cho cá hồi và thậm chí cả thịt bò, nhưng vị khói đặc sắc nhất phải là trên món cá ngừ vằn.

Trên thực tế, món này đã trở nên phổ biến ở Kochi đến nỗi mọi người coi nó như một biểu tượng của toàn tỉnh - và người ta đi từ nơi rất xa tới đây để được ăn nó.

"Ở chỗ chúng tôi cũng có katuso-no-tataki, nhưng tôi đã nghe kể là món này ở Kochi ngon ra sao, cho nên là tôi đến chợ này," Kazuko Watanabe, người đến từ vùng Gun Gunma cách đó 800km về phía bắc, nói. "Chất lượng ở nhà rất khác biệt - ở đây ngon hơn."

Watanabe đã đầu hàng cơn ghiền của mình và gọi hai phần cá ngon lành màu sẫm. Nhiều thực khách khác trong khu chợ trong nhà ồn ào này cũng làm thế, trong đó có tôi.

Đầu bếp phải vừa giữ cho lửa cháy ở mức mạnh nhất, vừa lật cá để giữ cho miếng cá cháy đều. Nguồn hình ảnh,Jamie Lafferty

Nếu bạn không chịu được nhiệt...

Vào năm 2011, tôi bắt đầu chuyến đi kéo dài 100 ngày tới tất cả 47 tỉnh của Nhật Bản.

Tôi đã ăn những món ăn lạ thường trên khắp đất nước, từ món kaiseki trang trí vô cùng công phu ở Kyoto, cho đến món toriwasa (gà sống) được chế biến thành nhiều kiểu ở Nagano, cho đến shirako (tinh trùng cá tuyết) ở Aomori, đến thịt bò huyền thoại ở Kobe. Tuy nhiên, món tataki ở Kochi là nhất.

Một số quầy hàng trong Chợ Hirome bán món cá ngừ vằn nướng tái, nhiều nhà hàng trong thành phố cũng bán, nhưng nơi làm tôi không thể quên được - chính là nơi có hàng dài thực khách xếp hàng chờ đến lượt - là Myo Zhima.

Các đầu bếp can đảm của Myo Zhima đứng trước ngọn lửa cuồng nộ, cho rơm vào trong lúc nướng bốn miếng phi-lê cùng lúc.

Khi ngọn lửa bùng cháy dữ dội nhất, gương mặt của khách hàng và nhân viên chìm trong màu cam.

"Chúng tôi học mọi thứ, từ việc cắt cá cho đến việc giữ lửa," đầu bếp của Myo Zhima, Masayoshi Sawada, giải thích trong lúc tạm nghỉ. "Hồi lần đầu tiên làm món đó, tôi thấy rất khó - tôi nhớ là lúc đó cực kỳ nóng, tôi thật sự muốn uống chút nước."

Các đầu bếp địa phương đã tìm ra kỹ thuật chế biến thức ăn độc đáo để giữ nguyên được hương vị cá ngừ vằn. Nguồn hình ảnh,Jamie Lafferty

Công đoạn nướng cá diễn ra nhanh chóng, nhưng với ngọn lửa bùng cao đến 2m, 90 giây đó khiến ta cảm giác như kéo dài vĩnh viễn đối với đầu bếp, người phải đồng thời giữ lửa ở mức bùng cháy hung hãn nhất, lại vừa phải lật miếng cá để đảm bảo chín đều.

Tuy có cả những nơi khác trong chợ cũng phục vụ món này, nhưng Myo Zhima là nơi duy nhất chế biến nó một cách đầy hoa mỹ và công khai.

Quán cũng là nơi duy nhất có tàu và ngư dân riêng đi đánh bắt cá ngừ vằn mỗi ngày, rồi mang thẳng cá tươi từ biển tới quầy hàng sáng để đảm bảo giữ được độ tươi ngon nhất của sản vật vừa đánh bắt.

"Tataki là đặc sản độc đáo của Kochi và tôi nghĩ rằng chúng tôi nổi tiếng vì chúng tôi chế biến thức ăn trước mặt khách hàng," Sawada nói tiếp. "Điều này gây ấn tượng rất mạnh - khoảng 90% thực khách chụp ảnh."

Vào bữa tối những ngày bình thường đã có hàng dài chờ đợi bên ngoài quán, nhưng vào cuối tuần, khi chợ tấp nập khách thì hầu hết mọi người đều gọi gấp đôi để khỏi phải xếp hàng hai lần.

Sawada, 24 tuổi, đã làm việc ở đây từ khi anh còn là thiếu niên. Anh cùng nhóm nhân viên nhỏ của quầy hàng nướng gần 200kg cá ngừ vằn được chuyển từ tàu Myo Zhima lên mỗi ngày.

