Thursday, October 23, 2025

ĐÔNG SƠN TÁI KHỞI

Thành ngữ cổ có câu: “Đông Sơn tái khởi”, thường được dùng để hình dung một người sau khi lui về ở ẩn lại ra nhậm chức, cũng được dùng để ví một người sau khi thất thế lại có lại được vị thế mới, sau thất bại lại có được thành công. Nó cũng được dùng để khích lệ cổ vũ một người rằng thất bại không phải là điều tồi tệ nhất, điều quan trọng là không được nhụt chí nản lòng.


Câu thành ngữ “Đông Sơn tái khởi” có xuất xứ từ “Tấn thư. Tạ An truyện”.

Tạ An (320 – 385), tự là An Thạch, là danh sĩ ẩn cư ở Đông Sơn, sinh sống vào thời Đông Tấn. Ông làm quan đến chức Tể tướng, thế nhân gọi ông là Tạ Đông Sơn, Tạ Thái Phó, Tạ An Thạch. Các thế hệ sau rất kính trọng Tạ An. Khi đối phó với các quan lại quyền thế, Tạ An luôn kiên định và không nhượng bộ, giữ vững nguyên tắc, chống lại quyền thần để bảo vệ xã tắc. Khi nắm thực quyền, ông không kết bè phái, không chỉ hòa giải các xung đột nội bộ trong triều Đông Tấn mà còn đánh bại quân Tiền Tần trong trận Phì Thủy và giành lại vùng lãnh thổ rộng lớn. Ngay cả sau chiến thắng, khi đang ở đỉnh cao của danh vọng, ông cũng chọn cách lui về sau mà không bám víu vào quyền lực. Do đó, Tạ An được các thế hệ sau coi là hình mẫu của quan lại đức hạnh và là hình mẫu của sự chính trực.

Tạ An thời trẻ làm văn sĩ, biên soạn quốc sử, nhưng có người ghen tị với tài năng của ông. Bản thân Tạ An không quan tâm đến sự tranh giành trong triều đình, vì vậy cuối cùng ông đã lấy cớ bệnh tật để rời bỏ quan trường và về sống ẩn dật ở Đông Sơn, Hội Kê. Tại đó, Tạ An du ngoạn cùng người bạn thân Vương Hy Chi, Hứa Tuân và những người khác, đồng thời dành thời gian rảnh rỗi để dạy dỗ con cháu nhà họ Tạ và sống một cuộc sống an nhàn.

Tranh minh họa: Họa sĩ Trần Hồng Thụ thời Minh, Wikipedia, Public Domain

Thứ sử Dương Châu Dữu Băng nghe nói Tạ An là người có tài nên đã vài lần đến mời ông ra làm quan. Nhưng Tạ An lần nào cũng cự tuyệt. Sau đó, Dữu Băng đã gây áp lực khiến Tạ An đành miễn cưỡng chấp nhận lời mời, nhưng sau khoảng một tháng thì ông lại từ chức. Không lâu sau, Lại bộ thượng thư Phạm Uông tiến cử Tạ An lên triều đình. Triều đình mấy lần triệu tập ông để bổ nhiệm chức vị nhưng ông hết lần này lần khác lấy lý do để cự tuyệt.

Khi Tạ An ngoài 40 tuổi, nhiều người thân trong gia đình từng giữ chức quan đã qua đời và em trai của Tạ An là Tạ Vạn bị triều đình giáng chức xuống làm thường dân. Vừa hay lúc ấy, Chinh tây đại tướng quân, con rể của Minh Đế Tư Mã Thiệu là Hoàn Ôn đã mời Tạ An giữ chức Tư Mã và Tạ An đã đồng ý. Tạ An buộc phải “Đông Sơn tái khởi” ra làm quan là để cứu vãn gia tộc đang suy yếu.

Hôm Tạ An nhậm chức, các quan viên trong triều đều đến chúc mừng ông. Lúc ấy có một viên quan là trung thừa Cao Tung đã nói đùa với Tạ An rằng: “Trước đây ông cao ngạo ở Đông Sơn, nhiều lần trái ý chỉ triều đình, không chịu ra làm quan, không ngờ đến hôm nay lại xuất hiện. Lần này ông sẽ giải thích thế nào về việc mình trở lại nắm quyền đây?” Tạ An nghe xong thì lộ ra vẻ mặt xấu hổ.

Sau khi Tạ An đến phủ của Hoàn Ôn, Hoàn Ôn vô cùng cao hứng, hai người trò chuyện suốt cả một ngày.

Năm Thái Nguyên thứ tám (năm 383), Phù Kiên của Tiền Tần dẫn khoảng một triệu quân xuống phía nam, quyết tâm tiêu diệt Đông Tấn, thống nhất thiên hạ. Tình hình quân sự trở nên nguy cấp, vùng Kiến Khang loạn lạc. Tuy nhiên, Tạ An vẫn giữ được bình tĩnh, nắm quyền chỉ huy quân đội. Ông phái Tạ Thạch, Tạ Huyền, Tạ Diễm, và Hoàn Y, cùng những người khác dẫn tám vạn quân ra trận. Quân Đông Tấn đã đánh bại quân của Phù Kiên trong trận Phi Thủy, tạo nên một trận chiến “lấy ít thắng nhiều” nổi tiếng trong lịch sử. Cuộc chiến này đã đưa danh tiếng của Tạ An lên đến đỉnh cao. Nhờ tài lãnh đạo quân đội xuất sắc, Tạ An được phong làm Thái bảo.


Thành ngữ “Đông Sơn tái khởi” ca ngợi những chiến công của Tạ An và lòng dũng cảm của ông. Nó chỉ ra rằng dù gặp trắc trở và thất bại, chỉ cần giữ vững sự kiên trì, chúng ta có thể vượt qua nghịch cảnh và một lần nữa chứng minh được bản thân.

Mặt khác, thành ngữ này cũng ẩn chứa một lời răn dạy, khi đối mặt với khó khăn và thất bại, đôi khi chúng ta cần buông bỏ và tạm thời rút lui. Giống như Tạ An khi về ở ẩn tại Đông Sơn, đã chọn cách rời xa triều đình và hòa nhập với thiên nhiên. Sự rút lui tạm thời này cũng cho phép ông có một tâm thế khác khi trở lại.

Theo Epoch Times tiếng Trung
Tác giả: Trịnh Giới Văn
An Hòa biên tập

LỊCH SỬ THÚ VỊ CỦA CON RỒNG BA TƯ

Xuyên suốt nghệ thuật Ba Tư, con rồng xuất hiện trong nhiều bức họa, nhiều câu chuyện, nhiều hoàn cảnh tự nhiên khác nhau, mang tới những cảm hứng tuyệt vời…


Rồng là loài vật huyền thoại trong cả văn hóa phương Đông và phương Tây. Trong các truyền thuyết thời trung cổ và sử thi, người phương Tây coi rồng như một loài vật độc ác và quỷ quyệt đến từ địa ngục, với đôi cánh lớn và khả năng phun lửa. Trong khi đó, rồng phương Đông lại là loài linh vật được tin là sẽ mang tới phúc phận và sự trường thọ, được dùng như một biểu tượng quyền uy của đấng thiên tử đứng trên vạn chúng.

Ít được nhắc đến hơn cả có lẽ là loài rồng thuộc vùng Trung Đông và Nam Á, đặc biệt là rồng Ba Tư. Nhưng dẫu được nhắc đến như một truyền thuyết trong sách vở và thần thoại, hay như một biểu tượng đẹp trong trang trí nghệ thuật, thì các ghi chép lâu đời về rồng cũng để loại cho nhân loại không ít ẩn đố.

Truyền thuyết cổ đại

Theo những tài liệu Ấn Độ cổ đại như kinh Vệ Đà có từ hơn 3000 năm trước đây, thì con rồng Vrtra đã bị Thần Indra tiêu diệt, khiến cho nước có thể chảy từ thiên giới xuống trái đất.

Bia đá cổ kể về truyền thuyết con rồng hỗn độn. (Ảnh qua Google Art & Culture)

Theo các truyền thuyết của vùng Lưỡng Hà thì Thần Marduk đã chiến đấu với con rồng Tiamat để phân định quyền cai trị nhân loại.

Hình tượng Thần Mặt trời đánh nhau với con rồng hỗn độn. (Ảnh qua Wikipedia)

Còn trong Hỏa giáo tại Iran thì rồng lại là một loài bò sát tà ác, ăn thịt ngựa và ăn thịt người, với nọc độc có thể ăn mòn bất cứ ngọn giáo sắc bén nào.

Rồng Ba Tư

Vài thế kỷ sau, loài rồng xuất hiện rất nhiều trong các cung điện Hồi giáo từ Thổ Nhĩ Kỳ cho đến tận Nam Á. Vào thời trung cổ và cận đại, chúng được đưa vào văn hóa Ba Tư, trong các câu chuyện cổ tích hay các tín ngưỡng.

Tranh kỵ sĩ và rồng vẽ vào thế kỷ 12. (Tranh qua Google Art & Culture)

Được sáng tác vào cuối thế kỷ thứ 10, đầu thế kỷ 11, thần thoại nổi tiếng của Ba Tư là thiên sử thi Shahnama đã kể về các trận chiến của những người anh hùng với rồng xen lẫn trong các câu chuyện huyền bí về vũ trụ, về Hồi giáo, và về các nền văn minh.

Tranh minh họa trong sử thi Shahnama kể chuyện kỵ sĩ tấn công con rồng. (Tranh qua Google Art & Culture)

Một trong những người anh hùng nổi bật nhất là Bahram Gur được lấy hình tượng phỏng theo vị vua Bahram V của đế quốc Sassanid. Bahram Gur thường được vẽ trong một trận chiến với rồng.

Con rồng Ba Tư có những đặc điểm giống với rồng Trung Hoa, với thân hình dài và đứng trong ngọn lửa. Có lẽ thông qua việc giao thương buôn bán, mà hình tượng rồng Trung Hoa đã tới thế giới Ba Tư.

Con rồng lượn quanh tán cây được vẽ bởi danh họa Shah Quli. (Tranh qua Google Art & Culture)

Kết quả của điều đó là những con rồng đặc biệt xuất hiện ở tận vương quốc Ottoman tại Thổ Nhĩ Kỳ. Ví dụ như con rồng lượn quanh tán lá được vẽ bởi danh họa Shah Quli vào thế kỷ 16. Tất nhiên, con rồng Ba Tư dù mang dáng dấp của rồng Trung Hoa, nhưng trông lại rất độc ác và dữ tợn, mất đi tính cách của rồng Trung Hoa.

Thời kỳ hoàng kim

Sau này, rồng cũng xuất hiện trong các bức tiểu họa Hồi giáo. Nhưng nghệ thuật trang trí rồng Ba Tư không lên tới đỉnh điểm ở Trung Đông, mà lại bước vào giai đoạn hoàng kim ở tận Ấn Độ, dưới vương triều Mughal.

Tranh minh họa trong trường ca Hamzanama. (Tranh qua Google Art & Culture)

Trong trường ca Shahnamah viết vào thế kỷ 19, người anh hùng Bahram Gur đang mổ bụng một con rồng để giải cứu một người đàn ông. Con vật trong tranh dù được gọi là rồng, nhưng lại giống một loài thằn lằn khổng lồ hơn. Bức vẽ này dựa trên một truyền thuyết khác từ tận thế kỷ thứ 5, được cải biên vào thế kỷ thứ 11 trong sử thi Ba Tư, và rồi lại tiếp tục được tái hiện thông qua nghệ sĩ Ấn Độ vào thế kỷ 19.

Mổ bụng rồng. (Tranh qua Google Art & Culture)

Dù có du nhập và trộn lẫn hình tượng rồng Trung Hoa, nhưng rồng Ba Tư không có được những phẩm tính thiêng liêng như rồng Trung Hoa. Nó cùng các con vật khác đều triều bái loài chim Simurgh huyền thoại (Xem bài: Chuyện về loài chim Simurgh cao quý trong Thần thoại Ba Tư).

Rồng Ba Tư cùng các loài vật khác triều bái loài chim Simurgh huyền thoại. (Tranh: British Museum, Public Domain)

Đôi khi điều đó khiến người ta tự hỏi rằng loài rồng trong 12 con giáp mà chúng ta quen thuộc và yêu mến có phải là một loài vật hoàn toàn khác với loài bò sát tới từ địa ngục mà người phương Tây hay người Ba Tư mô tả? Liệu có xảy ra sự sai lệch trong quá trình phiên dịch và giao lưu văn hóa thời cổ đại?


Tranh dệt hình tượng “Lưỡng long triều nhật”, một mô-típ tiêu biểu thể hiện con rồng phương Đông quen thuộc. (Tranh: Metropolitan Museum of Art, Wikipedia, Public Domain)

Tham khảo từ bài viết “The Surprising History of Dragons”
Bạch Tuyết / Theo: trithucvn2.net



HỌA LẠC THIÊN XUÂN TỪ - LƯU VŨ TÍCH


Họa Lạc Thiên Xuân Từ

Tân trang nghi diện há chu lâu,
Thâm toả xuân quang nhất viện sầu.
Hành đáo trung đình sổ hoa đoá,
Tinh đình phi thướng ngọc tao đầu.


和樂天春詞

新妝宜面下朱樓
深鎖春光一院愁
行到中庭數花朵
蜻蜓飛上玉搔頭


Họa “Bài ca xuân” của Lạc Thiên
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Điểm trang nhẹ bước xuống lầu.
Cảnh xuân e ấp thêm sầu lòng ai.
Ngoài thềm mấy đóa hoa khai.
Chuồn chuồn cánh mỏng, tóc mai thẹn thùng.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lưu Vũ Tích 劉禹錫 (772-842) tự Mộng Đắc 夢得, người Bành Thành (nay là huyện Đông Sơn, tỉnh Giang Tô) đỗ tiến sĩ năm Trinh Nguyên thứ 9 (793), làm giám sát ngự sử đời Đức Tông. Thời Thuận Tông cùng tham dự vào những chủ trương chính trị tiến bộ cùng Vương Thúc Vân, Liễu Tông Nguyên, sau Vương Thúc Văn bị bọn cường quyền gièm pha, ông cũng bị đổi thành Lãng Châu thứ sử. Ông làm từ hay dùng tục ngữ địa phương, Bạch Cư Dị từng gọi ông là thi hào. Tác phẩm có Lưu Vũ Tích tập.

Nguồn: Thi Viện



CÓ MỘT LOẠI NGÔN NGỮ KHÔNG CẦN PHIÊN DỊCH

Có một loại ngôn ngữ mà bạn dù đi bất kỳ đâu cũng có thể sống được, ở đâu bạn cũng có thể thích nghi được, đó là tấm lòng của bạn, là sự rộng lượng của bạn!


Nó không cần chữ viết, không cần phiên dịch, không cần hộ chiếu, cũng chẳng cần quốc tịch. Nó là điều duy nhất bạn có thể mang theo bên mình mà không ai có thể tịch thu, không ai có thể đánh thuế, cũng không thể làm giả.

I. Đi đâu cho bằng về với chính mình

Có một người đàn ông nọ, sống trong một làng quê nghèo ở châu Á. Cuộc sống không đủ đầy, nhưng trong nhà ông lúc nào cũng có tiếng cười. Ông chẳng có học cao, nhưng ông hiểu rộng, ai trong làng cũng tìm đến ông mỗi khi có điều gì rối rắm.

Một ngày, một người trẻ thành thị hỏi ông: ”Sao bác không đi nơi khác để sống tốt hơn? Ở đây con thấy nghèo quá!”.

Thấy người trẻ này quá non nớt, Ông cười nói: ”Quan trọng là cách con sống, nếu không biết, thì dù có đi đâu vẫn là khổ thôi.”

Thật vậy, chúng ta cứ mãi truy cầu một mảnh đất hứa ở bên ngoài, nhưng lại quên mất rằng mảnh đất đầu tiên và cuối cùng ta phải canh tác là chính tâm hồn mình.

Nếu nơi đó khô cằn, thì dù ta đặt chân đến Thụy Sĩ hay Bắc Âu, nơi người ta gọi là đáng sống, thì ta vẫn thấy lạnh lẽo. Nhưng nếu nơi đó tươi tốt, thì giữa sa mạc khô cháy, ta cũng có thể trồng hoa.

Nói thế không phải phủ nhận nơi sống tốt đẹp, ý là, nếu tâm hồn ta rộng mở thì ở đâu cũng sẽ tốt đẹp và nếu kết hợp được cả hai thì sẽ tốt hơn nữa. Nhưng điều đó hiếm khi xảy ra, vì nó chỉ số ít. Tác giả sẽ nói về đại thể, về phổ quát, về đa số.
 
II. Nơi đáng sống nhất không nằm trên bản đồ

Nhiều người nói Mỹ là nơi đáng sống. Nhưng có biết bao người Mỹ đang uống thuốc trầm cảm mỗi ngày? Nơi đó có pháp luật nghiêm minh, công nghệ hiện đại, điều kiện vật chất dồi dào, nhưng cũng có sự cô lập tinh thần, có những gia đình không còn bữa ăn chung, có những đứa trẻ lớn lên không biết cảm xúc của cha mẹ. Không phải chỉ có ở Mỹ, mà nơi đâu cũng có những điều đó.

Nếu cuộc đời bạn đã định sẵn là khó khăn, thì bạn sống ở đâu cũng khó khăn dù là nơi đó có đáng sống hay không!

Còn ở một làng nhỏ Nepal, tôi từng chứng kiến một người cụt tay đang đút cơm cho người bạn già bị mù. Không một lời nói, nhưng trong ánh mắt họ, có sự ấm áp mà không đô thị nào có thể ban phát được.

Sự đáng sống không đến từ nơi ta sống, mà đến từ cách ta sống ở nơi ấy như thế nào.

Nếu trái tim ta đủ bao dung, mọi nơi đều là mái nhà. Nếu lòng ta đủ rộng lượng, mọi người đều là anh em. Nếu ta biết thương người, biết đặt nỗi đau của người khác ngang hàng với nỗi đau của mình, thì ta đã là một công dân toàn cầu mà không cần quốc tịch.


III. Thứ dễ chịu nhất với người khác chính là sự rộng lượng của bạn

Sự rộng lượng không phải là bạn có bao nhiêu để cho đi, mà là bạn có thể tha thứ bao nhiêu, thấu hiểu bao nhiêu, chịu đựng bao nhiêu mà vẫn không oán trách.

Có người từng hỏi Đức Đạt Lai Lạt Ma:
– Bí quyết để sống an vui là gì?

Ngài đáp: “Hãy để người khác luôn cảm thấy dễ chịu khi ở gần bạn.”
(Nguồn: The Art of Happiness, Howard Cutler, 1998)


Đó là điều giản dị nhất, nhưng cũng khó nhất.

Sống dễ chịu là khi bạn không gắt gỏng với người bán hàng chậm chạp, không trách đứa trẻ khóc trên chuyến bay, không buồn vì bạn mình thành công hơn. Đó là khi bạn để lòng mình như dòng sông, chảy qua bùn mà không nhiễm bẩn, đi qua đá vẫn giữ được nhịp êm đềm.

IV. Hạnh phúc, đừng tìm ở ngoài, hãy bắt đầu từ trong

Hạnh phúc không phải là một điểm đến, mà là một trạng thái nội tâm. Người ta không khổ vì thiếu tiện nghi, mà khổ vì thiếu yêu thương. Người ta không đói vì thiếu thức ăn, mà đói vì không được lắng nghe, không được hiểu, không được ôm lấy bằng tấm lòng chân thật.

Nếu bạn sống với lòng tốt, lòng tốt sẽ tìm đến bạn.

Nếu bạn sống bằng sự bao dung, bạn sẽ thấy cả thế giới nhẹ đi.

Nếu bạn sống bằng tình người, dù là giữa nơi đất khách, bạn cũng chẳng lẻ loi.


V. Và rồi, ta nhận ra: chẳng có nơi nào là “chốn đi”, tất cả đều là “chốn về”

Có một loại an lạc không nằm trong hộ chiếu xanh đỏ, không nằm ở đồng lương tám con số, mà nằm trong ánh mắt của bạn khi nhìn người khác bằng lòng nhân hậu.

Khi bạn đến đâu mà không mang theo lòng tử tế, thì bạn đang đi trốn.
Khi bạn đến đâu mà mang theo lòng yêu thương, thì bạn đang đi gieo.

Chẳng ai cần hiểu bạn đang nói ngôn ngữ nào. Nhưng tấm lòng bạn, nếu đủ chân thành, sẽ khiến người khác muốn ở lại gần bạn, dù bạn chẳng nói một lời.

Nguyên Tác An Hậu
An Nhiên / Theo: vandieuhay

Wednesday, October 22, 2025

BÁNH KHÚC LÀNG DIỀM BẮC NINH - NGỌT NGÀO HƯƠNG VỊ THÔN QUÊ

Làng Diềm thuộc xã Hòa Long, thành phố Bắc Ninh, là cái nôi của dân ca Quan họ. Không chỉ thế, món bánh khúc làng Diềm cũng nổi tiếng với hương vị thơm ngon mà dân dã, đậm tình quê hương.

Bánh khúc màu xanh đẹp mắt. Ảnh: Vnexpress.

Bánh khúc làng Diềm Bắc Ninh – Ngọt ngào hương vị thôn quê

Làng Diềm không có ai nhớ bánh khúc xuất hiện từ bao giờ, nhưng người ta truyền tai nhau bánh có từ thời Vua Bà, cùng lúc với sự xuất hiện của các làn điệu Quan họ. Từ đó, nghề làm bánh khúc được gìn giữ qua nhiều thế hệ cho đến hôm nay.

Bánh khúc làng Diềm được làm thủ công hoàn toàn. Mỗi chiếc bánh đều được lựa chọn nguyên liệu kỹ càng, chú trọng từng thao tác. Lớp vỏ bánh được làm từ gạo tẻ Khang Dân hoặc 203 để đảm bảo độ dẻo vừa phải.

Gạo ngâm nước khoảng 3, 4 tiếng rồi xay nhuyễn, sau đó mang ráo bột. Nếu bột khô, bánh sẽ rắn, nếu bột nhão quá bánh sẽ nát. Sau khi ráo nước, bột được nắm thành từng nắm nhỏ rồi chần qua nước sôi (hay còn gọi là trùng bột), khâu này tạo độ dẻo cho bánh.

Bánh khúc khi nặn xong. Ảnh: Vnexpress.

Và không thể không nhắc đến nguyên liệu chính, là rau khúc. Rau khúc tươi được thu hái đúng thời điểm khi rau có nụ và phấn trắng. Rau khúc rửa sạch, luộc qua rồi vắt ráo nước, trộn cùng với bột và giã nhuyễn.

Với sự nhịp nhàng của bàn tay người thợ, màu xanh của rau khúc dần được hòa quyện với màu trắng của bột, giã đến khi bột cầm không dính là đạt chuẩn. Rau và bột trộn vào nhau cũng phải theo tỷ lệ nhất định. Nếu rau càng nhiều, độ thơm ngon càng nhiều nhưng thông thường, tỷ lệ 1 kg rau tươi với 2 kg bột gạo được yêu thích.

Rau khúc. Ảnh: Báo Đại đoàn kết.

Nhân bánh khúc có hai loại, nhân đỗ và nhân thịt. Với nhân đỗ, đỗ được ngâm, hấp chín rồi trộn cùng thịt ba chỉ, hành khô, hạt tiêu rồi nêm gia vị. Nhân thịt làm từ thịt ba chỉ thái hạt lựu trộn với mộc nhĩ, hành thái nhỏ và hạt tiêu.

Sau khi hoàn thành khâu chuẩn bị nguyên liệu, khâu nặn bánh tiếp theo đòi hỏi sự tỉ mẩn. Không giống với những loại bánh khúc ở các làng khác, bánh khúc làng Diềm được nặn hình tai mèo, người làm bánh xoay tròn, tán mỏng viên bột rồi cho nhân vào giữa bọc lại sao cho vỏ mỏng nhưng không lộ nhân ra ngoài.

Bánh khúc đen. Ảnh: Vietnam Journey.

Bánh sau khi nặn xong đem hấp cách thủy khoảng 30 phút. Ăn bánh khi còn nóng hổi, vừa mới ra lò là ngon nhất. Lớp vỏ bánh bóng loáng, dẻo dai, hòa cùng mùi thơm của rau khúc, hạt tiêu, đỗ, thịt và sự giòn tan của mộc nhĩ.

Sau tháng 10, khi vụ lúa hè thu kết thúc, cũng là lúc rau khúc mọc mơn mởn, người dân làng Diềm hái về làm bánh và phơi khô dùng dần. Qua mùa khúc, người ta chỉ có thể làm bánh với rau khúc khô, vì thế bánh khúc sẽ có màu nâu đen. Trông vẻ ngoài của bánh không thu hút nhưng hương vị vẫn ngon lành như bánh khúc xanh.


Bánh khúc làng Diềm không chỉ độc đáo về hương vị, màu sắc mà còn chứa đựng cái tình của người Quan họ. Những cái bánh ngọt thơm đã đi sâu vào tiềm thức của những người con sinh ra trên mảnh đất Kinh Bắc và giờ đây còn được lưu truyền rộng rãi đến mọi miền tổ quốc.

Theo: iVIVU



THÁI LANG TỬ (ĐÀO HOA TU TÁC VÔ TÌNH TỬ) - NẠP LAN TÍNH ĐỨC


Thái tang tử 
(Đào hoa tu tác vô tình tử)

Đào hoa tu tác vô tình tử,
Cảm kích đông phong,
Xuy lạc kiều hồng,
Phi nhập song gian bạn áo nông.

Thuỳ lân tân khổ đông dương sấu?
Dã vị xuân dung,
Bất cập phù dung,
Nhất phiến u tình lãnh xứ nùng.


采桑子
(桃花羞作無情死)

桃花羞作無情死,
感激東風,
吹落嬌紅,
飛入窗間伴懊儂。

誰憐辛苦東陽瘦?
也為春慵,
不及芙蓉,
一片幽情冷處濃。


Thái tang tử 
(Đào thẹn lìa cành vô tình quá)
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Hoa đào thẹn với gió đông.
Cánh hồng rơi rụng, nhác trông vô tình.
Bên song hoa chỉ lặng thinh.
Hoa muốn làm bạn với mình đấy chăng ?.
Xuân dung vò võ, đãi đằng.
Thường người mềm yếu, cầm bằng được đâu !.
Phù dung hoa quý ngõ hầu.
Xuân nồng còn ủ, một mầu lạnh căm


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Nạp Lan Tính Đức 納蘭性德 (19/1/1655 - 1/7/1685) là từ nhân đời Thanh, họ nguyên tên Thành Đức 成德 sau do kiêng huý thái tử Bảo Thành nên đổi tên là Tính Đức, họ Nạp Lan (còn gọi là Diệp Hách Na La 葉赫那拉), tự Dung Nhược 容若, hiệu Lăng già sơn nhân 楞伽山人, người Mãn Châu thuộc Chính hoàng kỳ, được tôn là Thanh Sơ đệ nhất từ nhân. Ông là con của Đại học sĩ Minh Châu 明珠, tiến sĩ đời Khang Hy, quan Nhất đẳng thị vệ. Ông giỏi cưỡi ngựa bắn cung lẫn văn chương, tài hoa nhưng yểu mệnh, ngoạ bệnh mất khi mới 31 tuổi. Từ của ông đa cảm sầu bi.

Nguồn: Thi Viện

 

LỄ HỘI DIWALI HIỆN THÂN CHO CHIẾN THẮNG CỦA ÁNH SÁNG TẠI ẤN ĐỘ

Lễ hội ánh sáng Diwali là dịp lễ lớn nhất và quan trọng nhất trong năm ở Ấn Độ, nhất là với những người theo đạo Hindu. Hãy cùng MIA.vn giải mã nét đặc sắc của ngày lễ quốc gia này thông qua bài viết sau đây.


1. Lịch sử hình thành lễ hội Diwali

Diwali, hay còn gọi là lễ hội ánh sáng Diwali, là một trong những sự kiện trọng đại bậc nhất tại Ấn Độ được tổ chức vào khoảng tháng 10 hằng năm. Ngoài là một lễ hội tôn giáo, Diwali còn là một dịp để thể hiện sự kết hợp độc đáo giữa tôn giáo và văn hóa. Nghĩa đen của Diwali là “một chuỗi những tia sáng”, kéo dài khoảng 5 ngày để tôn vinh chiến thắng huy hoàng của cái thiện trước cái ác và bóng tối.


Kinh Vệ Đà chép lại, ngày xưa Ấn Độ từng là vương quốc Ayodhya. Trong thời gian lưu đày của Hoàng tử Rama (hóa thân của thần Vishnu) và vợ là Sita (hóa thân của nữ thần Lakshmi), Sita từng bị quỷ vương Ravan bắt cóc. Nhờ sự giúp sức của thần khỉ Hanunam mà Rama đã đánh bại quỷ vương và cứu được vợ mình. Đối với một số người theo đạo Hindu, Diwali đánh dấu sự trở lại vương quốc đầy hân hoan của Rama và Sita sau 14 năm lưu vong.

Đó cũng là lý do châm ngọn đèn và nến đã trở thành biểu tượng chính của Diwali. Những hoạt động có trong ngày lễ bao gồm làm sạch, trang trí nhà cửa, trao đổi quà tặng và làm lễ cúng tôn thờ các vị thần. Ngoài ra một yếu tố không thể không nhắc đến chính là bữa tiệc đầy ắp những món ngon truyền thống. Lúc này, người người sẽ mặc trang phục đủ màu sắc và tham gia vào hoạt động vui chơi, nhảy múa, âm nhạc… để đón mừng.

Thắp sáng diyas (đèn đất sét) và làm các mẫu rangoli (đồ trang trí đầy màu sắc trên sàn) là phong tục truyền thống của Diwali

Ánh sáng tràn ngập khắp không gian lễ hội. Ảnh: Sanjay Kanojia/AFP via GETTY

2. Thời gian diễn ra lễ hội Diwali

Lễ hội ánh sáng Diwali được tổ chức hàng năm vào mùa thu, thường rơi vào khoảng từ tháng 10 đến tháng 11. Thời gian diễn ra khoảng 5 ngày với lễ chính vào ngày thứ ba. Theo kinh nghiệm du lịch Ấn Độ, cụ thể các mốc thời gian như sau:

Dhanteras: Ngày đầu tiên của Diwali thường được đánh dấu bằng cách mua đồ trang sức bằng vàng và bạc, đồ dùng và các đồ gia dụng mới khác để cầu may. Nhiều người cũng sẽ thực hiện dọn dẹp nhà cửa để cầu xin phước lành của Lakshmi, nữ thần giàu có và thịnh vượng. Những người khác thường tôn vinh Dhanvantari, vị thần của Ayurveda và Yamaraj, thần chết vào ngày này.

Choti Diwali, hay Naraka Chaturdashi: Ngày thứ hai của Diwali đánh dấu sự đánh bại của Krishna trước quỷ vương Narakasura. Mọi người thức dậy sớm để tắm và gội đầu, ngoài ra họ cũng dọn dẹp nhà cửa, trang trí bằng rangolis và diyas và chuẩn bị đồ ngọt.

Diwali, hay Lakshmi Puja: Ngày thứ ba của lễ hội Diwali là ngày mà mọi người thường gọi là Diwali. Lúc này các gia đình thường tụ tập để trao đổi quà tặng, thưởng thức những món ăn hảo hạng và thưởng thức đồ ngọt. Nhiều người theo đạo Hindu sẽ thờ nữ thần Lakshmi trong hôm này.

Padwa, hay Govardhan Puja: Ngày này được dành để tôn vinh mối quan hệ giữa vợ và chồng, người có gia đình cũng thường mua một món quà cho vợ/chồng của mình. Theo một số truyền thống, dịp này để kỷ niệm ngày Krishna nâng đồi Govardhan để bảo vệ dân làng Vrindavan khỏi những cơn mưa do cơn giận dữ của Indra gây ra. Một số tín đồ dâng một núi thức ăn cho Krishna để tưởng nhớ, một số thì làm các bức tượng bằng đất sét và phân bò để tái hiện sự kiện này.

Bhai Dooj: Ngày cuối cùng của lễ hội Diwali kỷ niệm tình yêu giữa anh chị em, nhằm tôn vinh mối quan hệ giữa Yama và em gái Yami (hoặc Yamuna). Phụ nữ đôi lúc sẽ đặt một dấu tilak hoặc dấu đỏ lên trán anh trai mình, trong khi anh em sẽ tặng quà cho em gái.


Ý nghĩa của Diwali là cho thấy ánh sáng có thể chế ngự bóng tối như thế nào

Dhanteras đánh dấu sự khởi đầu của lễ hội ánh sáng kéo dài 5 ngày và được cho là mang lại sự giàu có cũng như gia tăng cơ hội làm giàu. Ảnh: AP/Bhumika Saraswati

Vàng và bạc không chỉ được coi là một giao dịch mua bán tốt lành mà còn có sức mạnh xua đuổi mọi năng lượng tiêu cực

3. Ý nghĩa và cách tổ chức lễ hội Diwali

3.1 Ý nghĩa của lễ hội ánh sáng Diwali là gì?

Diwali được phần lớn người theo đạo Hindu, đạo Sikh, đạo Jain và đạo Phật tổ chức, nhưng cũng giống như lễ Giáng sinh, hiện tại dịp này đã được nhiều người ngoại đạo hưởng ứng. Ý nghĩa của lễ hội thường thay đổi tùy theo cộng đồng và khu vực. Một trong những truyền thuyết trọng tâm của Diwali đến từ sử thi Hindu, Ramayana được kể lại như trên phần lịch sử.

Một số người theo đạo Hindu ở miền nam Ấn Độ ăn mừng việc Krishna đánh bại Narakasura, dẫn đến việc giải cứu 16.000 cô gái bị quỷ dữ giam cầm. Ở miền Tây Ấn Độ, lễ hội Diwali kỷ niệm ngày thần Vishnu trục xuất quỷ vương Bali cai trị thế giới ngầm.

Người Sikh kỷ niệm dịp này với tên gọi “Bandi Chhor Divas” (Ngày Giải phóng), đánh dấu ngày Guru Hargobind, đạo sư thứ sáu và 52 vị vua Hindu được giải thoát khỏi sự giam cầm oan trái. Hoàng đế Mughal Jahangir ban đầu chỉ đồng ý thả Guru Hargobind, nhưng đạo sư từ chối đi mà không có nhà vua. Sau khi Jahangir tuyên bố rằng những ai có thể giữ áo choàng của đạo sư mới được rời đi, Guru Hargobind đã buộc 52 chiếc tua vào áo choàng của mình để mỗi người cai trị có thể được thả tự do.

Đối với đạo Jain, Diwali là ngày Mahavira, nhà lãnh đạo tinh thần cuối cùng của họ, đã chết về thể xác và đạt được giác ngộ. Một số Phật tử thừa nhận Diwali là ngày hoàng đế Ashoka đón nhận Phật giáo.

Diwali là lễ hội nhằm tôn vinh nữ thần Lakshmi và thần Ganesh

3.2 Diwali được tổ chức như thế nào?

Ngoài những truyền thống phổ biến về trang trí nhà cửa, đốt pháo và thưởng thức những món ăn ngon, lễ hội Diwali còn được tổ chức bằng nhiều cách khác. Ở một số vùng của Ấn Độ, người ta chơi các trò chơi bài như teen patti, blackjack và poker. Đánh bạc trong dịp lễ được coi là tốt lành, bắt nguồn từ một truyền thuyết trong đó thần Shiva và người phối ngẫu Parvati chơi một trò chơi xúc xắc. Diwali cũng đánh dấu sự khởi đầu năm mới của người theo đạo Hindu, nhiều doanh nghiệp, người buôn bán sẽ mở sổ tài khoản mới trong kỳ nghỉ lễ.

Thêm vào đó, việc trao đổi những món quà chân thành trong những ngày lễ Diwali đã trở thành một phần bắt buộc của lễ kỷ niệm. Bạn bè, gia đình và đồng nghiệp chia sẻ với nhau những món quà như một cử chỉ thể hiện tình yêu thương và tình cảm. Ngoài ra, theo kinh nghiệm du lịch, bữa tiệc đặc biệt và hoành tráng với những món ăn ngon thường gồm nhiều loại đồ ngọt khác nhau cũng là điểm thu hút đặc biệt của dịp này.

Diwali được coi là ngày lễ lớn nhất trong đạo Hindu, nhưng hiện tại cũng đã trở thành một lễ hội quốc gia qua nhiều thế kỷ dành cho cả cộng đồng không theo đạo. Ảnh: Rajesh Jantilal/AFP via Getty

Để ăn mừng, những người theo đạo sẽ thắp sáng ngôi nhà của họ bằng nến, đèn và pháo hoa. Ảnh: Suvankar Sen/Pacific Press/Lightrocket via Getty

4. Lưu ý khi tham gia lễ hội Diwali


Tôn trọng văn hóa và tín ngưỡng người dân bản địa: Lễ hội ánh sáng Diwali có ý nghĩa tôn giáo và văn hóa vô cùng sâu sắc. Thế nên, MIA.vn khuyên bạn cần tuận theo các quy tắc, tập tục và tín ngưỡng của người dân địa phương, để thể hiện sự tôn trọng cũng như có được những trải nghiệm ý nghĩa hơn.

Đảm bảo quy định an toàn: Lễ hội Diwali nổi tiếng với những ngọn nến và đèn được thắp sáng. Khi châm đèn bạn phải lưu ý tuân thủ theo các quy định về an toàn, tránh châm đèn gần vật dụng dễ cháy, giữ khoảng cách an toàn cũng như tắt chúng đi nếu bạn không còn ở gần nữa. Đây cũng là cách để đảm bảo an toàn cho mọi người xung quanh cũng như bản thân.

Trang phục truyền thống: Bạn có thể mặc trang phục truyền thống để tận hưởng dịp lễ Diwali, vừa thể hiện sự tôn trọng, vừa có thể tham gia trọn vẹn lễ hội.

Bạn có thể mặc trang phục như người dân bản địa để hòa cùng không khí lễ hội ánh sáng Diwali

Ngoài ra đến với lễ hội ánh sáng Diwali bạn cần lưu ý đây là thời gian du lịch cao điểm của người Ấn Độ, kéo dài đến vài tuần sau đó. Hy vọng những thông tin chi tiết đã được MIA.vn cung cấp trên đây sẽ giúp bạn sắp xếp vali, chuẩn bị thật tốt trước khi ghé thăm nơi đây.

Anh Tran / Theo: MIA



TÁM TỪ KỲ DIỆU LÀM THAY ĐỔI THẾ GIỚI

Qua nguồn gốc của những từ này, người ta nhận ra thế giới đã thay đổi ra sao khi con người sáng chế ra cách diễn đạt và ý nghĩa các từ đó.


Mỗi từ chứa đựng một câu chuyện, một lịch sử bí mật. Đằng sau những âm tiết ta sử dụng hàng ngày ẩn chứa vô số câu chuyện đã bị lãng quên.

"Nếu bạn biết nguồn gốc của một từ," học giả Isidore người vùng Seville hồi thế kỷ thứ Sáu nói, "mọi thứ có thể được hiểu rõ ràng hơn."

Trong khi hầu hết các từ vô tư được đưa vào sử dụng mà không ai để ý và không còn lại chút dấu vết nào trên hành trình đó, có những sáng tạo từ vựng cao cấp đã được ghi nhận đầy đủ ngày tháng chính xác đầu tiên chúng được phát biểu và tạo ra.

Có những từ đơn giản chỉ là phát kiến bất chợt trong tâm trí trẻ thơ của ai đó nay đã bị quên lãng theo chiều dài thời gian. Nhưng một số khác là sự phối hợp của những nhà tiên phong văn hóa, những người đã chủ động định hình cách thế hệ tương lai suy nghĩ và biểu đạt.

Điều thú vị là khi giải mã tiểu sử một từ, chúng ta lại giải mã cả tiểu sử của những người đã tạo ra chúng cũng như thời đại người đó sống. Tám từ ngữ thú vị sau đây đã thay đổi cách chúng ta suy nghĩ, nhìn, lắng nghe, khám phá và tồn tại trong thế giới quanh mình:

Twitter

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Mạng xã hội có lẽ sẽ bớt phần sôi nổi nếu không có biểu tượng chú chim đang hót của Twitter: biểu tượng màu xanh của chú chim nổi bật bay giữa không trung trong tiếng líu lo.

Nhưng ai là người đầu tiên đã tưởng tượng ra âm tiết để bắt chước giữa tiếng của loài có lông vũ và ngôn ngữ của loài người?

'Twitter' (hay 'twiterith' như nó lần đầu tiên được tạo ra vào cuối Thế kỷ 14), lần đầu tiên tuôn ra từ đầu ngọn bút của Geoffrey Chaucer trong bản dịch "Sự an ủi của triết học" (Consolation of Philosophy) của nhà triết học Boethius từ thế kỷ thứ Sáu.

Xuất hiện trước cả hai từ "chirp" (ríu rít) và "warble" (líu lo) khoảng một thế kỷ, 'twitter' là một trong 2.200 từ mới mà nhà thơ thời Trung cổ này đã lần đầu tiên đưa vào sử dụng. Đây cũng là tác giả đã viết bài thơ "Nghị hội của đám đông" (Parlement of Foules) và điều này dường như cũng hoàn toàn phù hợp.

Serendipity - Khả năng tình cờ gặp vận may

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Trước năm 1754, nếu ai đó muốn diễn tả "việc ngẫu nhiên khám phá ra được điều gì đó", người đó sẽ phải nhúng đầu bút vào lọ mực vài lần để có thể diễn đạt đầy đủ dòng cảm xúc dài dòng.

Sau đó bất thần, vào thứ Ba ngày 28/1, nhà văn người Anh Horace Walpole, trong khi viết thư, đã dành tặng cho thế giới một từ vựng tinh tế: "serendipity" (tình cờ).

Walople nói sáng tạo trữ tình của ông dựa vào một truyện cổ tích Ba Tư, có tên "Ba hoàng tử của vùng Serendip", mà ông cho rằng "luôn luôn có phát hiện mới bằng sự tài trí và ngẫu nhiên". Chỉ có điều, thứ mà Walpole nhớ nhầm là ý chính của câu chuyện (trong truyện các hoàng tử thất bại khi tìm kiếm dù đã nỗ lực rất nhiều), dù rằng cũng không ảnh hưởng gì lắm; "serendipity" ở đây vẫn có nghĩa là một sự tình cờ vui vẻ.

Đây không chỉ là sáng tạo bất thường duy nhất của Walpole.

"Betweenity" (giữa) một từ duyên dáng hơn từ đồng nghĩa của nó, "intermediateness" (sự trung gian) cũng có đem lại cảm xúc tương tự như người anh em "serendipity" của nó mang lại.

Panorama - Ảnh rộng

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Một số từ có vẻ như rung lên với tinh thần từ ý nghĩa mà nó diễn đạt. "Panorama" là một trong những từ như vậy, vần điệu của nó có vẻ rất hài hòa với tầm nhìn cao rộng mênh mông, những đường chân trời bất tận, và tầm nhìn không bị giới hạn, đúng với nghĩa mà nó thể hiện.

Từ này (vốn có nghĩa là "nhìn thấy tất cả") có lẽ đã xuất hiện trong từ điển khoảng năm 1789, một năm trùng hợp với sự sụp đổ của một phong trào văn hóa nổi tiếng, cuộc phá ngục Bastille ở Paris, và có vẻ như hoàn toàn phù hợp với cảm giác giải phóng của tầm nhìn xa rộng.

Mỉa mai thay, sau đó, khi người ta phát hiện ra từ này ban đầu lại gắn với một trải nghiệm hoàn toàn bị giam hãm: một bức tranh hình trụ giam cầm khán giả của nó - một thiết bị hình ảnh trong nhà do nghệ sĩ người Irish tên Robert Barker nghĩ ra.

