(Đào hoa tu tác vô tình tử)
Đào hoa tu tác vô tình tử,
Cảm kích đông phong,
Xuy lạc kiều hồng,
Phi nhập song gian bạn áo nông.
Thuỳ lân tân khổ đông dương sấu?
Dã vị xuân dung,
Bất cập phù dung,
Nhất phiến u tình lãnh xứ nùng.
采桑子
(桃花羞作無情死)
桃花羞作無情死,
感激東風,
吹落嬌紅,
飛入窗間伴懊儂。
誰憐辛苦東陽瘦?
也為春慵,
不及芙蓉,
一片幽情冷處濃。
Thái tang tử
(Đào thẹn lìa cành vô tình quá)
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Hoa đào thẹn với gió đông.
Cánh hồng rơi rụng, nhác trông vô tình.
Bên song hoa chỉ lặng thinh.
Hoa muốn làm bạn với mình đấy chăng ?.
Xuân dung vò võ, đãi đằng.
Thường người mềm yếu, cầm bằng được đâu !.
Phù dung hoa quý ngõ hầu.
Xuân nồng còn ủ, một mầu lạnh căm
Nạp Lan Tính Đức 納蘭性德 (19/1/1655 - 1/7/1685) là từ nhân đời Thanh, họ nguyên tên Thành Đức 成德 sau do kiêng huý thái tử Bảo Thành nên đổi tên là Tính Đức, họ Nạp Lan (còn gọi là Diệp Hách Na La 葉赫那拉), tự Dung Nhược 容若, hiệu Lăng già sơn nhân 楞伽山人, người Mãn Châu thuộc Chính hoàng kỳ, được tôn là Thanh Sơ đệ nhất từ nhân. Ông là con của Đại học sĩ Minh Châu 明珠, tiến sĩ đời Khang Hy, quan Nhất đẳng thị vệ. Ông giỏi cưỡi ngựa bắn cung lẫn văn chương, tài hoa nhưng yểu mệnh, ngoạ bệnh mất khi mới 31 tuổi. Từ của ông đa cảm sầu bi.
Nguồn: Thi Viện