Việc phục vụ món cá từ-biển-lên-bàn, đánh bắt trong ngày này là một lý do quan trọng khiến quầy hàng này nổi tiếng đến vậy.

Yuri Yamazaki từ New York hàng năm luôn cùng con gái trở về thị trấn quê hương Kochi. Nguồn hình ảnh,Jamie Lafferty

Ăn sashimi ở nhiều nơi là một trải nghiệm tinh tế, nhưng ở đây thì không thế.

Hương vị đậm đà của katsuo-no-tataki dường như phản ánh trực tiếp bầu không khí sôi động trong chợ - và những lát thịt đậm đà, tươi rói hầu như luôn được kết hợp với bia.

Bên ngoài là lớp cá cháy và bên trong là vị cá tươi, ngon ngọt, đó là một trong những món ăn tuyệt vời của cuộc sống, đặc biệt là khi ăn kèm với chút muối và lát tỏi mỏng.

Nếu chỉ gọi một phần cá thì quả là bạn đã tự kiểm soát thật tốt bản thân.

Có những du khách thích món ăn đến nỗi họ trả thêm rất nhiều tiền để mang nó về nhà, ở các vùng khác của Nhật Bản, dẫu cho làm vậy là đã khiến giảm bớt phần tươi ngon.

"Chúng tôi ăn nhiều katsuo hơn bất cứ nơi nào khác - và chúng tôi uống nhiều bia hơn," Yuri Yamazaki cười khúc khích từ cái bàn cạnh tôi, với món bonito - cá ngừ vằn đặt trước mặt.

Xuất thân từ Kochi, Yamazaki đã sống ở New York từ 10 năm qua.

Cô đưa cô con gái năm tuổi của mình về Kochi hàng năm kể từ khi đứa trẻ chào đời, và chắc chắn rồi, họ cũng đến Chợ Hirome.

Trong chuyến đi kéo dài sáu tuần này, hai mẹ con họ đã tới đây bốn lần, và đã ba lần ăn món katsuo-no-tataki tại Myo Zhima. Liệu đây sẽ là lần cuối cùng? "À, lẽ ra là thế đấy, nhưng để xem xem," Yamazaki nói. "Tôi đã không biết rằng món này rất nổi tiếng cho đến tận khi tôi đi ra khỏi tỉnh quê nhà."

Đầu bếp dùng dao lớn xắt cá đã nướng tái thành những lát dày, bày cùng hành lá, gừng, tỏi và nêm muối hoặc nước tương vừa miệng. Nguồn hình ảnh,Jamie Lafferty

Biểu tượng của thành phố

Nguồn gốc của món katsuo-no-tataki không rõ là từ đâu; một số người tin rằng nó có gốc tích từ Sakamoto Ryoma, một samurai nổi loạn Thế kỷ 19 và là người con nổi tiếng nhất của Kochi, người bị các phe thân chính phủ ám sát vào năm 1867.

Một số người cho rằng Ryoma đã được chứng kiến kỹ thuật tataki tại tỉnh Nagasaki ở miền nam Nhật Bản, một trong những nơi đầu tiên mở cửa cho người nước ngoài sau khi triều đại Sakoku (thời kỳ cô lập, bí mật của Nhật Bản, 1633-1853) chấm dứt.

Dù truyền thuyết này có đúng hay không, thì không có nghi ngờ gì nữa, giống như chuyện tử vì đạo của Ryoma, nó qua năm tháng đã trở thành biểu tượng của Kochi - khuôn mặt của ông xuất hiện trên các áp phích và sản phẩm tỉnhh thành phố - và món cá nướng sơ cũng vậy.

Ngay cả yuru chara của tỉnh, tức là một linh vật dễ thương được thiết kế để quảng bá du lịch, cũng là một cái đầu cá ngừ vằn bị chặt ra, đặt trên cơ thể của một người đàn ông. Những hình vẽ con cá cũng được tìm thấy trên các nắp cống tỉnh thành phố.

Trong lúc mọi người đến đến đi đi quanh các bàn ăn trong chợ, tôi đã gặp một 'thổ dân' Kochi là Yoshihiro Kashiwai, 76 tuổi.

Với vị nhân viên bán hàng viễn thông đã nghỉ hưu này thì việc có cá bonito ngon nhất chính là chìa khóa đem lại sự nổi tiếng cho món ăn.

"Cá ở đây rất tươi, chúng bơi rất gần Kochi, vì vậy chúng tôi có thể đánh bắt chúng và bán với giá hợp lý," ông nói. "Bạn cũng có thể mua nó ở Tokyo, nhưng mà rất đắt. Tôi bắt đầu ăn món này từ khi còn nhỏ, nhưng cho đến tận ngày nay, nó vẫn là món ưa thích của tôi."

Jamie Lafferty / BBC Travel
Theo: BBC Tiếng Việt (29/12/2019)
Link tiếng Anh: