Mộc lan chi duệ sa đường châu,
Ngọc tiêu kim quản toạ lưỡng đầu.
Mỹ tửu tôn trung trí thiên hộc,
Tái kỹ tuỳ ba nhiệm khứ lưu.
Tiên nhân hữu đãi thừa hoàng hạc,
Hải khách vô tâm tuỳ bạch âu.
Khuất Bình từ phú huyền nhật nguyệt,
Sở vương đài tạ không sơn khâu.
Hứng hàm lạc bút dao ngũ nhạc,
Thi thành tiếu ngạo lăng thương châu.
Công danh phú quý nhược trường tại,
Hán thuỷ diệc ưng tây bắc lưu.
江上吟 - 李白
木蘭之枻沙棠舟
玉簫金管坐兩頭
美酒樽中置千斛
載妓隨波任去留
仙人有待乘黃鶴
海客無心隨白鷗
屈平詞賦懸日月
楚王臺榭空山丘
興酣落筆搖五嶽
詩成笑傲凌滄洲
功名富貴若長在
漢水亦應西北流
Khúc ngâm trên sông
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Thuyền đà gỗ mộc, trèo lan.
Lại thêm tiêu sáo trang hoàng hai bên..
Rượu ngon đã xếp lên thêm.
Vài nàng ca kỹ, êm đềm thuyền trôi.
Người xưa cưỡi hạc đi rồi.
Để khách tang hải rối bời chim âu.
Sở Vương Đài hóa gò khâu.
Khuất Nguyên thơ phú nhuốm màu thời gian.
Thơ say bút chuyển non ngàn.
Lời thơ tiếu ngạo, đổ tràn Thương Châu.
Công danh phú quý còn đâu.?
Hán giang chảy ngược quay đầu về tây
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi "chống kiếm viễn du", đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn "ẩm tửu hàm ca" (uống rượu ca hát), người đời gọi là "Trúc khê lục dật" (sáu người ẩn dật trong khe trúc). Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một "văn nhân ngự dụng" nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.
Nguồn: Thi Viện