Visualise - Hình dung

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Rất khó tin để nghĩ rằng không có ai từng "hình dung" bất cứ gì trước năm 1817, nhưng đó là năm mà nhà thơ trữ tình và nhà phê bình tên là Samuel Taylor Coleridge đã tạo ra từ này trong lời tự thú triết học của ông có tên Biographia Literaria (Phác thảo chân dung văn học đời tôi) (một thế kỷ trước khi từ "envision" được ra đời).

Nhìn lại, từ này phù hợp với một người viết mà tâm nhãn của ông bị ám ảnh bởi những hình ảnh ma mị như chiếc tàu ma trong trường ca "Màn sương mù của người thủy thủ cổ", và bởi "những ánh mắt sáng chói" và "mái tóc bồng bềnh" đã kết thúc lời thơ tiên tri của ông ở bài thơ Kubla Khan trong sự bất an, đó cũng là những thứ để gọi tên những vật thể ta thấy được không phải bằng mắt thường.

Cả cuộc đời bị hành hạ bởi vật chất và những vật thể vô hình, không có gì ngạc nhiên khi Coleridge đem đến cho tiếng Anh nhiều từ mới mô tả những khía cạnh tối tăm của trải nghiệm, như các từ "psychosomatic"(tâm linh), và "pessimism" (chủ nghĩa bi quan).

Trí tuệ hóa - Intellectualise

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Coleridge cũng nổi tiếng vì đã sáng tạo ra một động từ nữa, là từ "intellectualise" (Trí tuệ hóa) - có nghĩa là chuyển một vật thể vật chất thành một sản phẩm trí tuệ.

Trong khi rõ ràng ông cũng là tác giả tạo ra một cụm từ với nghĩa hoàn toàn trái ngược, một từ ít được sử dụng là "thingify" (vật thể hóa) (có nghĩa là chuyển một ý nghĩ thành đồ vật) - trong thực tế từ "trí tuệ hóa" có lẽ thuộc về một cảm hứng nhưng đồng thời cũng tối nghĩa từ một nhà thơ trữ tình: đó là kẻ lãng du bí ẩn thế kỷ 18 nổi tiếng với biệt danh "Walking Stewart" được vinh danh là người đã đi bộ qua phần lớn của thế giới được loài người biết đến thời đó nhiều hơn bất cứ ai.

Trong suốt hàng chục năm ông đi lang thang qua Ấn Độ, Châu Phi và Châu u, Stewart phát triển một triết lý kỳ dị với khái niệm trung tâm là tâm trí và cơ thể là dòng chảy liên tục giữa một thế giới được trí tuệ hóa không ngừng và một tinh thần được vật chất hóa không ngừng.

Quan liêu - Bureaucracy

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Người kể chuyện đi lang thang trong ca khúc "Big Rock Candy Mountain" của Harry McClintock năm 1928 mơ được chạm đến thiên đường an nhiên, nơi "người ta treo cổ một kẻ lập dị, kẻ đã nghĩ ra việc làm".

Lịch sử không nhớ đến tên của "kẻ lập dị" đó, nhưng chúng ta biết danh tính của nhà kinh tế Pháp đã sáng chế ra một từ cũng mệt mỏi gần như tương tự: đó là từ "bureaucracy" [sự quan liêu].

Năm 1818, Jean Claude Marie Vincent de Gournay kết nối một từ tiếng Pháp với nghĩa bàn giấy (bureau) với một hậu tố từ tiếng Hy lạp có nghĩa "sức mạnh của" (-cracy) để đặt tên cho tình trạng trì trệ bắt đầu kìm siết xã hội.

Là người đã tạo ra một từ chỉ các hoạt động của chính phủ áp đặt những luật lệ tẻ nhạt lên hành vi của từng cá nhân, Gournay có lẽ là người cuối cùng mà chúng ta trông đợi sẽ chế tạo ra một cụm từ có nghĩa "hãy để mọi người làm thứ họ nghĩ là tốt nhất", đó là từ : laissez-faire.

Nhiếp ảnh - Photograph

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Thật kỳ lạ khi nghĩ đến một trong những thứ có cái tên có vẻ ổn định nhất mà chúng ta gắn cho những vật thể xung quanh mình chỉ mới được chấp nhận một cách từ từ và qua quá trình tự chọn lọc.

Đề xuất của nhà thiên văn học và nhà sáng chế, Ngài John Herschel, năm 1839 về từ "photograph" [nhiếp ảnh] đã gặp phải sự cạnh tranh gay gắt trước khi trở thành một từ ổn định vĩnh viễn trong hệ thống từ vựng của thế giới.

Nếu lịch sử rẽ qua một hướng khác, những từ bạn được sử dụng có thể là nhắc nhở bạn không gửi đủ "bản in mặt trời" (sun-print) hay "photogenes". Một đối thủ của từ này là "heliograph", vốn từng vượt mặt từ "photograph" trong một thế hệ, khiến đề xuất của Herschel phải chạy đua để chứng tỏ sự ưu việt hơn hẳn.

Người không có khả năng - Muggle

Nguồn hình ảnh,Tom McShane

Đàn ông không phải là giới độc quyền trong việc tạo ra những từ ấn tượng, tuy nhiên những nhà sáng chế từ vựng nữ lại ít khi được tôn vinh.

Đóng góp của họ với nền văn hóa thường bị gạt ra bên lề, vậy bạn có ngạc nhiên không khi biết rằng từ điển tiếng Anh Oxford đã ghi nhận các nữ văn sỹ là những người đầu tiên sử dụng các từ như "outsider" [kẻ ngoài cuộc] (Jane Austen năm 1800) và "angst" (du nhập từ tiếng Đức bởi George Eliot năm 1849).

Và vào thời đại của chúng ta, một lần nữa một nữ tiểu thuyết gia được ghi nhận là người có khả năng thiên phú với quyền lực khởi xướng và là người muốn mọi thứ theo cách của pháp thuật.

J K Rowling đã chế tạo ra từ "muggle" trong tác phẩm bà viết năm 1997 có tên "Harry Potter và Hòn đá Phù thủy" để mô tả sự thiếu vắng chết người của những kỹ năng siêu tự nhiên, nhắc nhở về sự kỳ diệu truyền kỳ của từ vựng - mô tả những người có và những người không có khả năng gì đó.

Kelly Grovier
Theo: BBC Culture
Link tiếng Anh: