Các thợ săn người Khiết Đan. (Tranh thời Tống - Miền công cộng)
Tướng quân Dương gia vô địch
Dương lão lệnh công Dương Nghiệp năm đó đã giao đấu với người Khiết Đan ở biên giới hàng chục năm, ông không thua trận nào, sau này ông được mệnh danh là “Dương vô địch”. Thật không may, ông khi đi gặp một người bạn đã vô tình bị người Khiết Đan bắt giữ. Người Khiết Đan quý tài của ông, nói rằng hỡi lão tướng quân, ông có thể tham gia cùng chúng tôi, giúp chúng tôi thống nhất thiên hạ, và ông cũng sẽ làm nên vinh quang cho tổ tiên của mình. Nhưng Dương Nghiệp đến chết cũng không chịu hợp tác, tuyệt thực ba ngày rồi qua đời.
Người Khiết Đan tuy buồn bực nhưng cũng có chút vui mừng, một khi tảng đá lớn Dương Nghiệp bị dỡ bỏ, tiến về phương nam sẽ không thành vấn đề. Đại nghiệp thống nhất sắp đến gần. Đáng tiếc, điều họ không ngờ tới chính là đã xuất hiện một người còn lợi hại hơn Dương Nghiệp, đây chính là con trai cả của ông, Dương Diên Chiêu.
Nhắc tới Dương Diên Chiêu, ông còn có một cái tên quen thuộc hơn là Dương Lục Lang. Là con trai trưởng, nên phải gọi là Dương Đại Lang mới đúng, tại sao lại gọi là Lục Lang? Điều này cũng có xuất xứ của nó. Cuốn “Tống sử” nói rằng cái tên Lục Lang là do người Khiết Đan đặt. Dương Diên Chiêu luôn có thể khiến người Khiết Đan bội phục. Người Khiết Đan sùng kính anh hùng, nói rằng họ là những tướng tinh của thiên thượng hạ phàm. Họ gọi ngôi sao quản tướng là sao Lục Lang, nên họ gọi Dương Diên Chiêu là Dương Lục Lang.
Dương Lục Lang quả thực là người nhiều mưu kế khi hành quân và chiến đấu, lại luôn có một số chiêu trò thần kỳ, thường lấy ít thắng nhiều, giống như chiến thần Hàn Tín năm xưa. Trong trận Toại Thành nổi tiếng, Dương Lục Lang một mình bảo vệ cô thành, tính cả dân chúng chỉ có ba nghìn người bên ông. Phía trước là đại quân 10 vạn do thái hậu Tiêu của nhà Đại Liêu chỉ huy, có trang bị công thành tiên tiến, phía sau là quân tiếp viện đã chờ đợi từ lâu, nhìn thế nào cũng đều là đường chết. Tuy nhiên, trong tuyệt cảnh, Dương Lục Lang đã nghĩ ra một diệu kế.
Lúc đó đang giữa mùa đông, nước nhỏ xuống liền biến thành băng. Ông yêu cầu dân binh đổ nước lên tường thành qua đêm. Ngày hôm sau, các bức tường tứ phía bị đóng băng thành tường băng khiến mọi thứ trơn trượt. Người dân Khiết Đan chết lặng khi nhìn thấy nó. Làm thế nào để leo lên? Dù có bao nhiêu người cũng không thể leo lên được. Xong rồi, chúng ta hãy đi đường vòng và tấn công Thái Châu bên cạnh. Tuy nhiên, ngay khi họ rút lui, Dương Lục Lang lập tức liên lạc với tướng quân của hai thành phố lân cận, quả quyết rời khỏi thành, tấn công họ từ cả phía trước và phía sau. Kết quả là quân Liêu đại bại, thương vong thảm trọng, áo giáp và cờ vứt bỏ trên con đường hàng trăm dặm.
Dương Diên Chiêu. (Cổ Thụy Trân - Epoch Times)
Mười sáu châu Yến Vân
Sau nhiều trận đánh như vậy, dã tâm thống nhất Trung Nguyên của người Khiết Đan đã bị đánh bại, sau đó họ ký kết “Liên minh Đàn Nguyên” với triều đại Bắc Tống ở phía nam, nói rằng chúng ta hãy giao hảo, kết thành anh em. Anh làm anh trai, tôi làm em trai. Anh ơi, nếu anh mỗi năm cho em một ít tiền tiêu vặt, em sẽ không vào nam quấy rối anh. Nhưng số tiền tiêu vặt này cũng không phải là số tiền nhỏ, nó có giá một trăm nghìn lượng bạc và hai mươi vạn tấm lụa. Tuy nhiên, là triều đại nhu nhược nhất và giàu có nhất trong lịch sử Trung Quốc, nên Bắc Tống hoàn toàn đồng ý.
Điều này đã dẫn đến hàng trăm năm hòa bình. Thật không may, lịch sử 5.000 năm của Trung Quốc luôn đi kèm với những phong ba khởi phục, và thường xuyên có những dòng nước ngầm cuộn lên bên dưới làn nước tưởng chừng như bình lặng. Người Nữ Chân ở phía đông lặng lẽ nổi dậy, kiến lập một quốc gia tên là Đại Kim.
Người Nữ Chân đến Bắc Tống nói, Đại Liêu không là thứ gì cả, bọn họ ở đây ức hiếp các bạn, mỗi năm đều bắt các bạn phải cống nạp, ngoài việc cống nạp, bọn họ còn ức hiếp phụ nữ của chúng ta. Hãy cùng liên thủ để tiêu diệt chúng. Các bạn có thể lấy lại 16 châu Yến Vân trong tay Đại Liêu, chúng ta chỉ cần số tiền tiêu vặt đó thôi là được.
Nhắc đến 16 châu Yến Vân, cũng có một câu chuyện đằng sau nó.
Mười sáu châu Yến Vân đề cập đến Bắc Kinh, Thiên Tân, phía bắc Hà Bắc và phía bắc Sơn Tây hiện tại, địa thế từ trên cao dốc xuống, dễ phòng thủ khó tấn công, là giới tuyến tự nhiên giữa những dân tộc du mục phương bắc và dân tộc nông canh phương nam, và cũng là yếu điểm chiến lược tranh đoạt giữa các vương triều của Trung Nguyên và các quốc gia dân tộc du mục phương bắc.
Mười sáu châu Yến Vân nguyên bản là nằm trong tay nhà Đường. Sau khi nhà Đường diệt vong, tiến nhập vào thời kỳ ngũ đại thập quốc. Thạch Kính Đường, hoàng đế khai quốc của triều đại Hậu Tấn, vì để nhận được sự ủng hộ của người Khiết Đan, đã nhẫn tâm dâng vùng đất này cho Da Diệp Đức Quang, Thái Tông của triều đại Liêu. Liêu Thái Tông rất vui mừng, nói rằng đây là lễ vật từ thiên thượng. Từ đó trở đi, người Khiết Đan bắt đầu sống tạp cư với người Hán, và điều này cũng mở đường cho sự diệt vong sau đó của dân tộc này mà chúng ta sẽ nói chi tiết dưới đây.
Lại nói, Bắc Tống vừa nghe nói có thể thu hồi lại mười sáu châu Yến Vân, liền cho rằng thương vụ này không tồi, đó chính là vùng đất mà Bắc Tống vẫn luôn tâm tâm niệm niệm muốn đoạt lại. Tuy nhiên, phương án ban đầu của họ là dùng tiền để chuộc về, vì mục đích này, Tống Thái Tổ cũng thành lập một kho bạc nhỏ chuyên dụng gọi là “Kho bạc Phong Chang”.
Bằng cách này, hai bên đã hợp tác, lập ra một “liên minh trên biển”, cả hai bên đều tấn công Đại Liêu từ bên sườn. Rất nhanh sau đó, vào năm sau, Đại Liêu mất đi một nửa lãnh thổ, lại một năm sau nữa, hoàng đế cuối cùng của Đại Liêu là Thiên Tộ đế bắt đầu hành trình chạy trốn thoát thân, ba năm sau, ông bị nhà Tấn bắt được, nhà Liêu bị tiêu diệt. Sau khi vong quốc, một số vương tộc Đại Liêu còn sót lại đã thành lập Tây Liêu ở Tân Cương. Tây Liêu từng mở rộng sang Ba Tư, trở thành một cường quốc ở Trung Á, nhưng nó chỉ tồn tại được hơn 80 năm trước khi bị kỵ binh Mông Cổ tiêu diệt. Tộc Khiết Đan từ đó đã biến mất khỏi lịch sử.
Còn nhà Bắc Tống thì sao? Chẳng phải ban đầu Bắc Tống đã lập khế ước làm anh em với Đại Liêu? Vi bội khế ước sẽ bị báo ứng. Hai năm sau khi nhà Liêu diệt vong, Bắc Tống cũng bị diệt vong trong tay nhà Kim. Mặc dù vương triều Nam Tống tồn tại lâu hơn, nhưng 16 châu Yến Vân vẫn bị Đại Kim cướp đi, hàng năm phải trả số tiền gấp bội. Có thể nói cái giá phải trả quá lớn.
Hàng triệu người cùng nhau biến mất?!
Người Khiết Đan còn thảm hơn. Sự diệt vong của một triều đại không có gì bất thường, nhưng là một quốc gia rộng lớn thống trị miền bắc Trung Quốc trong 200 năm, Đại Liêu có dân số 2 triệu người khi mới thành lập, vào thời kỳ đỉnh thịnh thậm chí đạt tới 9 triệu người. Tuy nhiên, khi nhà Liêu bị diệt vong, dân số khổng lồ này đều biến mất, bóng dáng của họ cũng không còn được tìm thấy trong sử sách nữa, thật kỳ lạ.
Bạn thấy đấy, sau khi nước Mông Cổ diệt vong, người Mông Cổ vẫn sống trên thảo nguyên của tổ tiên họ, và người Mãn Châu vẫn ở đó sau khi nhà Thanh diệt vong. Tuy nhiên, sau khi nhà Liêu vong quốc, dân tộc Khiết Đan không còn tồn tại, trong 56 dân tộc của Trung Quốc không có tộc Khiết Đan. Vậy tất cả họ đã đi đâu?
2 đô vật người Đạt Oát Nhĩ. (Wikipedia/ Khereid/ SA-3.0)
Một bộ phận nhỏ trong số họ đã đến Tây Liêu và cuối cùng đồng hóa với các dân tộc ở Tây Á. Một số quý tộc cũng đổi họ sau khi rơi vào tay nhà Kim, trong đó được sử dụng phổ biến nhất là họ “Lưu”. Một số người sau đó đã đào thoát sang Mông Cổ, Da Luật Sở Tài, mưu sĩ của Thành Cát Tư Hãn và sau này là tể tướng nhà Nguyên, là một ví dụ điển hình. Nhưng đây chỉ là một bộ phận rất nhỏ trong dân chúng Khiết Đan, chủ yếu là quý tộc, vậy hàng triệu bình dân bách tính đã đi đâu?
Trên thực tế, sự biến mất của người Khiết Đan chỉ sau một đêm luôn là một bí ẩn chưa có lời giải trong giới sử học. Nếu họ không biến mất, mà bằng cách nào đó vẫn sinh tồn, thì con cháu hậu đại của họ ở đâu?
DNA xác nhận hậu duệ của người Khiết Đan là…
Liên quan đến vấn đề này, có ba câu đáp án khác nhau đang lan truyền trên Internet.
Đáp án đầu tiên là họ đã trở về quê hương ở vùng Đông Bắc Trung Quốc và trở thành người Daur hiện nay. Một số học giả đã so sánh tập tục sinh hoạt, tín ngưỡng tôn giáo, ngôn ngữ và các phương diện khác của người Khiết Đan và người Daur, kết luận rằng người Daur là dân tộc kế thừa nhiều truyền thống của người Khiết Đan nhất. Ví dụ như người Khiết Đan té nước vào nhau để cầu mưa, người Daur cũng có phong tục này. Người Khiết Đan sùng thượng màu đen, hành lễ quỳ bái, người Daur cũng vậy. Người Khiết Đan rất thích chơi khúc côn cầu, lúc bấy giờ gọi là “kích cúc”, người Daur cũng thường tổ chức thi đấu khúc côn cầu, nam nữ già trẻ đều tham gia.
Tuy nhiên, chỉ tập tục tương tự thôi thì không thực sự thuyết minh được vấn đề. Để thực sự giải khai được bí ẩn này, các chuyên gia đã nghĩ ra công cụ xét nghiệm ADN. Sau năm 1922, nhiều ngôi mộ Khiết Đan khác nhau được khai quật trên khắp Nội Mông. Các chuyên gia đã trích xuất DNA ty thể từ tủy răng và tủy xương của những tiêu bản trong lăng mộ cổ này, sau đó so sánh nó với DNA của người Daur, cuối cùng họ kết luận rằng có mối quan hệ di truyền tối cận giữa hai người, tộc Daur là hậu duệ trực hệ của người Khiết Đan.
Cũng đã vượt qua cuộc giám định ADN là “bổn nhân” đến từ Vân Nam. Đây là đáp án thứ hai về hậu duệ của người Khiết Đan.
Nghe nói vào cuối thế kỷ 12, một đội quân Mông Cổ có người Khiết Đan tham gia tiến về phía nam xuống Vân Nam, sau này trở thành lực lượng chủ yếu thống trị Vân Nam thời nhà Nguyên, thậm chí một số người Khiết Đan còn trở thành thủ lĩnh địa phương. Sau này, khi nhà Nguyên thống nhất thiên hạ, không cần phải đánh nhau, những quân nhân này đổi nghề nghiệp tại chỗ, ở lại Vân Nam. Tuy nhiên, đến thời nhà Minh và nhà Thanh, thực hành chính sách “cải tạo thổ dân, trả lại địa phương”, bãi bỏ chế độ thủ lĩnh cha truyền con nối, người Khiết Đan rất bất mãn, từ đó họ ẩn tính chôn danh, tiến vào núi sâu rừng già sinh sống. Họ tự xưng mình là “bổn nhân”, hiện tại có khoảng 150.000 nhân khẩu, nếu bạn đến từ Vân Nam, và họ của bạn là “A”, “Mãng” hoặc “Tương”, thì bạn có thể là hậu duệ của những người Khiết Đan này.
Tuy nhiên, dân số của hai nhóm này không lớn, không có cách nào giải thích được bí ẩn về sự biến mất đồng thời của hàng triệu người Khiết Đan. Sau đó, đáp án thứ ba được đưa ra, nói rằng người Khiết Đan rất có thể đã đồng hóa với người Hán địa phương. Điều này có thể được nhìn thấy từ lịch sử của Khiết Đan.
Về nguồn gốc của người Khiết Đan, trong cuốn “Liêu sử” có hai thuyết pháp. Một thuyết pháp nói họ là hậu duệ của Thần. Một vị thần nhân cưỡi bạch mã đến sông Phù Thổ ở núi Mã Vu, có một nữ thần lái chiếc xe bò xanh từ rừng tùng xuống sông Hoàng Hà, họ gặp nhau tại ngã ba sông ở núi Mộc Diệp. Sau đó, họ phải lòng nhau và kết thành vợ chồng, sinh được 8 người con trai, đó chính là tổ tiên của 8 bộ tộc Khiết Đan.
Còn có một thuyết pháp khác rất đơn giản trực bạch, đó là “Liêu bản Viêm đế chi hậu”, tức là người Liêu nguyên bản là hậu duệ của Viêm đế. Kết hợp lại mà xét, người Khiết Đan tin rằng họ là con dân của Thần, và giống như người Hán, họ cũng đều là con cháu Viêm Hoàng. Trên thực tế, nhà Liêu luôn tự gọi mình là “Bắc triều”, nhà Tống ở phía nam là “Nam triều”, ý tứ là gì? Chính là nói, họ tin rằng họ là người Trung Quốc ở phương bắc chứ không phải người ngoại tộc, và họ có đủ tư cách để tranh tài ở Trung Nguyên.
Người Khiết Đan tự cho rằng họ là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông. (Miền công cộng)
Sau khi chiếm được mười sáu châu Yến Vân, họ cũng rất tôn trọng văn hóa Hán. Bản thân Liêu Thái Tông là một người rất hâm mộ Khổng Tử. Nhưng cũng không thể đánh mất nền văn hóa của chính mình, vậy phải làm gì? Ông nghĩ ra cách thực hành “chế độ chính quyền bắc nam”, sử sách ghi rằng nó “kiêm trị Trung Quốc, quan phân nam bắc”.
Quan viên được chia làm hai loại: quan chức miền Bắc và quan chức miền Nam. Quan ở phía bắc là quan nước Liêu, quản lý người Khiết Đan. Quan ở phía Nam gọi là quan Hán, quản lý người Hán theo chế độ của người Hán. Các quan lại miền Bắc được thiết lập dựa trên chế độ nguyên thủy của người Khiết Đan, các quan lại phía nam được kiến lập mô phỏng theo chế độ nhà Đường, bao gồm Trung thư tỉnh, Ngự sử đài, Đại Lý tự và Hàn Lâm viện, không thiếu thứ gì.
Vì vậy, một số nhà sử học cho rằng:
“Đế quốc Khiết Đan thực sự bao gồm hai quốc gia. Một quốc gia bao gồm người Khiết Đan và những người thuộc các dân tộc khác ngoài Hán tổ thành, do chính Liêu đế tự thống trị; quốc gia kia bao gồm người Hán tổ thành, được cai trị bởi các quan đại thần người Hán do hoàng đế nhà Liêu bổ nhiệm.” (Bộ sưu tập lịch sử nhà Liêu của Phó Lạc Hoán – Năm chương về khảo sát Liêu đại tứ thời Nại Bát)
Bằng cách này, văn hóa Hán đã được bảo tồn tốt ở mười sáu châu Yến Vân, người Khiết Đan và người Hán có thể tương xử hòa thuận. Ngoài ra, Đại Liêu từ trên xuống dưới đều sùng thượng văn hóa Hán, nên sau khi Đại Liêu bị tiêu diệt, để tránh bị truy sát, việc người dân thay đổi diện mạo làm người Hán là chuyện tự nhiên nhất.
Ngoài ra, văn hóa Khiết Đan rất độc đáo, chỉ có quý tộc mới có họ. Cả nước chỉ có hai họ: hoàng tộc họ Da Luật, gia tộc hoàng hậu họ Tiêu. Ngoài ra, tất cả những người bình thường chỉ có tiểu danh chứ không có họ, điều này cũng gây khó khăn cho việc truy tìm tung tích gia tộc sau khi họ Hán hóa, tạo thành hiện tượng người Khiết Đan biến mất chỉ sau một đêm.
Hương Thảo biên dịch
Theo Epoch Times