Rạn san hô Great Barrier là địa điểm du lịch nổi tiếng bậc nhất tại Úc. Đến với Great Barrier bạn sẽ được khám phá vẻ đẹp kỳ vĩ của rạn san hô và cuộc sống của các loài sinh vật biển vô cùng phong phú tại đây. Bạn sẽ được trải nghiệm các hoạt động vô cũng thú vị tại nơi đây như việc lặn ngắm san hô, hay ngắm san hô bằng máy bay, khinh khí cầu,… Bài viết dưới đây chia sẻ đôi nét về Rạn san hô Great Barrier cũng như kinh nghiệm khi du lịch tại nơi đây cho bạn khi đến khám phá Great Barrier nhé!
Một phần nhỏ của Rạn san hô Great Barrier, bờ biển Queensland
Tháng 6 và tháng 11 là hai thời điểm lý tưởng nhất trong năm để bạn lên kế hoạch khám phá Rạn san hô Great Barrier. Trong hai tháng này, thời tiết tại Úc và Queensland khá lý tưởng, trời trong, nắng ráo, không mưa, phù hợp để tham gia các hoạt động vui chơi, tham quan ngoài trời.
Thời tiết tháng 6 tại Rạn san hô Great Barrier
Đôi nét về Rạn san hô Great Barrier
Rạn san hô Great Barrier (còn gọi là “Đại Bảo Tiều” hay “Bờ Đá Lớn”) là hệ thống rạn san hô lớn nhất thế giới, bao gồm hơn 2.900 rạn san hô riêng rẽ và 900 hòn đảo trải dài trên 2.300 km, với tổng diện tích 344.400 km2. Nó nằm trên khu vực Biển San Hô, ngoài khơi bờ biển Queensland, Đông Bắc Úc. Rạn san hô Great Barrier có thể được nhìn thấy từ ngoài vũ trụ và là cấu trúc đơn lớn nhất thế giới được tạo ra bởi các sinh vật sống. Cấu trúc rạn san hô này được hình thành bởi hàng tỷ sinh vật nhỏ, được gọi là những polyp san hô.
Cấu trúc rạn san hô (những polyp san hô)
Đến năm 1981, UNESCO đã công nhận rạn san hô Great Barrier là di sản thế giới. CNN cũng công nhận đây là 1 trong 7 kỳ quan thiên nhiên của thế giới, nơi đây dần trở thành biểu tượng khi nhắc tới Queensland. Hầu hết các du khách tới Queensland không thể bỏ qua địa điểm này.
Lịch sử hình thành
Theo như nghiên cứu, các trầm tích san hô đã được hình thành từ nửa triệu năm trước. Các đá san hồ ngầm vẫn đang giao động theo mực nước biển. Khoảng 13.000 năm trước, mực nước biển thấp hơn ngày nay khoảng 60m, và các san hô đã bắt đầu mọc quanh các ngọn đồi của miền đồng bằng ven biển – sau đó là các hòn đảo lục địa.
Trước đây vị trí rạn san hô là khu vực đồng bằng và ven biển có các ngọn đồi lớn. Về sau nhờ sự dâng lên của mực nước biển, các san hô mọc cao ở những ngọn đồi hình thành nên các hòn đảo. Nước biển ngày càng tăng lên dần nhấn chìm những ngọn đồi đó thành các đảo san hô. Người ta đã tìm được rạn san hô lâu đời nhất ở phía bắc của Great Barrier. Theo như phân tích, rạn san hô có tuổi thọ hơn 1000 năm là một loài san hô của Porites, có tên gọi là san hô tảng lăn (nó mọc dài khoảng 1 cm/1năm).
Các rạn san hô tại Great Barrier
Các loài sinh vật biển tại Great Barrier
Rạn san hô Great Barrier là một khu vực đa dạng sinh học với nhiều loài đặc hữu. Trong đó bao gồm 30 loài trong Bộ cá voi ( cá voi Minke, cá heo lưng bướu Thái Bình Dương và cá voi lưng gù), nhiều loài Cá cúi, hơn 1.500 loài cá (cá hề, cá hồng đỏ hai đốm, cá hè mõm dài, một số loài cá hồng và cá mú chấm), 17 loài rắn biển, và 6 loài rùa biển (rùa da, rùa lưng phẳng…). Khu vực này có 15 loài Cỏ biển, 125 loài Cá mập và Cá đuối, gần 5.000 loài động vật thân mềm, và 49 loài Cá chìa vôi. Rạn san hô và đảo là nơi kiếm ăn và làm tổ của 215 loài chim (đại bàng bụng trắng, nhàn hồng) và hỗ trợ 2.195 loài thực vật. Có 400 loài san hô và 500 loài Rong biển.
Cá voi Minke
Cá hồng đỏ hai đốm
Rùa quản đồng
Nhàn hồng
Các cách khám phá rạn san hô Great Barrier
Để đi tới rạn san hô, du khách có thể chọn cách bơi, lặn hoặc đi thuyền đều được. Để khám phá hết vẻ đẹp của Great Barrier bạn có thể lựa chọn nhiều cách thức khác nhau. Sau đây là cách thức tham quan, thám hiểm rạn san hô Great Barrier được nhiều người ưa chuộng.
Thám hiểm từ trên cao
Bạn muốn có cái nhìn bao quát về Great Barrier thì việc thám hiểm từ máy bay trực thăng hoặc từ khinh khí cầu sẽ là một ý tưởng rất thú vị đấy.
Để có thể tận hưởng trọn vẹn vẻ đẹp tại đây thì bạn nên xuất phát từ sáng sớm, vừa có thể đón nhận ánh nắng đầu tiên trong ngày cũng như có thể hòa mình vào không khí buổi sáng tại nơi đây.
Ngắm Great Barrier bằng trực thăng vào sáng sớm
Ngắm san hô bằng thuyền
Thay vì ngắm rạn san hô từ trên cao, bạn có thể trải nghiệm chúng thật gần bằng cách đi thuyền đáy kính. Khi quan sát qua lớp kính, các rạn san hô và sinh vật biển sẽ không bị hoảng sợ, cho phép bạn chiêm ngưỡng trọn vẹn vẻ đẹp của các loài sinh vật và động vật nơi đây.
Ngắm san hô qua thuyền đáy kính
Lặn ngắm san hô
Thay vì ngắm từ trên cao và ngắm bằng thuyền, việc lặn ngắn san hô sẽ mang lại cho bạn một trải nghiệm vô cùng thú vị. Đó là bạn sẽ được trực tiếp thấy những sinh vật vô cùng đáng yêu bơi dưới nước, lẫn trốn trong các rặng san hô; hay việc được chạm tay trực tiếp vào các rặng san hô đã được hình thành rất lâu tại Great Barrier. Cũng như hòa mình vào dòng nước mát lạnh nơi đây để “giải nhiệt” cho cái nóng mùa hè. Thật lý tưởng phải không nào?
Các loài sinh vật đáng yêu tại Great Barrier
Lặn ngắm san hô
Các mẹo nhỏ khi lặn ngắm san hô
– Trước khi lặn, bạn cần kiểm tra cẩn thận các dụng cụ bảo hộ như áo phao, đồ lặn, kính bơi, ống thở, mặt nạ dưỡng khí;
– Mặc đồ bơi gọn gàng, nhẹ nhàng, mang giày chống nước để bảo vệ chân trong suốt quá trình lặn;
– Khởi động cẩn thận trước khi lặn để tránh bị chuột rút hoặc căng cơ do thay đổi nhiệt độ đột ngột;
– Không lặn biển trong tình trạng cơ thể quá đói hoặc quá no. Bạn nên lặn vào thời điểm một tiếng sau bữa ăn;
– Không uống rượu bia, sử dụng các chất kích thích khi lặn biển;
– Tuân thủ các hướng dẫn và quy tắc an toàn, không tự ý tách đoàn hoặc bơi ra xa;
– Nếu gặp vấn đề bất thường liên quan đến sức khỏe, dụng cụ lặn cần ra hiệu và báo ngay;
– Những ai có thể trạng không tốt, có bệnh về tim mạch, huyết áp nên cân nhắc;
– Tuyệt đối không giẫm đạp, bẻ ngắt, chạm vào san hô;
– Không chạm, bắt các loài động vật biển.
Hy vọng những thông tin hữu ích mà Taditours đã cung cấp, sẽ giúp bạn đưa Rạn san hô Great Barrier vào danh sách những địa điểm nên đến trong mùa hè này. Đây là nơi lý tưởng cho những ai đam mê khám phá dưới lòng biển. Chúc bạn có một chuyến đi vui vẻ và đầy ý nghĩa tại Rạn san hô Great Barrier, bờ biển Queensland, Đông Bắc Úc nhé!
Một câu chuyện về sự thành tín kéo dài suốt hơn 200 năm đã truyền đi một đạo lý thật đơn giản nhưng vô cùng đáng suy ngẫm ở đời: Đã hứa, nhất định phải giữ lời, phải thực hiện đến cùng!
Ảnh: cafebiz
Tại Hoa Kỳ , có một nghĩa trang được xây dựng dành cho Ulysses S. Grant, vị thống soái nổi danh đồng thời là Tổng thống thứ 18 của nước Mỹ mất năm 1885, nhưng thật bất ngờ, có một ngôi mộ của cậu bé nằm liền kề tổng thống ở sông Hudson, cách lăng tổng thống chưa đầy 100 mét, nhỏ nhưng gọn gàng và độc đáo Cảnh quan đặc biệt này đã thu hút mọi người từ khắp nơi trên thế giới dừng lại để ngắm nhìn và suy ngẫm sâu sắc.
Bên cạnh bia mộ đứa trẻ còn có một tấm bảng gỗ được ghi kín bởi những dòng chữ. Đó là những dòng chữ được thị trưởng thành phố New York, ông Giuliani viết vào năm 1997. Đoạn văn kể về một câu chuyện cảm động, câu chuyện về sự thành tín kéo dài suốt hơn 200 năm.
Câu chuyện xảy ra vào ngày 15 tháng 7 năm 1797. Vào ngày này, một cậu bé 5 tuổi tên là St. Claire Pollock cùng cha đi chăn thả cừu trên núi, trên đường đi, cậu bé không may bị rơi xuống vách đá và tử vong.
Quá đau buồn, người cha quyết định xây một ngôi mộ nhỏ cho con trai trên chính mảnh đất của mình, để không phải tự hành hạ mình với nỗi đau mất con, cha mẹ của đứa trẻ đã quyết định bán hết đất chuyển đi một nơi xa cách mộ con trai hơn một nghìn kilomet để sinh sống.
Điều đặc biệt là trong hợp đồng chuyển nhượng đất đai, cha của đứa trẻ đưa ra một yêu cầu đặc biệt đối với chủ sở hữu mới của mảnh đất là: mặc dù mảnh đất đó sẽ thuộc sở hữu của bạn trong tương lai, nhưng nghĩa trang của đứa trẻ phải được bảo tồn nguyên vẹn, và nghĩa trang không được phá bỏ hoặc san lấp mặt bằng mà không được phép, và nghĩa trang không bao giờ được phá hủy.
Ngôi một của cậu bé bên cạnh nghĩa trang Tổng thống Hoa Kỳ. (Ảnh internet)
Chủ đất mới đồng ý. Trong khoảng 100 năm, mảnh đất này đã được chuyển nhượng rất nhiều lần, thay thế rất nhiều chủ nhân. Nhưng điều khiến mọi người xúc động nhất chính là phần mộ của cậu bé vẫn đứng sừng sững ở nơi đó như lúc ban đầu.
Bởi vì trong mỗi một khế ước, đều có điều khoản bảo lưu phần mộ của cậu bé, hơn nữa, mỗi chủ nhân đều tuân thủ nghiêm khắc lời hứa của mình. Và điều mà người cha đứa trẻ cũng chưa bao giờ nghĩ tới là mộ của con trai mình cũng trở thành nơi xây dựng nghĩa trang tổng thống Hoa Kỳ.
Năm 1897, Tổng thống Grant qua đời, và chính phủ Hoa Kỳ đã mua mảnh đất này để làm nghĩa trang tưởng nhớ Tổng thống Grant. Chính phủ Hoa Kỳ cũng bảo lưu y nguyên phần mộ của cậu bé Pollock cho đến ngày nay. Và như vậy nơi mảnh đất ấy, một vị Tổng thống với nhiều chiến công hiển hách lừng lẫy của nước Mỹ làm hàng xóm với một cậu bé chăn cừu không tiếng tăm gì.
Vào tháng 7 năm 1997, kỷ niệm 100 năm hoàn thành nghĩa trang, thị trưởng thành phố New York – ông Giuliani trong một lần tới đây thăm Tổng thống Grant. Sau khi nghe được câu chuyện cảm động này, ông đã tự mình viết lên một tấm bảng gỗ đoạn văn kể về câu chuyện đó và chôn ở bên cạnh phần mộ của cậu bé.
Cựu Tổng thống Mỹ Ronald Reagan từng nói trong chuyến thăm nghĩa trang của Tổng thống Grant rằng: “Dù cậu bé chỉ là con cháu của một thường dân, nhưng cậu ấy cũng nên được hưởng sự đối xử tương tự như tổng thống. Bởi vì nghĩa trang của cậu ấy thuộc phạm vi tư nhân của cậu ấy và không bao giờ có thể bị phá hủy, không có lý do gì để bất kỳ ai tước quyền được yên nghỉ trong lãnh địa của chính mình”.
Ngày nay, tượng đài của người anh hùng Ukraine Bohdan Khmelnitskiy sừng sững giữa trung tâm Kiev nhưng di sản của ông vẫn còn gây tranh cãi sau hàng thế kỷ. Ông vừa là biểu tượng cho khát vọng độc lập của Ukraine, đồng thời cũng được xem là người đưa “Ukraine trở về với Nga”.
Tượng anh hùng Ukraine Bohdan Khmelnitskiy ở Kiev.
Giữa quảng trường trước Nhà thờ Thánh Sophia tại Kiev, tượng đài Bohdan Khmelnitskiy cưỡi ngựa, tay giương cao thanh kiếm, là một trong những biểu tượng nổi bật nhất về lòng yêu nước của người Ukraine. Ông được xem là một trong những vị cha già lập quốc. Tên ông được đặt cho thành phố Khmelnitskiy, và chân dung ông xuất hiện trên tờ tiền 5 hryvnia.
Khắp Ukraine, nhiều công viên, đường phố và quảng trường mang tên ông. Nhưng sau ánh hào quang ấy là một di sản lịch sử vừa rực rỡ, vừa đầy tranh cãi.
Bối cảnh lịch sử
Sau khi vương quốc Kievan Rus – nhà nước cổ của người Slav (tiền đề thân của Nga, Belarus, Ukraine ngày nay) – tan rã vì các cuộc xâm lược của đế chế Mông Cổ, khoảng trống quyền lực ở vùng đồng bằng sông Dnipro nhanh chóng bị các thế lực ngoại bang lấp đầy.
Liên bang Ba Lan–Litva (tồn tại từ 1569 – 1795) mở rộng về phía đông nam, áp đặt hệ thống phong kiến lên tầng lớp nông dân Chính thống giáo bản địa ở Ukraine – gọi là người Ruthenian. Những người này không chỉ bị buộc phải làm nông nô mà còn bị gạt khỏi đời sống chính trị – xã hội bởi sự thống trị của giới quý tộc Công giáo Ba Lan. Các giáo sĩ Chính thống giáo không được công nhận chính thức, và mọi nỗ lực duy trì bản sắc dân tộc đều bị đàn áp.
Trong khi đó, nước Nga (hay khi đó là Đại công quốc Moscow) là một thế lực đang lên, nhưng còn yếu thế hơn so với Liên bang Ba Lan–Litva. Nga cũng tự coi mình là người thừa kế của vương quốc Kievan Rus và là trung tâm bảo vệ đức tin Chính thống giáo sau khi đế quốc Byzantine sụp đổ vào năm 1453.
Vào năm 1480, Nga chính thức thoát ách đô hộ của Mông Cổ và bước vào thời kỳ phục hồi. Moscow bắt đầu theo dõi tình hình ở Ukraine, nơi khi đó do Đại công quốc Litva kiểm soát trước khi thành lập Liên bang Ba Lan–Litva.
Giới cầm quyền Nga giai đoạn này coi vùng đất Ukraine cùng theo Chính thống giáo là “anh em bị lạc lối”, cần được giải thoát khỏi ách cai trị của ngoại bang. Tuy chưa đủ sức can thiệp trực diện, nhưng Nga luôn tìm cơ hội mở rộng ảnh hưởng.
Trong bối cảnh bị áp bức về cả tôn giáo, chính trị lẫn kinh tế, những người Ruthenian sống ở Ukraine dần trở thành lực lượng kháng cự mạnh mẽ. Chính từ trong dòng chảy ấy, Bohdan Khmelnitskiy nổi lên, đại diện cho khát vọng thoát ly và xác lập một bản sắc Ukraine riêng biệt.
Cuộc nổi dậy định hình bản sắc Ukraine
Hình tượng anh hùng Ukraine Bohdan Khmelnitskiy.
Bohdan Khmelnitskiy sinh năm 1595 tại làng Subotiv (nay thuộc Ukraine), trong một gia đình điền chủ nhỏ. Thời điểm đó, phần lớn Ukraine nằm dưới quyền cai trị của Liên bang Ba Lan–Litva. Người nông dân Ukraine theo Chính thống giáo bị coi rẻ, không có quyền đại diện chính trị, sống kiếp nông nô trong một quốc gia Công giáo.
Sau mâu thuẫn cá nhân với viên chức địa phương Daniel Czaplinski, có thể vì đất đai hoặc vì vợ ông, Khmelnitskiy mất tài sản, con trai bị đánh đập đến chết. Ông khiếu kiện nhưng không được xét xử.
Từ bi kịch cá nhân, ông bắt đầu vận động giới thủ lĩnh Cossack (Cô-dắc) – một tầng lớp chiến binh bán du mục sinh sống tại vùng biên giới phía nam của Ba Lan–Litva và Nga – nổi dậy. Cossack phần lớn là hậu duệ của nông dân Ukraine trốn khỏi ách nô lệ, sống tự do ngoài vòng kiểm soát của các chính quyền trung ương. Họ tổ chức thành các cộng đồng tự trị, giỏi cưỡi ngựa, bắn súng và chiến đấu.
Năm 1647, ông cùng một nhóm nhỏ chiến binh Cossack đánh tan một đồn binh Ba Lan–Litva tại miền nam Ukraine. Năm sau, ông được bầu làm hetman – danh hiệu quân sự cao nhất.
Cuộc nổi dậy nhanh chóng lan rộng. Với sự hỗ trợ từ quân đội Hãn quốc Krym (tồn tại từ 1441 – 1783), Khmelnitskiy chiếm được thành Kiev, Chernihiv, Lviv và nhiều thành phố lớn. Đỉnh điểm là trận Zboriv, nơi liên quân Ukraine–Krym đánh bại đội quân 25.000 người của Liên bang Ba Lan–Litva. Hiệp ước Zboriv được ký kết, nhà nước Ukraine dù chưa vươn tới quy mô như ngày nay, có thể nói đã chính thức được hình thành dưới sự lãnh đạo của Khmelnitskiy.
Giao kèo định mệnh với Moscow
Bohdan Khmelnitskiy được chào đón ở Kiev vào năm 1649.
Sau một thất bại nặng nề tại trận Berestechko năm 1651, quân Ukraine suy sụp còn đồng minh Krym quay lưng. Trong thế yếu, Khmelnitskiy quyết định tìm kiếm sự bảo trợ từ Moscow – thế lực đang lên lúc này và cùng theo Chính thống giáo.
Năm 1654, Khmelnitskiy cùng giới quý tộc Cossack tuyên thệ trung thành với Sa hoàng Nga Alexei Mikhailovich (trị vì 1645–1676). Sự kiện này đánh dấu việc Hetmanate Cossack — vùng lãnh thổ do Khmelnitskiy kiểm soát ở Ukraine — được đặt dưới sự bảo hộ của Sa hoàng, với quy chế tự trị rộng rãi trong khuôn khổ nhà nước Nga.
Các nhà sử học hiện đại cho đến nay vẫn chưa đi đến thống nhất trong việc giải thích ý định của Sa hoàng Nga và Khmelnitskiy khi ký kết thỏa thuận này. Hiệp ước hợp pháp hóa các yêu sách của Nga đối với các vùng lãnh thổ trước đây từng thuộc vương quốc Kievan Rus và củng cố ảnh hưởng của Sa hoàng trong khu vực. Ở phía bên kia, Khmelnitskiy cần hiệp ước để Ukraine có được sự bảo vệ và hỗ trợ từ một thế lực Chính thống giáo thân thiện.
Sau sự kiện năm 1654, cục diện khu vực thay đổi đáng kể. Nga chính thức bảo trợ cho Ukraine, còn Hãn quốc Krym – đồng minh cũ của Khmelnitskiy – quay sang ủng hộ Ba Lan-Litva. Hãn quốc Krym mở các cuộc tấn công vào lãnh thổ Ukraine, khiến nhiều vùng bị tàn phá và dân chúng sơ tán.
Để đáp trả, quân Khmelnitskiy – phối hợp với quân Nga – phản công mạnh mẽ. Trong lúc đó, Thụy Điển cũng nhảy vào cuộc chiến, làm tình hình thêm hỗn loạn. Đế quốc Nga không hài lòng vì Thụy Điển chiếm trước các vùng đất mà họ nhắm tới và mở mặt trận mới với Thụy Điển.
Căng thẳng giữa Khmelnitskiy và Sa hoàng Nga lúc này gia tăng. Ông tức giận khi Nga tự ý ký hiệp định riêng với Ba Lan-Litva, gây chiến với Thụy Điển mà không thông báo cho ông, đồng thời ngày càng can thiệp sâu vào công việc nội bộ của vùng đất Ukraine do ông cai trị.
Lãnh thổ do Bohdan Khmelnitskiy kiểm soát sau cuộc khởi nghĩa chống lại liên bang Ba Lan - Litva.
Dù đang lâm bệnh nặng, ông vẫn tiếp tục tự mình thực hiện các hoạt động ngoại giao. Ngày 22/7/1657, Khmelnitskiy bị đột quỵ sau một cuộc tiếp kiến với đại diện Sa hoàng Nga. Ông qua đời vào sáng sớm ngày 27/7 ở tuổi 62. Ông được chôn cất tại quê nhà Subotiv (nay thuộc Ukraine). Năm 1664, khi quân Ba Lan chiếm lại Subotiv, có tài liệu cho rằng viên tướng Ba Lan Stefan Czarniecki đã cho khai quật và xúc phạm thi thể của Khmelnitskiy và con trai ông – dù điều này vẫn còn gây tranh cãi.
Năm 1667, 10 năm sau khi Khmelnitskiy qua đời, Nga và Liên bang Ba Lan–Litva ký Hiệp ước Andrusovo, đánh dấu sự kết thúc tạm thời của chuỗi giao tranh đẫm máu kéo dài hàng thập kỷ. Lãnh thổ Ukraine lúc đó bị chia làm hai phần: tả ngạn sông Dnipro (phía đông) thuộc Nga và hữu ngạn (phía tây) thuộc Liên bang Ba Lan–Litva.
Điều đáng chú ý là Sa hoàng Nga khi đó không buộc đối phương trả lại hài cốt Khmelnitskiy.
Biểu tượng chính trị qua các thời đại
Trong thời kỳ đế quốc Nga, Khmelnitskiy được tôn vinh như biểu tượng cho sự gắn kết giữa Nga và Ukraine. Bức tượng Khmelnitskiy ngồi trên lưng ngựa tại Kiev được khởi công từ năm 1863 và hoàn thành năm 1888.
Vào thời Liên Xô, ông tiếp tục được ca ngợi. Năm 1954, nhân kỷ niệm 300 năm hiệp ước Pereyaslavl, lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev quyết định chuyển giao bán đảo Crimea cho Ukraine, đồng thời đổi tên thành phố Proskuriv thành Khmelnitskiy – như một lời tri ân.
Ngày nay, phần lớn người Ukraine vẫn xem Bohdan Khmelnitskiy là anh hùng dân tộc. Khảo sát năm 2018 cho thấy 73% dân chúng có cái nhìn tích cực về ông. Tổng thống Ukraine Viktor Yushchenko (giai đoạn 2005 – 2010), từng tuyên thệ nhậm chức với cây quyền trượng của Khmelnitskiy.
Tuy nhiên, tại miền tây Ukraine – nơi có nhiều người theo Công giáo và có di sản gắn với Liên bang Ba Lan–Litva – Khmelnitskiy bị xem là kẻ phản bội.
Dù vậy, vai trò và vị thế của Khmelnitskiy vẫn luôn được xem trọng ở Ukraine. Trong bối cảnh Ukraine đang tìm kiếm những hình tượng lịch sử để đoàn kết quốc gia, Khmelnitskiy – với tất cả những hào quang và tranh cãi – vẫn là cái tên được nhắc đến như biểu tượng cho khát vọng độc lập.
Chu Đôn Nho 朱敦儒 (1081-1159) tự Hy Chân 希真, người Lạc Dương, thiếu thời chí hạnh thanh cao, không chịu làm quan, về sau nhiều lần triều đình trưng triệu, mới ra làm quan một thời gian. Hai quyển Tiều ca của ông cho thấy rõ vẻ thanh đạm tiêu sơ trong tình tự bất mãn.
Điều quan trọng nhất để con người tìm thấy vẻ đẹp kỳ diệu của đời sống là đức tin. Và đức tin không chỉ dành cho con người mà là sự tồn tại của chính các vị Thánh.
Mỗi sáng thức dậy, bạn có thể thấy thêm một cuốn sách Thánh được in ra, thêm một nhà thờ, thêm một ngôi chùa mọc lên trên thế gian của chúng ta. Và mỗi sáng thức dậy, bạn có thể thấy thêm một người đến nhà thờ, đến với chùa chiền, đến với các buổi giảng kinh... Nhưng mỗi sáng thức dậy, bạn sẽ thấy thêm một người đánh mất đức tin vào đời sống trên thế gian này và trở nên tuyệt vọng hoặc trở nên tội lỗi.
Và có lẽ, trong lịch sử nhân loại, chưa bao giờ những cuộc chiến tranh lại nhiều như bây giờ và man rợ như bây giờ. Ngay trong chính đời sống của mỗi con người đang hiện hữu trên thế gian này, chúng ta cũng nhận ra chúng ta dần dần trở lên mù loà trong chính ánh sáng mà chúng ta từng được khai mở và được ban phước.
Thế gian đang đến gần với Thiên đường như con người trên thế gian này đêm ngày nguyện cầu hay đang lạc đường và tàn lụi ? Với cái nhìn một cách đầy đủ và công bằng vào đời sống của con người, chúng ta có thể nói: thế gian đang lạc đường và tàn lụi.
Bạn có thể không đồng tình với câu trả lời như một sự tuyệt vọng này của tôi. Bởi bạn đang sống trong một đời sống nhiều của cải vật chất hơn. Bạn đang mỗi ngày lút sâu trong đầm lầy của thói ngạo mạn và tăm tối khi thấy mình đang sở hữu nhiều vật chất và quyền lực hơn tổ tiên, ông bà, cha mẹ bạn.
Nhưng nếu chúng ta đặt câu hỏi về đời sống này với đúng bản chất tinh thần của nó và lắng nghe câu trả lời thành thực nhất theo một phép liên hoàn từ nhiều thế hệ trong gia đình bạn: cụ kỵ, ông bà, cha mẹ...thì bạn sẽ nhận thấy những câu trả lời này sẽ dựng lên một lộ trình của tinh thần đời sống giống như tiến trình đóng băng của một dòng sông.
Dòng nước bị băng hoá từ từ và cuối cùng trở nên bất động: cái chết của dòng chảy - sự sống. Sự băng giá từ từ hay một cái chết chậm không làm cho bạn nhận biết về nó. Ngược lại, bạn đã lầm tưởng bạn đang đến gần với một thế giới ánh sáng.
Cũng trong hơn 100 năm nay, từ thế kỷ 20 đến thập niên đầu của thế kỷ 21, các cuộc chiến tranh tôn giáo trở nên tồi tệ hơn bao giờ hết. Sự mù loà về Thượng đế, Thần Phật hay các vị Thánh và đức tin bắt đầu từ chính những nơi ở ngay trên thế gian này mà chúng ta tin Thượng đế, Thần Phật hay các vị Thánh thường đến trú ngụ.
Cho dù tôi không hiểu một chút nào về bản chất của các tôn giáo hay lịch sử của nó thì tôi vẫn có thể cất lên một câu hỏi chính xác về những gì đang xẩy ra trong đời sống tôn giáo của nhân loại: Chúng ta sẽ lý giải như thế nào khi những người Thiên chúa giáo tìm mọi cách chống lại những người Hồi giáo hay những người Phật giáo và ngược lại.
Tại sao Jesus lại đối nghịch với Đức Phật hay Thánh Ala? Mọi đối nghịch một cách tồi tệ và u tối này sinh ra bởi chính chúng ta. Thật hổ thẹn và tội lỗi khi một người Thiên chúa giáo kêu gọi chống lại một người Hồi giáo và ngược lại. Nhưng điều tồi tệ này đã và đang xảy ra.
Nó làm cho tinh thần tối thượng của các tôn giáo bị tàn phá. Nó làm cho chúng ta tin rằng lực lượng của Bóng tối đã chiếm ngự thế gian như quá nhiều các tác phẩm văn học, điện ảnh và những lời tiên tri đã thường đề cập tới là một hiện thực.
Lời truyền tin (2000), sơn dầu trên vải, Nguyễn Đình Đăng
Những "Nhà nước" của các tôn giáo là những người đầu tiên chịu trách nhiệm về việc mở cửa cho lực lượng của Bóng tối tràn đến thế gian.
Còn đối với những người vô thần lúc này lại có quá nhiều cơ hội để cười nhạo các tôn giáo và các vị Thánh. Và trong mắt họ lúc này, nhà thờ hay chùa chiền chỉ là những túp lều được sơn quét sặc sỡ mị dân phù phiếm trên một thế giới quá nhiều lầm lạc, nhiều thù hận và nhiều tội lỗi và trở lên trơ trẽn.
Khai mạc Thánh lễ tại Sở Kiện, huyện Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam. Ảnh: MT
Phải chăng Chúa và Phật đang bỏ loài người như ca từ trong một bài hát của nhạc sỹ Trịnh Công Sơn? Không, Họ không rời bỏ chúng ta như những vẻ đẹp của đời sống này không rời bỏ chúng ta. Chỉ chúng ta đang trở lên mù loà và mỗi ngày rời bỏ Họ. Chúng ta ngày ngày tìm đến những nơi chốn tôn nghiêm và quỳ gối hay cúi đầu cầu xin Thượng đế, Thần Phật và các vị Thánh ban phước cho chúng ta. Và quá nhiều người trong chúng ta trở nên tức tối hoặc tuyệt vọng khi những lời cầu xin của chúng ta không được đáp lại.
Thực tế, hàng ngày, Thượng đế vẫn gửi những món quà cho chúng ta. Chỉ có điều chúng ta không nhận ra những món quà ấy. Bởi chúng ta đã hoàn toàn hiểu sai lệch và lạc đường trong hành trình đi tìm những vẻ đẹp vĩnh hằng của đời sống.
Nhiều lúc nhìn con người chen chúc nhau trên mọi ngả đường của thế gian, chúng ta giật mình kinh hãi nhận ra rằng: chúng ta đang mang trên mình những con mắt và những cái tai giống đồ mỹ ký không một chút giá trị thực nào. Chúng ta không có khả năng nhìn ra những vẻ đẹp và không có khả năng nghe thấy những điều kỳ diệu trong đời sống của mình.
Giáng sinh năm ngoái, tôi không đi nhà thờ mà ngồi xem lại bộ phim hoạt hình The Polar Express khi chuông nhà thờ ở thị xã Hà Đông vang lên trong giá lạnh.
Bộ phim kể về một cậu bé đã đi một chuyến tàu trong giấc mơ lên phương Bắc. Ở đó, cậu đã gặp ông già Noel và được tặng một chiếc chuông gắn trên chiếc xe kéo tuần lộc. Sáng hôm sau, khi tỉnh dậy, cậu bé mở một gói quà và thấy chiếc chuông đó. Cậu lắc khẽ chiếc chuông và một âm thanh diệu kỳ mà cậu đã nghe thấy trong cơn mơ của mình giờ đây đang tràn ngập tâm hồn cậu. Cậu tin cậu đã đến được miền đất ấy và gặp được ông già Noel.
Nhưng khi cha mẹ cậu nhìn thấy chiếc chuông cũ kỹ thì muốn vứt đi. Cậu bé nói cho cha mẹ mình về tiếng chuông diệu kỳ ấy. Cả hai người lớn kia lắc mãi và lắc mãi chiếc chuông nhưng họ không nghe thấy gì. Họ không tin có điều ấy.
Tiếng chuông diệu kỳ kia là có thật. Nó không phải là chuyện cổ tích. Nhưng chỉ có những cái tai của một tâm hồn trong sáng và tràn ngập đức tin thì mới nghe thấy. Những người lớn chúng ta đã đánh mất tâm hồn ấy và chúng ta không hề nghe được những điều kỳ diệu của đời sống này. Các vị Thánh cùng những phép thiêng không bao giờ rời bỏ chúng ta. Họ luôn luôn ở bên cạnh chúng ta đợi tâm hồn và đức tin chúng ta hồi phục như những bà mẹ thức trắng bên giường những đứa con đang trong cơn sốt mê sảng và chờ chúng tỉnh dậy.
Có rất nhiều cậu bé, cô bé trên thế gian này giống cậu bé trong bộ phim kia đã đến được nơi chốn mà chúng ta thường nhếch mép cười khẩy và mỉa mai đó chỉ là một ảo giác. Nhưng chúng ta lại luôn luôn nói về Thiên đường và cầu xin được đến Thiên đường sau khi rời bỏ đời sống thế gian này. Và sự khao khát đến được Thiên đường của chúng ta như thế rõ ràng là một thói hưởng thụ như mọi thói hưởng thụ vật chất trong đời sống chúng ta mà thôi. Chúng ta không hề hiểu rằng: chỉ có một đời sống đích thực ý nghĩa của chúng ta mới đủ trả cho tấm vé lên chuyến tàu đến Thiên đường của mỗi chúng ta.
Nhưng điều tối quan trọng là chúng ta đã sai lầm tệ hại khi hiểu rằng giữa thế gian chúng ta đang sống và Thiên đường được phân cách bằng một đường biên giới như đường biên giới giữa các quốc gia. Thế là, chúng ta cho phép mình sống tuỳ tiện với mọi ham muốn thấp hèn ở phần bên này của đời sống: Thế gian mà không chịu hối hận. Rồi chúng ta đợi một ngày với ý nghĩ rằng những khôn lỏi và mưu mô sẽ giúp chúng ta nhanh chân hơn người khác lọt sang phía bên kia: Thiên đường, để tha hồ tiếp tục hưởng thụ và thoả mãn những dục vọng của chúng ta như khi đang sống ở Thế gian mà chẳng phải làm gì.
Thực tế, chỉ có một đường biên giới duy nhất giữa thế gian và Thiên đường. Đó là chính thân xác tội lỗi của chúng ta. Khi chúng ta ngăn chặn mọi cuộc chiến tranh, huỷ diệt mọi hận thù, khi chúng ta chia sẻ và yêu thương con người và thiên nhiên một cách chân thành, khi chúng ta luôn mỉm cười với người bên cạnh, khi chúng ta thấy ngập tràn hạnh phúc mỗi lúc chìa bàn tay nhân ái về phía những số phận khổ đau... thì ngay lập tức Thiên đường tràn ngập ngay nơi ta ở, cho dù đó là một căn phòng chật chội và treo nhiều quần áo cũ.
Tại sao chúng ta lại không chịu thừa nhận những điều kỳ diệu của đời sống như thừa nhận tiếng chuông mà cậu bé nghe được trong cơn mơ của mình? Tại sao chúng ta lại không hiểu đó là một hiện thực? Bởi chúng ta là những kẻ bị chủ nghĩa vật chất mê dụ.
Chúng ta chỉ muốn thừa nhận những điều kỳ diệu của đời sống này như thừa nhận sự hiện diện của những miếng bít tết trên đĩa sứ. Nó làm thoả mãn vị giác của chúng ta và những cơn đói nhục dục.
Có một câu hỏi mà một người bạn tôi từng hỏi nhưng chưa ai trả lời làm thoả mãn ông. Câu hỏi đó là: Nếu Chúa Jesus, thánh Ala và Đức Phật có quyền năng tối thượng sao Họ không "phẩy tay" để xua đi ngay lập tức mọi đói rét, bệnh tật, thù hận, khổ đau trên thế gian này mà cứ để thế gian chìm đắm mãi trong bóng tối của những đau khổ ấy?
Tôi đã nói với bạn tôi rằng câu trả lời ở đây chính là vấn đề về đức tin và ý nghĩa đích thực của hạnh phúc.
Điều quan trọng nhất để con người tìm thấy vẻ đẹp kỳ diệu của đời sống của họ là đức tin. Và đức tin không chỉ dành cho con người mà là sự tồn tại của chính Họ. Nếu Họ, Chúa Jesus, thánh Ala, Đức Phật... không làm cho con người có đức tin thì Họ là những người thất bại đầu tiên.
Khi tất cả con người trên thế gian này không còn đức tin thì hoặc Họ không còn lý do gì để hiển hiện trong một hình thức nào đó trên thế gian này nữa hoặc Họ phải dời đến một một nơi chốn nào đó trong vũ trụ.
Thượng đế đã mở sẵn lối đi đến Thiên đường và đã mách bảo chúng ta hàng ngày mà chúng ta không hề nghe thấy. Và bi hài thay, có không ít những người Thiên chúa giáo, những người Hồi giáo và những Phật tử lại luôn luôn tranh giành quyền sở hữu Thiên đường như một quyền lợi cho nhóm của mình. Đấy chính là sự lạc đường và suy tàn của chúng ta. Và đấy là nguyên nhân sinh ra những cuộc chiến tranh tôn giáo ngập tràn máu chảy và sự hận thù. Đấy là một tội lỗi kinh khủng nhất bởi có những người, hay những nhóm người lợi dụng sự sợ hãi, lợi dụng lòng tin một cách ngây thơ của con người, lợi dụng bản chất huyền diệu của tôn giáo để thoả mãn những dục vọng của mình.
Chúng ta đang mắc một sai lầm khi nghĩ rằng chỉ khi mình trở thành con chiên của Chúa, của thánh Ala hay là đệ tử của Đức Phật thì chúng ta sẽ được Họ ban phước. Tôi hoàn toàn tin có một Đấng Tối Cao mà Chúa Jesus, thánh Ala và Đức Phật là hiện thân của Người trên thế gian này để khai mở tâm hồn con người và cứu vớt con người. Họ không phải những Người phân chia quyền lực và lôi kéo con người trên thế gian về phe mình. Nhưng hiện thực của thế giới tôn giáo đặc biệt trong đời sống hiện đại đã đi ngược lại bản chất tinh thần tối thượng của nó.
Nhưng trong đêm khuya khoắt này, cho dù tôi đang viết những lời đầy buồn bã và thất vọng này thì trên thế gian chúng ta có bao ngôi nhà ấm áp và lấp lánh ánh lửa. Ở đó, có biết bao người đang nói với nhau về những điều tốt đẹp và huyền diệu của đời sống. Và có biết bao đưa trẻ đã lên con tàu trong cơn mơ của chúng để đến với miền đất kỳ diệu. Để sáng hôm sau thức dậy, chúng mang một niềm tin bất diệt về những điều kỳ diệu mà chúng đã được ban phước. Chúng sẽ mang theo đức tin ấy để từng ngày xây dựng một thế giới tốt lành trên thế gian còn quá nhiều bóng tối và máu chảy của chúng ta.
Tôm hùm, nấm sâu bướm từng có giá rẻ nhưng giờ trở thành món ăn đắt đỏ vì hương vị tinh tế và sự khan hiếm.
Nấm sâu bướm: Đây là loại nấm ký sinh trên sâu bướm trong tự nhiên, được đánh giá cao trong y học cổ truyền Trung Quốc qua nhiều thế kỷ nhờ lợi ích sức khỏe như chữa mệt mỏi, bệnh thận và giảm ham muốn tình dục. Nó được biết đến nhiều hơn với tên "đông trùng hạ thảo" và từng rất rẻ trong quá khứ.
Thương mại hóa và nhu cầu tăng cao, đặc biệt trong y học cổ truyền Trung Quốc, đã biến nó thành loại nấm ăn đắt nhất thế giới, thậm chí đắt hơn nấm cục trắng. Nấm mọc tự nhiên ở cao nguyên Tây Tạng và vùng Himalaya, được cộng đồng địa phương thu hái để sử dụng trong y tế truyền thống. Sự khan hiếm và điều kiện sinh trưởng đặc biệt góp phần vào giá cao hiện nay. Ảnh: Insider
Caviar: Khoảng 300 năm trước, trứng cá tầm muối (caviar) là món ăn rẻ tiền, thường được phục vụ miễn phí với đồ uống ở quán rượu để tăng doanh thu - giá chỉ khoảng 2 USD mỗi kg. Đầu thế kỷ 20 đánh dấu sự thay đổi khi quần thể cá tầm Mỹ suy giảm do đánh bắt quá mức và tác động của cách mạng công nghiệp.
Khi nguồn cung cá tầm sụp đổ, giá caviar tăng vọt, biến nó thành món ăn sang trọng chỉ dành cho giới giàu có và nổi tiếng. Ngày nay, caviar chất lượng cao đắt đỏ do nguồn cung hạn chế, phương pháp thu hoạch và chế biến phức tạp cùng quy định nghiêm ngặt về đánh bắt cá tầm. Loại caviar đắt nhất thế giới có thể lên đến 500 USD mỗi thìa cà phê. Ảnh: Vital Choice
Bò Wagyu: Loại A5 Kobe Wagyu là món steak đắt đỏ nhất thế giới. Tuy nhiên, vào đầu thế kỷ 20, chất lượng Wagyu bị đánh giá kém hơn so với giống bò nhập khẩu từ Mỹ và châu Âu. Sau năm 1868, bò ngoại được nhập vào Nhật Bản, dẫn đến lai chéo rộng rãi với giống địa phương, tạo ra "bò Nhật cải tiến".
Năm 1944, bốn giống Wagyu được công nhận chính thức gồm Japanese Black (bò đen Nhật), Japanese Brown (bò nâu Nhật), Japanese Polled (bò Nhật không sừng) và Japanese Shorthorn (bò Nhật sừng ngắn) - trong đó Japanese Black vùng Tajima chiếm 90%.
Thịt bò Wagyu và đặc biệt Kobe Wagyu nổi tiếng toàn cầu vào thập niên 1980-1990. Năm 1983, Hiệp hội Tiếp thị và Phân phối Thịt bò Kobe được thành lập để định nghĩa và quảng bá thương hiệu, đặt tiêu chuẩn nghiêm ngặt cho nhãn Kobe. Chất lượng vượt trội của Wagyu kết hợp với thành công marketing đã đẩy giá lên cao, trở thành biểu tượng của ẩm thực cao cấp. Ảnh: Cross Creek
Tôm hùm: Thời kỳ đầu ở Tân Thế giới, tôm hùm dồi dào dọc bờ biển, chỉ được coi là tài nguyên thông thường. Chúng thậm chí được phục vụ cho tù nhân và nô lệ với một số tài liệu gọi là "gián biển". Theo thời gian, nhu cầu tăng cao kết hợp với đánh bắt quá mức và suy thoái môi trường dẫn đến khan hiếm.
Khi nguồn cung giảm, tôm hùm bắt đầu lên ngôi. Ngày nay, tôm hùm gắn với định nghĩa của sự xa xỉ, xuất hiện ở nhà hàng cao cấp và có giá cao ở chợ hải sản toàn cầu. Ảnh: Vital Choice
Foie gras: Gan ngỗng (foie gras) - món ngon từ gan béo của vịt hoặc ngỗng - có lịch sử lâu dài và gây tranh cãi. Thời trung cổ, gan ngỗng là phần quan trọng trong ẩm thực nông dân Do Thái, dùng làm nguồn mỡ rẻ tiền. Đến thời Phục hưng, nó dần biến thành món ngon được giới giàu có săn đón, đến mức họ cử người hầu đến Rome để mua. Sự chuyển biến này phản ánh thay đổi nhận thức và giá trị của gan ngỗng theo thời gian.
Tuy nhiên, phương pháp sản xuất, đặc biệt là vỗ béo, gây tranh cãi về phúc lợi động vật, dẫn đến quy định ở nhiều quốc gia. Nguồn cung hạn chế và quy trình tốn thời gian làm tăng giá. Ảnh: RDsI
Ốc sên: Ốc sên từng dồi dào và có giá rẻ nhưng nay trở thành món đắt đỏ ở nhiều nền ẩm thực như Hy Lạp, Catalan và Pháp. Thịt của một số loài ốc sên đất như ốc Burgundy được đánh giá cao nhờ hương vị độc đáo và kết cấu mềm. Món này thường được nấu với bơ tỏi và thảo mộc, phục vụ như món khai vị hoặc chính, trở thành biểu tượng của ẩm thực tinh tế. Ảnh: Merebrook
Cá vược: Trong quá khứ, cá vược (monkfish) bị thực khách bỏ qua và đánh giá kém hấp dẫn do ngoại hình đáng sợ và giải phẫu lạ. Nó thậm chí từng bị cấm bán ở chợ cá Pháp. Tuy nhiên, nhiều người nhận ra phần thịt đuôi của nó rất ngon, hương vị tinh tế như tôm hùm nên cá này còn được gọi "tôm hùm của người nghèo". Sự phổ biến tăng vọt làm nhu cầu cao, biến nó thành nguyên liệu cao cấp. Ảnh: Harbor Fish Market
Cái chết của danh tướng phe Đông Ngô, người lập kế hoạch bắt Quan Vũ, chiếm Kinh Châu được tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa phác họa một cách hết sức kỳ lạ, không giống với bất kỳ cái chết nào khác.
Lã Mông là một trong tứ đại Đô đốc của Đông Ngô.
Bên cạnh Gia Cát Lượng, Tào Tháo, tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa của tác giả La Quán Trung cũng đề cập đến những nhân vật kiệt xuất khác thời Tam quốc như Quan Vũ, Tôn Quyền, ngũ hổ tướng Thục Hán… Loạt bài này sẽ làm rõ những tình tiết hư cấu trong tiểu thuyết cũng như khai thác yếu tố mà Tam quốc diễn nghĩa không đề cập đến.
Theo trang mạng TimeTW, Lã Mông (178-220), tự Tử Minh, người Phú Bi, huyện Nhữ Nam, Trung Quốc. Ông là danh tướng cuối thời Đông Hán trong lịch sử Trung Quốc thời cổ đại.
Danh tướng văn võ song toàn
Lã Mông sinh ra trong thời chiến loạn, phải sống trong cảnh nghèo khổ. Lớn lên, ông nương nhờ người anh rể là Đặng Dương, vốn là tướng dưới quyền của Tôn Sách, thủ lĩnh ở Giang Đông.
Năm 16 tuổi, Lã Mông giấu gia đình, bí mật theo Đặng Dương chinh phạt quân San Việt. Sau này, Đặng Dương phát hiện ra Lã Mông làm lính trong quân của mình nên đem việc này nói với mẹ ông khiến bà rất tức giận, mắng ông và không cho ông tòng quân.
Lã Mông liền giải thích với mẹ rằng, “Chúng ta không thể sống nghèo khổ mãi, nếu có thể tự chứng tỏ bản thân qua những công việc khó khăn, thì sự giàu sang mới có thể đến với mình. Nếu không vào hang hổ thì làm sao mà có thể bắt được hổ con”.
Bà mẹ nghe lời giải thích của ông cũng rất cảm động, nên đồng ý cho ông đi theo con đường của riêng mình, trở thành bộ hạ cho thủ lĩnh Giang Đông là Tôn Sách.
Năm 200, Tôn Sách qua đời, em trai là Tôn Quyền lên nắm quyền. Khi duyệt binh, Tôn Quyền nhìn thấy đội ngũ của Lã Mông thì rất hài lòng, nhận định Mông có tài trị quân, bèn giao thêm binh sĩ.
Về sau, Lã Mông theo Tôn Quyền chinh chiến khắp nơi, bao gồm đại chiến Xích Bích, lập nhiều đại công, gây dựng thanh danh.
Lã Mông vốn là võ tướng, không màng đến việc "dùi mài kinh sử". Có lần, Tôn Quyền bèn khuyên ông đọc sách. Nhưng ông thoái thác nói công việc bận không có thời gian.
Nhờ Tôn Quyền góp ý mà Lã Mông mới động đến sách, tiếp thu tri thức.
Tôn Quyền lại khuyên: "Ta chỉ cần ngươi đọc hiểu sách vở. Lẽ nào ngươi còn bận hơn cả ta?". Từ đó, Lã Mông mới bắt đầu động đến sách vở, tri thức nhanh chóng vượt xa nhiều văn thần cùng thời. Trong khi đó, Lỗ Túc có phần xem thường Lã Mông.
Một lần, Túc đi qua nhà Lã Mông, vừa hay nghe thấy Lã Mông nói về 5 kế sách phòng bị Quan Vũ. Lỗ Túc nghe xong ngỡ ngàng, thốt lên: "(Lã Mông) không còn là Ngô hạ A Mông nữa rồi".
Lã Mông đáp: “Kẻ sĩ ba ngày không gặp nhau thì nên rửa mắt mà nhìn”. Từ đó, Lỗ Túc và Lã Mông trở thành bạn tốt.
Chiếm Kinh Châu, uy chấn Trung Hoa
Năm 217, đại thần Đông Ngô, Lỗ Túc qua đời, Lã Mông trở thành Đại đô đốc, nhân vật quyền lực số hai dưới trướng Tôn Quyền. So với Lỗ Túc luôn chủ trương “dĩ hòa vi quý” với Thục Hán, Lã Mông lại là người luôn phản đối Tôn Quyền liên minh cùng Lưu Bị.
Nhờ sự tư vấn của Lã Mông, Tôn Quyền xuôi theo chiến lược đánh Kinh Châu, triệt hạ tận gốc Quan Vũ. Bởi Lã Mông luôn cho rằng, “Quan Vũ quá mạnh, phải diệt đi mới yên tâm”.
Nhân lúc Quan Vũ tập trung đánh Phàn Thành, Lã Mông âm thầm đưa quân vượt sông. Lã Mông dùng chiến lược Bạch y độ giang, ra lệnh cho quân sĩ mặc đồ trắng, cải trang thành thương nhân qua sông, đồng thời cử tinh binh mai phục trong các thuyền nhỏ, do đó nhanh chóng vượt qua các chốt phòng thủ gần bờ sông của Quan Vũ, vượt sông tiến vào vùng Kinh châu.
Trong khi Quan Vũ chưa biết tin tức gì về hoạt động của quân Đông Ngô, Lã Mông nhanh chóng đoạt được Nam quân, rồi sai Ngu Phiên đến thuyết hàng hai tướng Phó Sĩ Nhân và Mi Phương. Hai tướng này vốn bất mãn với Quan công nên đồng ý, đầu hàng, dâng thành cho Tôn Quyền.
Có thể nói, phần lớn công lao trong chiến dịch này thuộc về Lã Mông. Kinh châu cũng là trận đánh đỉnh cao nhất trong sự nghiệp cầm quân của ông.
Lập đại công nhưng Lã Mông cũng không sống được lâu.
Lã Mông lại dùng chính sách Hoài Nhu, ra lệnh cho quân lính không được cướp đoạt và chém giết bách tính vô tội. Lúc đó có người đồng hương với Lã Mông ăn bớt vật tư, bị sĩ tốt phát hiện. Lã Mông không vì nể tình riêng, ra lệnh xử tử người đó khiến quân sĩ rất khâm phục.
Lã Mông còn tìm cách lấy lòng dân chúng, thăm hỏi người già, tặng thuốc cho người bệnh,... Đối với tài sản của Quan Vũ, Lã Mông cho phong bế lại và đưa lên Tôn Quyền, tuyệt đối không cắt xén một xu.
Quan Vũ sau khi biết chuyện Kinh châu thất thủ, vội vã chạy về Mạch Thành. Tuy nhiên, quân sĩ của Quan Vũ lần lượt ra hàng Đông Ngô. Tôn Quyền lại sai Phan Chương, Chu Nhiên chặn đường chạy về phía tây của Quan Vân Trường. Ngày 2.1.220, Quan Vũ bị bắt và bị chém đầu không lâu sau đó, Kinh Châu hoàn toàn thất thủ.
Cái chết bí ẩn
Sau khi lập đại công, Lã Mông được Tôn Quyền thăng chức Nam quận thái thú, tước Sàn Lăng hầu, ban 5000 cân hoàng kim. Lã Mông cáo ốm, thoái thác không nhận nhưng Tôn Quyền nhất quyết không đồng ý, vẫn phong chức tước và của cải quý.
Vài tháng sau, Lã Mông lâm bệnh nặng, qua đời ở tuổi 43. Cái chết của Lã Mông được La Quán Trung, tác giả tiểu thuyết Tam quốc diễn nghĩa hư cấu theo hướng thần thánh hóa Quan Vũ.
Chiến lược thành công nhất đời Lã Mông là đánh bại Quan Vũ, chiếm Kinh Châu.
Theo đó, trong buổi đại tiệc ăn mừng việc chiếm được Kinh Châu, "hồn" của Quan Vũ nhập vào xác Lã Mông, tự xưng là "Hán Thọ Đình hầu", chửi mắng Tôn Quyền một lúc rồi vật chết Lã Mông tại chỗ.
Có người còn đặt ra giả thuyết rằng, Tôn Quyền đã hạ độc Lã Mông để xoa dịu cơn giận của Lưu Bị. Mặt khác, những người này nhận định, Tôn Quyền cảm thấy công trạng của Lã Mông càng lớn, uy của mình sẽ càng yếu ớt dần, lại thấy Lã Mông tiện tay giết Quan Vũ, chọc giận Lưu Bị nên đã ra tay.
Giả thuyết này không được các học giả Trung Quốc ủng hộ, bởi Tôn Quyền đã xây dựng Đông Ngô hùng mạnh, không kém Lưu Bị kể từ sau trận Xích Bích.
Khi Lã Mông ngã bệnh, Tôn Quyền vô cùng lo lắng, xây nội điện cho ông nghỉ ngơi và mời danh y đến chữa trị, đồng thời rất quan tâm đến bệnh tình của ông.
Khi Lã Mông ăn được thì Tôn Quyền tỏ ra vui mừng, còn khi bệnh tình chuyển biến nghiêm trọng thì Tôn Quyền rất lo lắng. Khi thấy tình trạng bệnh của ông có cải thiện, Tôn Quyền mới lại triệu tập quần thần. Điều này chứng tỏ Tôn Quyền rất xem trọng Lã Mông.
Giả thuyết được đa số học giả Trung Quốc ủng hộ và cũng hợp lý nhất là việc Lã Mông qua đời do bệnh cũ tái phát.
Gia tộc họ Lã vốn có sức khỏe không được tốt. Lã Mông thường làm việc quên mình, lại có tật thích uống rượu nên bệnh về gan, dạ dày ngày càng nghiêm trọng.
Nơi an nghỉ của Lữ Mông tại thành phố Nam Xương, tỉnh Giang Tây ngày nay.
Trong chiến dịch tập kích Kinh Châu, Lã Mông làm việc căng thẳng suốt ngày đêm nên thường xuyên bị thổ huyết. Học giả Trần Văn Đức viết trong cuốn "Khổng Minh Gia Cát Lượng đại truyện" rằng, có thể Lã Mông đã bị viêm loét dạ dày tới thời kỳ trầm trọng.
Khi biết mình không còn sống được bao lâu nữa, Lã Mông gượng dậy, nhắc Tôn Quyền mở tiệc mừng công tướng sĩ. Bữa tiệc vốn bị trì hoãn trong thời gian Lã Mông ốm nặng. Tôn Quyền nghe tin rất vui, lệnh cho mở đại tiệc.
Tại buổi tiệc, Tôn Quyền hết lời ca ngợi, đề cao Lã Mông trước bá quan vì đã có công lớn thu hồi được Kinh Châu, điều mà những người tiền nhiệm như Chu Du, Lỗ Túc không làm được.
Các tướng lĩnh, quan viên văn võ lần lượt đến nâng ly chúc mừng còn Lã Mông cũng vui vẻ nâng ly đáp tạ. Ngay lúc đó, xuất hiện dạ dày bột phát, Lã Mông gục xuống ngay tại bàn tiệc. Trước khi chết, Lã Mông sai người đem những vàng bạc của cải của Tôn Quyền giao tặng trả lại hết cho triều đình, và dặn dò làm lễ tang chỉ nên giản đơn.
Tác giả cuốn Tam quốc chí, Trần Thọ khen Lã Mông là người mưu dũng song toàn, có nhiều mưu kế giỏi và kì diệu như dụ hàng Hác Phổ, bắt Quan Vũ...
Năm 1959, trong chuyến công tác tại tỉnh An Huy, Mao Trạch Đông đã có lời khen ngợi đối với Lã Mông, cho ông là người kiêu hùng dũng lược, chí khí và đánh giá cao những thành tích mà Lã Mông đạt được.
Có thể nói, Lã Mông cùng với Chu Du, Lỗ Túc và Lục Tốn là Đông Ngô tứ đại Đô đốc, những người nắm toàn quyền cai quản quân đội, quyền lực chỉ xếp sau Tôn Quyền.
Vương Bột 王勃 (649-675) tự Tử An 子安, người đất Long Môn. Sáu tuổi đã biết làm văn. Mười sáu, mười bảy tuổi nổi danh hạ bút nên vần.
Vương có thói quen, mỗi khi làm văn, mài mực sửa soạn nghiên bút rồi nằm đắp chăn ngủ. Khi tỉnh dậy, cầm ngay bút viết. Vương nổi tiếng là một thi sĩ cao danh thời Sơ Đường (618-713).
Khoảng 675-676, lúc 27-28 tuổi, Vương Bột bị đắm thuyền, chết đuối ở biển Nam Hải trên đường sang Giao Chỉ thăm cha.
Mô hình Ponzi là trò vay tiền của người này để trả nợ người khác. Kẻ đi vay đưa ra cam kết trả lợi tức cao cho người cho vay và quảng cáo với họ về những tấm gương đã từng nhận được lợi tức cao trước đây để hấp dẫn người cho vay. Người cho vay bị hấp dẫn bởi lợi tức cao lại thậm chí giới thiệu những người cho vay mới hơn (vai trò quảng cáo). Bằng hình thức này, kẻ đi vay càng ngày càng vay được những khoản tiền lớn hơn từ nhiều người cho vay mới hơn (để duy trì và đánh bóng hình ảnh kinh doanh thành công).
Người chủ của các mô hình Ponzi thường lôi kéo các nhà đầu tư mới bằng cách cung cấp lợi nhuận cao hơn so với các khoản đầu tư khác, với lợi nhuận ngắn hạn hoặc là cao bất thường hoặc kéo dài một cách bất thường.
Mô hình Ponzi đôi khi bắt đầu như một doanh nghiệp kinh doanh hợp pháp, cho đến khi doanh nghiệp không đạt được lợi nhuận kỳ vọng. Doanh nghiệp trở thành một mô hình Ponzi nếu nó sau đó tiếp tục các hành vi gian lận. Dù tình hình ban đầu như thế nào, việc phải trả lợi nhuận cao đòi hỏi một dòng chảy tiền ngày càng tăng từ các nhà đầu tư mới để duy trì mô hình này.
Ý tưởng này xuất hiện trong các tiểu thuyết Martin Chuzzlewit năm 1844 và Little Dorrit năm 1857 của Charles Dickens, nhưng Ponzi thực hiện nó trong đời thực và lấy được nhiều tiền đến nỗi mô hình này trở nên nổi tiếng toàn nước Mỹ.
II. Vụ lừa đảo của Charles Ponzi
Charles Ponzi không phải là người đầu tiên “thiết kế” ra kiểu lừa đảo Ponzi, nhưng kiểu lừa này được đặt theo tên ông ta vì cú lừa mà ông ta thực hiện đã khiến cả nước Mỹ phải chấn động vào thời đó.
Charles Ponzi sinh năm 1882 tại Ý. Dù được nhận vào học tại Đại học Rome, Ponzi xem đó như là một kỳ nghỉ dài để rồi khi hết tiền, ông buộc phải bỏ học và lên tàu tới kiếm sống ở Boston, Massachusetts (Mỹ). Toàn bộ số tiền mang theo cũng bị ông nướng sạch vào các cuộc đỏ đen và chỉ còn vỏn vẹn $2.50 khi tàu cập bến.
Nguồn elistmania.com
Tại xứ sở mới, Ponzi dành ra vài năm làm nhiều việc để kiếm sống. Thậm chí, có lúc ông rửa bát cho một nhà hàng và ngủ ngay trên sàn nhà. Nhưng nhờ làm việc chăm chỉ, Ponzi được thăng cấp lên vị trí bồi bàn để rồi bị sa thải vì tội lừa gạt khách hàng và trộm cắp.
Thất nghiệp, Ponzi tìm tới Montreal, Canada và trở thành người thu ngân trong chi nhánh mới mở của ngân hàng Banco Zarossi. Để thu hút khách, ông chủ Zarossi trả khoản lợi tức gấp đôi các đối thủ cạnh tranh cho bất cứ ai chịu gửi tiền vào ngân hàng của ông ta. Dù ăn nên làm ra, kì thực ngân hàng đang gặp rắc rối vì các khoản nợ xấu và hoàn toàn không có bất kì một khoản đầu tư nào. Để duy trì hoạt động, Zarossi thường lấy tiền của người sau trả cho người trước. Zarossi trốn sang Mexico trước khi ngân hàng sụp đổ.
Khi thành công đến
Sau một thời gian lang bạt và nhiều lần bị bắt vào tụ vì tội lừa đảo, Ponzi trở về Boston, yêu và cưới một cô gái trẻ có tên Rose Gnecco. Muốn cho vợ mình sớm được hưởng đời nhung lụa, Ponzi lao vào kiếm tiền. Ông từng đưa ra ý tưởng mà sau này người ta hình thành cuốn niên giám Yellow Pages để bán quảng cáo cho khách hàng, nhưng thất bại.
Nguồn: ponzisscheme.com
Một hôm Ponzi nhận được lá thư từ một công ty ở Tây Ban Nha đề nghị trao đổi về ý tưởng kinh doanh của anh. Trong thư có một tấm phiếu IRC. IRC có thể sử dụng như một con tem và đã được nhiều nước chấp nhận. Vì giá tem mỗi nơi một khác, Ponzi phát hiện ra cơ hội làm giàu béo bở: Mua IRC tại Ý và các nước ngoài Mỹ, nơi giá rất rẻ và bán nó với giá cao tại Mỹ. Ponzi nhẩm tính khoản lợi nhuận thu được, sau khi trừ chi phí, có thể vượt quá 400% và việc này hoàn toàn hợp pháp.
Có kế hoạch, Ponzi bắt đầu mở công ty mang tên “Securities Exchange Company” ở Boston và tìm sự giúp đỡ tài chính. Ông kêu gọi bạn bè cho mượn tiền và hứa trả họ lãi suất lên tới 50% trong vòng 45 ngày. Một vài người mạnh dạn bỏ tiền đầu tư và được trả lãi như đã cam kết. Tiếng lành đồn xa, các khoản đầu tư thi nhau chảy về. Ponzi thuê mướn hàng loạt nhân viên và hứa sẽ trả khoản lợi tức khổng lồ cho các nhà đầu tư. Tới tháng 2/1920, Ponzi đã có trong tay 5.000 USD, một khoản tiền khổng lồ khi đó. Đến tháng 3, ông đã có 30.000 USD. Tiền làm Ponzi lóa mắt. Ông thuê mướn hàng loạt nhân công và gom tiền tại toàn bộ các khu vực New England và New Jersey. Nhà đầu tư được trả lãi lớn đã mạnh dạn động viên bạn bè, người thân tham gia.
Nguồn: fritzbreland.wordpress.com
Tới tháng 5, Ponzi đã có 420.000 USD. Người người bán nhà, đập lợn tiết kiệm, mang tới cho Ponzi. Phần lớn khi nhận được tiền lãi lại tái đầu tư cho Ponzi với hy vọng sẽ được hưởng lợi tức lên tới 100%. Vào tháng 7, Ponzi đã có gần 8 triệu USD.
Xuống dốc không phanh
Thành công trong việc huy động vốn nhưng Ponzi lại chẳng thể nào kiếm đủ IRC để đầu tư và sinh lãi. Dù vậy, ông sống rất xa hoa, mua cả lâu đài, xe hạng sang, đầu tư vào các ngân hàng, doanh nghiệp… Tới tháng 8 cùng năm, người ta phát hiện Ponzi đang trả lãi cho nhà đầu tư cũ bằng tiền của nhà đầu tư mới. Hành động này vốn được gọi là “cướp người này trả cho người kia”, giờ đã có cái tên chính thức là “kiểu lừa Ponzi”. Cho tới khi đổ bể, bằng cách lừa đảo này Ponzi đã khiến các nhà đầu tư mất trắng 20 triệu USD, đồng thời khiến 6 ngân hàng phá sản.
Năm 1920, Ponzi bị truy tố vì tội lừa đảo và phải thụ án một thời gian trong các nhà tù liên bang trước khi bị trục xuất về Italy vào năm 1934. Ông ta chết trong cảnh trắng tay tại Rio de Janeiro (Brazil) vào năm 1949 và được chôn trong một nghĩa trang của người nghèo.
III. Các vụ đổ bể đình đám khác
1. Allen Stanford (Mỹ)
Stanford từng là một trong những tỷ phú tài chính nổi tiếng của Mỹ, có lối sống xa hoa, sở hữu nhiều biệt thự, du thuyền, và thậm chí cả một sân bóng cricket ở quần đảo Antigua. Ở thời kỳ đỉnh cao cuối những năm 80, giá trị tài sản của Stanford lên tới 2,2 tỷ USD. Năm 2009, ông từng được Tạp chí Ford xếp hạng giàu thứ 605 thế giới. Làm từ thiện hào phóng, Stanford thậm chí còn được phong tước hiệp sỹ tại Antigua.
Tuy nhiên, tất cả đã đặt dấu chấm hết cho nhà tài phiệt có thế lực này khi ông bị bắt vào năm 2009. Theo đó, các nhà chức trách đã tiến hành bắt giữ Stanford sau khi xác định đối tượng này đã lợi dụng những người không giàu có, bao gồm giáo viên nghỉ hưu, cựu chiến binh, công nhân, thậm chí theo như lời của một nạn nhân, Stanford “đã ăn cắp cả cuộc sống” của họ để làm giàu cho bản thân.
Hình thức lừa đảo của Allen Stanford thực chất là kinh doanh trá hình theo kiểu “mô hình Ponzi”- hình thức trong đó tiền gửi của người gửi sau sẽ được dùng để trả lãi cho những người gửi trước, hình thành một mạng lưới của những người muốn hưởng lãi suất cao nhưng thực chất lại không có sự đâu tư tạo giá trị thực sự nào.
Tỷ phú nước Mỹ đã dựng lên một kế hoạch đầu tư “ma” trị giá nhiều tỷ USD với nhiều “lời hứa giả mạo và các cơ sở dữ liệu ngụy tạo”. Ngân hàng Quốc tế Stanford International (SIB) thuộc quyền sở hữu của Stanford và được điều hành bởi một vòng tròn khép kín bao gồm gia đình và bạn bè Stanford để bán ra các chứng chỉ ký thác đầu tư trị giá hơn 7 tỷ USD với lời hứa trả lãi suất cao.
Nhờ lãi suất cao (11% -16%), cao gấp đôi so với lãi suất của các ngân hàng thương mại cùng với các chiến dịch quảng cáo của mình, chỉ riêng trong năm 2005, SIB đã “nhử” được 35.000 khách hàng với tổng số vốn góp 3,8 tỷ USD và đến cuối năm 2007, con số đón góp của các nhà đầu tư là 6,7 tỷ USD. Tuy nhiên, thay vì mang tiền đi đầu tư, Stanford lại tiêu xài hết vào những trò ăn chơi, giải trí cá nhân.
Tính đến thời điểm vụ lừa đảo này bị phát giác, công ty của Standford đã thu hút được hơn 50.000 khách hàng ở 131 quốc gia và vùng lãnh thổ, trong đó tập trung chủ yếu ở Mỹ, châu Mỹ Latinh và vùng biển Caribê.
Sau nhiều lần bị trì hoãn, đến giữa năm 2012, phiên tòa xét xử Allen Standford mới kết thúc với mức án 110 năm tù dành cho kẻ lừa đảo. Đây là vụ lừa đảo mà Ủy ban Chứng khoán và hối đoái Mỹ - SEC cho rằng có tính chất nghiêm trọng, gây chấn động tới giới tài chính và đầu tư trên phạm vi toàn cầu.
2. William Miller (Anh) - “cha đẻ” của Ponzi
Nhiều thập kỷ trước khi mô hình lừa đảo đa cấp được gán cho cái tên Ponzi, kiểu lừa đảo này đã được một thủ thư có tên William Miller ởBrooklyn khởi xướng. Nhiều người đã vét sạch những đồng tiền mồ hôi nước mắt của mình để góp vào công ty đầu tư mang tên Franklin Syndicate do Miller lập ra vào năm 1899, với hy vọng sẽ được trả lãi suất 10% mỗi tuần. Miller được đặt biệt danh “520%” - chỉ mức lãi suất cả năm mà ông ta hứa với các nhà đầu tư.
Siêu lừa này tuyên bố ông ta có một bí quyết để nắm bắt cách kinh doanh của các công ty ăn nên làm ra. Tuy nhiên, vụ việc rồi cũng đến lúc vỡ lở. Miller lừa của các nhà đầu tư 1 triệu USD, tương đương với 25 triệu USD ngày nay. Ông ta bị kết án 10 năm, nhưng chỉ phải ngồi 5 năm trong nhà đá. Sau khi được thả tự do, Miller đến Long Island kiếm sống bằng cách mở một cửa hiệu tạp hóa.
3. Tom Petters (Mỹ)
Vào năm 2010, một doanh nhân ở bang Minnesota, Mỹ, có tên Tom Petters bị kết án 50 năm tù giam sau khi vụ lừa đảo Ponzi 3,65 tỷ USD do ông ta “đạo diễn” bị lôi ra ánh sáng. Đây được xem là vụ Ponzi lớn thứ ba trong lịch sử sau vụ Bernie Madoff và vụ Alan Stanford.
Với tư cách là CEO kiêm Chủ tịch của công ty Petters Group Worldwide, Petters thuyết phục các nhà đầu tư góp tiến để mua hàng điện tử để bán lại cho các hãng bán lẻ lớn Costco và Sam’s Club. Nhưng trên thực tế, Petters dùng tiền này cho các hoạt động kinh doanh khác của ông ta và trả lãi cho các nhà đầu tư khác. Lĩnh án khi đã 52 tuổi, có lẽ Petters đến chết vẫn chưa ra khỏi nhà đá.
4. Norman Hsu (Mỹ)
Nguyên là một nhà huy động tài chính cho đảng Dân chủ của Mỹ, Norman Hsu bị cáo buộc vận hành một chương trình lừa đảo kiểu Ponzi với quy mô 60 triệu USD vào năm 2009. Với phương thức không mới, Hsu “thịt” các nhà đầu tư bằng cách mời chào họ góp vốn, hứa trả lãi cao, dùng tiền của nhà đầu tư trả cho người góp vốn trước.
Sau khi Hsu bị tố giác, tất cả những chính trị gia từng được ông ta huy động tài chính như Hillary Clinton, Eliot Spitzer, Andrew Cuomo, Barack Obama và Al Franken để chuyển số tiền đã nhận từ nhân vật này vào quỹ từ thiện. Mức án mà tòa dành cho Hsu là 24 năm “bóc lịch”.
5. Lou Pearlman (Mỹ)
Sau thất bại nghề nghiệp trong ngành hàng không, Lou Pearlman chuyển sang lĩnh vực giải trí và trở thành một ông trùm âm nhạc sừng sỏ, có công thành lập những ban nhạc nam lớn của thập niên 1990 như Backstreet Boys, NSYNC, O-Town… Tuy nhiên, Pearlman chỉ trở nên nổi tiếng như cồn sau khi chương trình lừa đảo Ponzi quy mô 300 triệu USD của ông ta bị phát giác vào năm 2006.
Để lừa các nhà đầu tư, Pearlman đã lập ra một công ty hàng không “ma”. Pearlman đã tìm cách bỏ trốn, nhưng bị bắt khi đang trên đường tẩu thoát sang Indonesia. Năm 2008, ông ta bị đem ra xét xử và kết án 25 năm tù giam.
6. Những vụ lừa đảo Ponzi ở Albania
Vào năm 1997, một vụ Ponzi khổng lồ ở Albiania đổ bể, đẩy nước này rơi vào cảnh hỗn loạn tài chính, đồng thời châm ngòi cho một cuộc nổi dậy lớn, lật đổ chính phủ và khiến hơn 2.000 người dân thiệt mạng. Mấy năm trước đó, Albania bước vào thời kỳ quá độ sang cơ chế thị trường tự do sau nhiều năm nằm dưới sự thống trị của chế độ độc tài Enver Hoxha. Hệ thống tài chính còn sơ khai ở thời điểm quá độ của Albania nằm dưới sự thống trị của một loạt những kế hoạch Ponzi hứa trả nhà đầu tư mức lãi lớn.
Hơn 2/3 người dân Albania đã sập bẫy chiêu lừa này vì lóa mắt trước cơ hội giàu lên nhanh chóng. Thậm chí, Chính phủ Albania còn công khai phê chuẩn hoạt động của một số công ty lừa đảo này. Đến đầu năm 1997, người dân Albania bị mất tổng cộng hơn 1,2 tỷ USD. Mất tiền, người dân đổ ra đường để phản đối Chính phủ, cho rằng nhà chức trách hưởng lợi từ những kẻ lừa đảo. Về sau, Liên hiệp quốc phải can thiệp để lập lại trật tự ở nước này.
7. Gerald Payne (Mỹ)
Vụ lừa đảo Ponzi của Gerald Payne lấy mất của các nhà đầu tư gần 500 triệu USD, nhưng gây ấn tượng hơn cả là cách rút tiền của siêu lừa này. Vào giữa thập niên 1990, Payne dùng nhân danh nhà thờ để thuyết phục gần 18.000 người góp vốn cho ông ta, hứa sẽ trả lãi lớn thông qua việc đầu tư vào vàng, bạc và trái phiếu nước ngoài.
Trên thực tế, Payne đã dùng séc để rút tiền dưới mức giới hạn thông báo 10.000 USD nhằm không bị phát hiện. Tuy nhiên, do Payne rút tiền bằng séc rất nhiều lần nên đã bị Thuế vụ Mỹ chú ý. Khi ra tòa, Payne cho biết, số tiền đã bị dùng làm quà biếu chứ không phải được đầu tư. Payne lĩnh án 27 năm, còn vợ ông ta là Betty ngồi tù 12 năm rưỡi.
8. David Dominelli (Mỹ)
Năm 1979, Domilelli mở một công ty ở California, Mỹ và hứa trả cho những nhà đầu tư góp vốn sớm mức lãi 40-50%. Đây là một vụ lừa đảo Ponzi kinh điển, trong đó Dominellini dùng tiền của nhà đầu tư đến sau trả cho nhà đầu tư đến trước, huy động được tới 80 triệu USD. Đến năm 1983, gần 1.500 nhà đầu tư đã mắc bẫy của siêu lừa này, khiến ông ta dần dần không thể đáp ứng được khả năng rút vốn nữa. Vào năm 1985, Dominelli bị kết án 20 năm tù giam và được tha bổng sau khi thụ án 10 năm. Ông ta qua đời vào năm 2009 tạiChicago.
9. Bernie Madoff (Mỹ)
Bernard Lawrence Madoff (sinh ngày 29 tháng 4 năm 1938) là một doanh nhân người Mỹ. Madoff bắt đầu sự nghiệp tài chính ở tuổi 22 với 5.000 USD trong tay, khoản tiền ông tự kiếm được nhờ làm các công việc trong kỳ nghỉ hè, chẳng hạn như lắp đặt hệ thống tưới vườn ở New York. Đến năm 1960, Ông sáng lập hãng Bernard L. Madoff Investment Securities LLC ở phố Wall và là chủ tịch hãng này đến ngày 11 tháng 12 năm 2008. Ông nguyên là chủ tịch của sàn giao dịch chứng khoán NASDAQ. Bernie Madoff được xem là biểu tượng của tội phạm tài chính hiện đại. Năm 2008, ông bị cáo buộc vận hành một vụ lừa đảo Ponzi trị giá 50 tỷ USD, lớn nhất trong lịch sử. Với uy tín ở Phố Wall, các quỹ đầu tư của công ty Madoff hấp dẫn các nhà đầu tư bởi lời hứa lợi nhuận cao và chi phí thấp. Vì thế hàng chục ngàn nhà đầu tư (cá nhân và doanh nghiệp) đã đầu tư vào quỹ của Madoff thông qua các đối tác của công ty này và ký gửi cho ông ta hàng chục tỷ USD. Đồng thời các nhà đầu tư đó đã được Madoff trả lãi suất rất cao, luôn ở mức 2 con số (10,5% lãi mỗi năm) mà không hề biết rằng số tiền lãi đó chỉ đơn giản là lấy tiền của nhà đầu tư sau trả cho nhà đầu trướctheo như mô hình lừa đảo kiểu Ponzi.
Hàng loạt ngân hàng, tổ chức tài chính trên thế giới sau đó đã phải thừa nhận họ đã sập bẫy của Madoff. Danh sách những nạn nhân của Madoff ngày một dài hơn và trong đó có rất nhiều tên tuổi các ngân hàng hàng đầu trên thế giới như Santander của Tây Ban Nha, ngân hàng Anh HSBC, ngân hàng Hoàng gia Scotland, ngân hàng BNP của Pháp, ngân hàng Nomura (Nhật Bản)… Không chỉ có các thể chế tài chính mà những tổ chức nhân đạo cũng bị ảnh hưởng. Nhiều tổ chức nhân đạo đã phải đóng cửa và sa thải nhân viên sau khi bị mất toàn bộ tiền vào quỹ của Madoff.
“Nạn nhân” của Madoff bao gồm từ những nhân vật nổi tiếng như Elie Wiesel, người đoạt giải Nobel Hòa Bình năm 1986, đạo diễn Steven Spielberg (Mỹ) đến các triệu phú, các công ty tư vấn đầu tư và quỹ phòng hộ (hedge)… Thậm chí siêu lừa Allen Stanford cũng trở thành 1 nạn nhân của Madoff với số tiền đầu tư lên đến 400.000 USD. Có thể nói cú lừa thế kỷ này của Madoff chẳng khác nào thảm hoạ sóng thần quét sạch các tổ chức tài chính trên thế giới và đây được coi là vụ “vỡ hụi” khủng khiếp nhất trong lịch sử thế giới với tổng thiệt hại lên đến 64.8 tỷ USD.
Kết thúc vụ án, Madoff phải ra vành móng ngựa vào tháng 12 năm 2008 chịu mức án phạt 150 năm tù. Tuy nhiên, mức phạt này chưa phải là kết cục làm hài lòng những “nạn nhân” của siêu lừa Bernard Madoff. Bởi với họ, những người đã mất toàn bộ tài sản, gia đình tan nát, thậm chí có người đã tự tử vì tay trắng thì quãng đời còn lại trong lao tù của Madoff vẫn là sự trừng phạt “nhẹ nhàng”.
10. Scott Rothstein và đường dây bán hàng đa cấp
Scott Rothstein, sinh ngày 10 tháng 6 năm 1962 là một luật sư người Mỹ, đồng thời là chủ tịch hội đồng quản trị kiêm giám đốc điều hành công ty luật Rothstein Rosenfeldt Adler. Năm 2005, Rothstein bỗng phất lên “như diều gặp gió” nhờ kinh doanh đa cấp và trở thành cái tên nổi tiếng không chỉ trong giới luật sư, mà còn trong giới tài chính Mỹ.
Ở 47 tuổi, Scott Rothstein đã trở thành triệu phú Mỹ và nắm trong tay khối tay sản lên đến hàng tỷ USD. Không những thế, Scott Rothstein còn có một cuộc sống vô cùng xa hoa với hàng hiệu, xe xịn và gái đẹp.
Cũng theo mô hình Ponzi, bắt đầu từ năm 2005, lợi dụng uy tín và sự thành công của công ty luật, Rothstein đã mời chào để bán cổ phần các khu đất giả mạo cho nhiều nhà đầu tư với lí lẽ rằng khách hàng sẽ được giảm giá lớn nếu tiền tới sớm và chồng cả cục.
Theo John Gillies, trợ lý đặc biệt phụ trách văn phòng Miami của FBI, Scott Rothstein dường như có một sức hút kỳ lạ từ một luật sư uy tín để tất cả các nhà đầu tư có thể tin rằng số tiền đầu tư của họ sẽ tạo ra được khoản lợi nhuận khổng lồ. Số lợi nhuận Rothstein thu về từ việc làm ăn phi pháp này lên tới 1,2 tỉ USD.
Cũng kể từ khi bắt đầu sự nghiệp bán hàng đa cấp, Rothstein cũng bắt đầu hình thành thói quen sưu tập xế khủng, đồng hồ hàng hiệu và mải mê lao vào những cuộc tình ngắn ngủi, bỏ bê vợ con, gia đình.
Sự việc được phanh phui vào đầu tháng 11 năm 2009, Scott Rothstein bị kêt tội lừa đảo và chiếm đoạt tài sản lên tớ 1,2 tỷ USD. Tất cả những tài sản giá trị của Rothstein được đem ra bán đấu giá để đền bù một phần cho người bị hại.
Với hành vi lừa đảo của mình, ngày 9 tháng 6 năm 2010, Scott Rothstein đã phải lãnh mức án 50 năm tù.
11. Ding Ning (Trung Quốc)
21 người tham gia vào hoạt động gây quỹ lừa đảo trực tuyến để trục lợi 50 tỉ nhân dân tệ (gần 7,6 tỉ USD) từ hơn 900.000 nhà đầu tư.
Từ trái qua: Ding Ning, Zhang Min và Yong Lei. Ảnh: SCMP
Đây được xem là vụ lừa đảo qua mạng lớn nhất từ trước đến giờ ở Trung Quốc tính về số tiền thiệt chiếm đoạt và số lượngnhà đầu tư tham gia.
Các nghi phạm làm việc cho Công ty Ezubao – hoạt động bằng phương pháp chia sẻ mạng ngang hàng (P2P). Thực chất đây là cách thức lừa đảo kiểu Ponzi (lừa đảo tín dụng đa cấp) vì 95% dự án tài chính mà họ đưa lên mạng internet để thu hút nguồn vốn đều không tồn tại.
Tổng cộng hơn 900.000 nhà đầu tư Trung Quốc đã sập bẫy và số tiền những kẻ lừa đảo bỏ túi tròm trèm 7,6 tỉ USD.
Một trong số các nghi phạm bị bắt là Ding Ning (34 tuổi). Tên này khởi xướng Ezubao – được xem là dự án kinh doanh tài chính trực tuyến lớn nhất Trung Quốc – từ tháng 7-2014 tại tỉnh An Huy và cũng là Chủ tịch điều hành Công ty Yucheng. Họ Ding cùng đồng bọn đưa ra lợi nhuận hàng năm ở mức dao động từ 9-14,6% để làm mờ mắt các nhà đầu tư.
Nhưng trên thực tế, hầu hết dự án liệt kê trên trang web của bọn chúng đều là dự án “ma” và những kẻ lừa đảo sử dụng nguồn vốn từ các nhà đầu tư mới để trả nợ cũ. Tờ Bưu điện Hoa Nam Buổi sáng (Hồng Kông) cho biết Ding dùng tiền lừa đảo để phục vụ cuộc sống ăn chơi xa hoa của bản thân.
Vụ lừa đảo quy mô lớn nói trên đặt ra nguy cơ đối với ngành công nghiệp quản lý tài sản tăng trưởng nhanh của Trung Quốc. Nhiều sản phẩm được bán thông qua các kênh với quy định lỏng lẻo, như nền tảng đầu tư tài chính trực tuyến và sàn giao dịch được tư nhân điều hành.
Tầng lớp trung lưu ngày càng tăng ở Trung Quốc ngày càng bị thu hút vào các dự án đầu tư trực tuyến để nhanh chóng trở nên giàu có. Ngành công nghiệp quản lý tài sản ở nước này trị giá ước tính 2,6 ngàn tỉ USD.
12. Mạng ảo bán hàng MB24 (Việt Nam)
Ba sếp tại Công ty MB24 bị cáo buộc đã chiếm đoạt tiền
Công ty cổ phần Đào tạo và Mua bán trực tuyến (MB24) thông qua trang web muaban24.vn thì một số trang web khác cũng có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua việc bán các gian hàng ảo trên trang web muaban24.vn theo hình thức gần giống như dạng bán hàng đa cấp.
Các đối tượng cầm đầu đã chiếm đoạt hàng chục tỷ đồng của hàng trăm nghìn người tham gia.
Cơ quan công tố cáo buộc, với chiêu khi hội viên giới thiệu nhiều người tham gia sẽ được tích điểm, nâng lên cấp độ VIP, được làm phó giám đốc, MB24 khiến hàng trăm nghìn người tưởng các gian hàng ảo là thật nên đã nộp tiền và rủ bạn bè, người thân tham gia để kiếm hoa hồng và chia nhau lợi nhuận. Từ tháng 5/2011 đến tháng 7/2012, MB24 đã bán hơn 120.000 gian hàng ảo thu hơn 630 tỷ đồng.