Friday, November 28, 2025

QUẢ ỚT VÀ BÀI HỌC ĐẦY NGHỊ LỰC CỦA VUA LÝ CÔNG UẨN

Cậu bé thông minh giàu nghị lực hôm nào, trưởng thành là một vị vua giàu lòng nhân ái, yêu nước thương dân. Ông có tầm nhìn chiến lược đã xuống chiếu dời đô về vùng đất Thăng Long trù phú, an cư lập nghiệp nhân dân cả nước được yên bình no đủ, triều đình hưng thịnh, quốc gia giàu mạnh.

Nguồn: haitratancuong

Lý Công Uẩn mồ côi cha từ nhỏ, nhà nghèo nên mẹ gửi cậu vào chùa Lục Tổ bái nhà sư Vạn Hạnh làm thầy. Cậu tỏ ra là người thông minh, sáng dạ và ham học hỏi.

Cậu rất ham học và đọc kinh sách rất nhiều. Hằng đêm khi bạn bè say ngủ cậu vẫn miệt mài đọc sách đến tận khuya. Thấy cậu học trò cần mẫn như vậy, sư thầy tấm tắc khen “Đứa bé này không phải người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ”.

Có một đêm, các chú tiểu thức giấc thấy cậu lấy thức ăn trong túi cho vào mồm nhai ngấu nghiến. Thấy lạ, một chú tiểu liền đi bẩm báo với Đại sư: “Thầy ơi! Công Uẩn thức khuya chẳng phải học hành chi cả mà là … để ăn vụng”.

Sư thầy trầm ngâm im lặng hồi lâu mà không nói gì, các chú tiểu tăng hoảng sợ lẳng lặng lui ra. Vì đây là điều cấm kỵ trong nhà chùa đối với các chú tiểu, chú nào mà vi phạm sẽ bị xử lý rất nặng thậm chí có thể bị “chui lỗ chó” và đuổi ra khỏi nhà chùa.

Đêm hôm ấy, sư Vạn Hạnh cầm đèn đến phòng các chú tiểu xem sự việc thế nào. Từ cửa sổ nhìn vào, Đại sư thấy các chú tiểu đều đã ngủ say chỉ mình Công Uẩn vẫn kiên trì ngồi đọc kinh sách, thỉnh thoảng lấy một ít thức ăn từ trong túi vải ra ăn và học tiếp.

Nguồn: haitratancuong

Sư Vạn Hạnh gõ cửa và bước vào, cả phòng thức giấc, cậu ta giật mình đứng dậy cung kính vái chào. Bọn trẻ cũng thức giấc thấy Công Uẩn vừa ăn vụng bị sư thầy bắt tại trận thì đứa nào đứa nấy lao nhao xì xầm không dứt.

Thầy hỏi: “Công Uẩn con đang đọc sách phải không?”

Dạ! – Công Uẩn đáp

Sư thầy ôn tồn bảo: “Con mang đồ ăn trong túi chia cho các sư huynh của con ăn đi”.

Dạ! Công Uẩn móc trong túi ra một túm trái cây nho nhỏ, mời sư huynh đệ mỗi người một quả cùng ăn. Bọn trẻ đương còn ngáy ngủ và phòng tối lờ mờ nên không ai biết đó là gì liền cho luôn vào miệng ăn ngay. Nhưng vừa bỏ vào miệng, ai nấy đều la lên:

“Úa! cay quá! cay quá!”. Các sư huynh kêu thất thanh, nhiều chú còn hít hà không dứt.

Sư Vạn Hạnh mỉm cười, từ tốn nói: “Con hãy nói cho các sư huynh biết vì sao con ăn ớt?”

“Dạ! Vì con mắc tật thường ngủ gật mỗi khi đọc kinh sách, nên con phải ăn ớt, ớt cay tuy khó nuốt nhưng nước mắt nước mũi trào ra làm con không ngủ được mà tỉnh táo, có tỉnh táo thì mới đọc được sách ạ!” cậu lễ phép thưa.

Thì ra là thế! Các tiểu sư há hốc mồm kinh hãi.

Sư Vạn Hạnh gật đầu và nhẹ nhàng chỉ dạy: “Con chăm chỉ học tập như vậy là rất tốt nhưng con cũng cần lưu ý chăm sóc và rèn luyện sức khỏe nhé!”

Công Uẩn cúi đầu cảm ơn Sư phụ.

Được giáo dục đúng cách bởi những đạo lý sâu sắc. Cậu bé thông minh giàu nghị lực ham học hỏi, sau này đã trở thành Lý Thái Tổ, một vị vua giàu lòng nhân ái, yêu nước thương dân, có cống hiến lớn lao đối với đất nước, tạo nên một vị thế quan trọng trong lịch sử dân tộc.

Nguồn: haitratancuong

Ông có tầm nhìn chiến lược đã xuống chiếu dời đô về vùng đất Thăng Long trù phú, an cư lập nghiệp nhân dân cả nước được yên bình no đủ, triều đình hưng thịnh, quốc gia giàu mạnh.

Ông còn lập ra trường Quốc Tử Giám (trường đại học đầu tiên của nước ta) để đào tạo nhân tài cho đất nước và mở hội khoa thi để tuyển chọn người có thực tài phục vụ cho đất nước. Thật là “Bản sự do ép mà thành nhân tài nỗ lực mà nên”.

Theo daykemtainha

DAN HILL VÀ GIAI ĐIỆU "SOMETIMES WHEN WE TOUCH"

Nhắc đến Dan Hill, giới yêu nhạc nghĩ tới ngay một ca sĩ kiêm tác giả người Canada. Ông có nhiều bản nhạc pop ăn khách trên thị trường quốc tế trong những năm 1970 và 1990, nổi tiếng nhất vẫn là nhạc phẩm « Sometimes when we touch ». Trong tiếng Việt, bài hát này theo cách đặt lời và diễn đạt của nghệ sĩ Huy M.C là Tình quyến luyến không rời, còn theo tác giả Lan Anh do ca sĩ Lưu Bích trình bày là Vòng tay ấm cho người.

L’objectif de l’émission Show Time à sa création en 2001 : vulgariser un style musical encore mal perçu et peu connu à N’Djamena. © Pixabay / Mohamed Hassan

Sinh năm 1954 ở Toronto, Canada, Danqua Hill lớn lên trong một gia đình công chức. Ông bộc lộ năng khiếu âm nhạc từ khi còn nhỏ, sau khi được bố mẹ tặng cây đàn ghi ta đầu tiên nhân sinh nhật mười tuổi. Khi còn học trung học, ông bắt đầu đi hát tại các quán cà phê. Trước khi đậu bằng tú tài, ông đã thu âm một băng nhạc demo với sự hỗ trợ của người bạn thời thơ ấu là Matt McCauley, sau này cũng trở thành một nhà soạn nhạc nổi tiếng tại Canada.

Đầu những năm 1970, Dan Hill ký hợp đồng thu thanh với một hãng đĩa độc lập của Canada (GRT Records). Vài năm sau đó, Dan Hill phát hành album đầu tiên cũng với đĩa đơn ăn khách (You make me want to be) trên thi trường Canada. Năm 1977, Dan Hill lúc ấy mới 23 tuổi, sáng tác và thu âm bản ballad « Sometimes when we touch » với sự hỗ trợ của nhà soạn nhạc Barry Mann, đã giúp anh hoàn tất album phòng thu thứ nhì "Longer Fuse". Đây là bản nhạc ăn khách nhất của Dan Hill, đạt hạng 3 trên danh sách Billboard của Mỹ và hahng nhất trên bảng xếp hạng thị trường Canada. Tina Turner từng ghi âm lại bài này vào năm 1978 trên album « Rough » của mình.

Có lúc, Dan Hill xem thành công quá lớn của bài hát này như một « rào cản », che khuất các sáng tác khác trong sự nghiệp của mình. Bất kể ông có thu bản nhạc nào, thì bài hát mới cũng bị so sánh với giai điệu « Sometimes when we touch ». Nhiều năm sau đó, ông mới nhận ra rằng chính nhạc phẩm này đã mở cho ông nhiều cánh cửa của ngành công nghiệp giải trí và giúp ông trở thành một nghệ sĩ nổi tiếng.


Mặc dù ông có nhiều bản nhạc ăn khách tại quê nhà Canada, nhưng các đĩa đơn tiếp theo lại không mấy thành công tại Hoa Kỳ. Mãi đến hơn một thập niên sau thành công đầu tiên, Dan Hill mới xuất hiện trở lại trên bảng xếp hạng Billboard vào năm 1987 với nhạc phẩm « Can't we try », một bản song ca với Vonda Shepard, mở đường cho Dan Hill thành công với 5 bản nhạc khác lọt vào Top Ten thị trường Hoa Kỳ, đầu những năm 1990.

Chính trong giai đoạn này, Dan Hill mới có cơ hội hợp tác với Céline Dion qua việc trình bày hai bản song ca là « Can't we try » (hát live 1987) và « Wishful thinking » (1989) viết cho album tiếng Anh « Unison » của Céline Dion, nhưng rốt cuộc bài hát lại không được tuyển vào danh sách cuối cùng trên album này.

Một trong những ca khúc ăn khách khác của ông là « Seduces me » mà ông đã viết cho Céline trên album « Falling Into You ». Nhờ thành công vượt trội của album tiếng Anh thứ tư của Céline Dion với hơn 32 triệu bản được bán trên thế giới, Dan Hill được trao giải Grammy năm 1996 với tư cách nhà đồng sản xuất album cho Céline Dion.

Ngoài giải Grammy này, ông còn nhận được sau này nhiều giải thưởng danh giá khác, trong đó có 5 giải Juno của Canada. Trong suốt những năm 1990, Dan Hill ít còn thu thanh các bài hát của mình mà chủ yếu tập trung vào việc sáng tác cho một số ca sĩ nổi tiếng thời bấy giờ như Britney Spears, Backstreet Boys, George Benson hay Reba McEntire .....

Album phòng thu gần đây nhất của ông là « On the Other Side of Here » được phát hành vào năm 2021, hầu như vào cùng thời điểm ông được vinh danh tại Đại sảnh Danh vọng các tác giả và nhà soạn nhạc Canada.

Cũng như nhiều đồng nghiệp là Bruce Cockburn và Murray McLauchlan, Dan Hill thuộc vào hàng tác giả của Canada trưởng thành vào giữa những năm 1970, những người ban đầu chủ yếu đi hát trong các quán cà phê nhỏ, các tụ điểm văn nghệ « bỏ túi », nhưng nhờ vào tài năng sáng tác và diễn đạt, Dan Hill đã vươn lên thành một trong những ngôi sao sáng giá trên vòm trời âm nhạc.

Tuấn Thào
Theo: RFI Tiếng Việt



QUAN SAN NGUYỆT - LÝ BẠCH


Quan san nguyệt

Minh nguyệt xuất Thiên San,
Thương mang vân hải gian.
Trường phong kỷ vạn lý,
Xuy độ Ngọc Môn quan.
Hán há Bạch Đăng đạo,
Hồ khuy Thanh Hải loan.
Do lai chinh chiến địa,
Bất kiến hữu nhân hoàn.
Thú khách vọng biên sắc,
Tư quy đa khổ nhan.
Cao lâu đương thử dạ,
Thán tức vị ưng nhàn.


關山月

明月出天山
蒼茫雲海間
長風幾萬里
吹度玉門關
漢下白登道
胡窺青海灣
由來征戰地
不見有人還
戍客望邊色
思歸多苦顏
高樓當此夜
嘆息未應閒


Trăng Quan San
(Dịch thơ:Tản Đà)

Vừng trăng ra núi Thiên San
Mênh mang nước bể mây ngàn sáng soi
Gió đâu muôn dậm chạy dài
Thổi đưa trăng sáng ra ngoài Ngọc Môn
Bạch Đăng quân Hán đóng đồn
Vụng kia Thanh Hải ròm luôn mắt Hồ
Từ xưa bao kẻ chinh phu
Đã ra đất chiến, về ru mấy người!
Buồn trông cảnh sắc bên trời
Giục lòng khách thú nhớ nơi quê nhà
Lầu cao, đêm vắng, ai mà
Đêm nay than thở ắt là chưa nguôi.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân ngự dụng” nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.

Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên (Đỗ Phủ kém Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lư Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ, An Huy, là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên, Trích tiên, Tửu trung tiên,...

Nguồn: Thi Viện



"VÉN MÀN" CÂU CHUYỆN BÍ ẨN ĐẰNG SAU NHỮNG LY COCKTAIL NỔI TIẾNG

Bạn có biết vì sao Martini, Daiquiri hay Bellini… đều trở thành những loại cocktail độc đáo, nổi tiếng thế giới không? Bởi vì đằng sau đó là những câu chuyện bí ấn, hấp dẫn mà không phải ai cũng biết. Cùng khám phá những câu chuyện đó qua bài viết dưới đây.


Cocktail là thứ thức uống kết hợp giữa rượu với rượu, hoặc rượu với nước hoa quả, nước có gas… có màu sắc bắt mắt, hấp dẫn và hương vị đầy kích thích. Thế giới cocktail mỗi ngày đều chứng kiến sự ra đời, thay đổi của những công thức mới nhưng vẫn có những ly cocktail dù đã xuất hiện cách đây hàng thập kỷ vẫn giữ nguyên hương vị và nổi tiếng khắp thế giới. Bởi vì ngoài hương vị tuyệt hảo, nó còn ẩn chứa những câu chuyện đầy thú vị.

1. Martini – “Vua của các loại cocktail” và nguồn gốc nhiều tranh cãi

Martini là một trong những công thức đầu tiên và lâu đời nhất trong các loại cocktail, được tạo nên từ sự kết hợp giữa rượu Gin và rượu Vermouth, trang trí với một quả ô liu hoặc xoắn chanh. Người ta gọi đó “phát minh hoàn hảo của Mỹ”, là “thuốc cho sự yên lặng”.

Martini là công thức đầu tiên và lâu đời nhất trong các loại cocktail – Ảnh: Internet

Với danh xưng “Vua của các loại cocktail”, không quá khó hiểu khi nguồn gốc của Martini lại gây tranh cãi bất tận nhiều năm qua. Có câu chuyện rằng Martini được sáng tạo vào thời kì Gold Rush (thời kỳ người ta đổ xô đi kiếm vàng ở Mỹ), tại khách sạn Occidental, một Bartender tên Jerry Thomas đã pha chế ly cocktail này dành tặng một người thợ mỏ sắp lên đường về quê ở vùng Martinez, California. Jerry đã dùng cái tên Martinez để đặt cho đồ uống và dần trở nên phổ biến, Martinez đọc trại thành Martini.

Tuy nhiên, một số khác lại cho rằng, loại cocktail này có liên quan đến thời điểm xuất hiện loại súng trường Martini-Henry, được dùng trong quân đội Anh vào khoảng năm 1870.

2. Bellini và màu áo của một vị thánh

Khoảng giữa những năm 1934 và 1948, Giuseppe Cipriani – chủ quán Harry’s Bar nổi tiếng tại thành phố Venice xinh đẹp đã bắt đầu tìm kiếm một hương vị mới cho thực đơn của quán. Ông tiến hành trộn nhiều loại rượu trái cây khác nhau và đến khi pha bột đào trắng và rượu vang trắng Prosecco của Ý, ông thu được một loại thức uống màu hồng. Sắc màu gợi ông nhớ đến màu áo của một vị thánh trong bức tranh của họa sĩ Phục hưng Giovanni Bellini. Vậy nên ông đã đặt tên cho thức uống này là Bellini.

Ly Bellini gợi đến màu áo một vị thánh – Ảnh: Internet

3. Daiquiri từ phút nghịch ngợm của chàng kỹ sư

Ít ai biết rằng ly Daiquiri khiến cả thế giới say mê lại đến từ một giây phút nghịch ngợm của chàng kỹ sư. Jennings Cox là một kỹ sư người Mỹ tài năng nhưng mắc kẹt với công việc tại mỏ than ở Cuba. Để vượt qua những ngày tháng tẻ nhạt tại đây, anh chọn cách đùa vui cùng thức uống. Năm 1905, Cox pha trộn ngẫu nhiên hỗn hợp rum, chanh và đường cho ra đời ly Daiquairi.

Daiquiri được tạo nên bởi sự ngẫu hứng của một chàng kỹ sư nghịch ngợm – Ảnh: Internet

4. Tom Collins – Kết quả từ một trò lừa bịp

Năm 1874, hàng trăm người dân New York nổi giận khi có một kẻ lạ mặt tên Tom Collins đã bôi nhọ danh tiếng họ. Đối diện với những xúc phạm đó, người dân quyết tâm lùng sục khắp nơi để tìm ra ai là Tom Collins. Nhưng cuối cùng, đó chỉ là một trò lừa bịp vì không có một Tom Collins nào cả. Tưởng như mọi chuyện dừng lại ở đó nhưng những Bartender thích đùa tại New York vẫn góp vui bằng cách pha cocktail chanh và đặt tên là Tom Collins. Và mỗi khi có ai đó gọi Tom Collins sẽ có ngay một thứ thức uống mát lạnh hấp dẫn thay vì một kẻ bí ẩn từng mạo danh.

Tom Collins của những kẻ thích đùa – Ảnh: Internet

5. Blood & Sand – Ly cocktail bước ra từ tiểu thuyết

Blood & Sand (Máu và Cát) là ly cocktail được đặt tên theo cuốn tiểu thuyết cùng tên từng được chuyển thành phim của Vicente Blasco Ibanez. Cuốn tiểu thuyết xoay quanh cuộc đời của Juan Gallardo từ khi còn là một cậu bé nghèo đến khi trở thành một đấu sĩ bò tót nổi tiếng và giàu có. Anh yêu và cưới Carmen, người phụ nữ đã luôn bên anh suốt những năm tháng thiếu thời và trưởng thành. Nhưng sau đó, Juan lại không kiềm chế được mình trước những quyến rũ của một góa phụ khác. Chuyện Juan ngoại tình bại lộ, anh bị công chúng khai trừ và bỏ mạng trong một trận đấu bò tót. Trên đấu trường khốc liệt đầy cát, máu của Juan nhuộm đỏ và sau tất cả, người vợ Carmen vẫn ôm anh trong những giây phút cuối cùng. Hình ảnh máu và cát vừa dữ dội lại vừa huy hoàng ấy trở thành nỗi ám ảnh với nhiều người.

Ly cocktail Blood & Sand bước ra từ cuốn tiểu thuyết cùng tên – Ảnh: Internet

Cho đến tận bây giờ, vẫn không ai biết được công thức cocktail Blood & Sand là của ai những người ta tin chắc rằng, đó là từ một người đã rất yêu, rất hứng thú với tiểu thuyết Blood & Sand.

Có thể nói, mỗi ly cocktail là một câu chuyện, một ý nghĩa riêng. Nếu bạn cũng dành hết sự chú tâm để pha cocktail vì một ai đó hay một điều gì đó, ly cocktail của bạn sẽ được thổi hồn và trở nên đặc biệt hơn.

Theo: chefjob.vn

Thursday, November 27, 2025

NHÂN LỄ TẠ ƠN Ở HOA KỲ, BÀN VỀ LAO ĐỘNG, KHỔ ĐAU VÀ CỨU RỖI

Lễ Tạ ơn (Thanksgiving) của người Mỹ bắt đầu từ năm 1621 để cảm tạ Trời Đất bởi dân di cư Âu châu mới sang vùng Bắc Mỹ, mong có đời sống mới nhiều tốt đẹp hơn. Ở giai đoạn đầu khi di dân Anh quốc sang vùng đất này, gà tây hoang dã là nguồn thực phẩm dễ kiếm và nhiều thịt.


Truyền thống gà tây cho ngày lễ

Khi Alexander Hamilton, một nhà sáng lập nước Mỹ, tuyên bố, "Không một công dân Mỹ nào từ chối ăn thịt gà tây vào ngày lễ Tạ ơn" thì con chim to lớn này đã trở thành con vật lễ nghi cho truyền thống Tạ ơn hằng năm vào ngày thứ Năm cuối tháng 11.

Thịt gà tây, nếu ai đã ăn qua, thực sự chẳng ngon lành tí nào. Nó lạt lẽo và rất là dễ ngán. Thành ra, người Mỹ nấu gà tây trong dịp này chẳng qua là một cái cớ để cho cả nhà cùng nhau lục đục, nấu nướng cho vui. Đây cũng giống như truyền thống nấu bánh tét, bánh chưng ở quê ta nhân dịp Tết đến, xuân về. Cái vui ở nơi nấu nướng mới là quan trọng hơn là hương vị thức ăn.

Ở xứ Cờ Hoa này, đối với dân di cư mới sang, ai ai cũng tối mặt, tối ngày lao động. Vì thế, ai cũng mong làm sao để biến công ăn việc làm như là một niềm vui, như là một cơ hội giải thoát ra khỏi sự nhàm chán trong cuộc sống.

Từ đó, ý nghĩa của cuộc sống nằm ở nghệ thuật biến lao động sinh nhai như là chuyện nấu nướng cho mâm cơm gia đình.

Từ Lao động đến Công việc

Điều huyền bí cuộc đời nằm ở chỗ chúng ta biết cách biến lao động (labor) thành công việc (work).

Ở cái thuở khi văn minh Tây phương chưa đi vào con đường hiện đại, con người hình như không có lao động và không bị lao khổ. Khi tôi lớn lên những năm 1960-70 giữa ruộng đồng miền Trung Việt, nhìn nghe dân gặt lúa hò vấn đáp giữa cánh đồng lúa chín, tôi cảm thấy người ta dung hòa và dâng hiến chính mình, cả ý thức và thân xác, vào công việc như là một sinh hoạt tôn giáo và tâm linh.

Mỗi tác hành cho công việc không làm lao tổn hay tiêu hao năng lực thể chất và tinh thần như là lao động ngày nay. Công việc đồng áng giữa thiên nhiên của người xưa không nhằm mục đích để xong việc mà nghỉ ngơi – mà chính trong công việc là sự nghỉ ngơi và giải trí.

Thuở đó, công việc chính là hành động nuôi nấng và dung dưỡng sự trở nên và sáng thành của thiên nhiên, của tạo hóa, cho mình, cho người, cho đời và cho Trời Đất.

Không thời biểu, không ngày giờ, thứ Hai, thứ Ba hay cuối tuần, thứ Bảy, Chủ nhật. Tất cả thời gian và ngày giờ được biến hóa và tan hòa vào công việc – như là hành động nấu nướng con gà tây cho chính mình và cho gia đình trong yêu thương.

Làm việc chính là giải nghiệp và cầu nguyện

Công việc, từ đó, là một sự góp tay trong nguyện cầu để thực tế được trở thành trong ý niệm của ta và của Trời Đất theo quy luật thiên nhiên.

Khi ta làm việc ta không cảm thấy "bị lao động," mà trái lại, làm việc là góp tay với Tạo Hóa để cho thế giới – và chính ta - được chuyển mình và tiến hóa về cái Đẹp, cái Đúng. Trong công việc ta hiện thân ra tính thể – working is being – mà bản chất con người trong ta sẽ quyết định cách thức làm việc và phẩm chất cho kết quả và thể tướng nơi sự vật tác thành.

Công việc là chuyện mở đường, chuyện thắp đuốc để khơi sáng ngọn đèn tâm thức – để biết mình là gì và qua đó để biết rõ hơn bản chất thiên nhiên, vũ trụ, thế gian qua những trở lực mà công việc gặp phải và vượt qua. Tùy vào xung tác từ ta mà thế giới phản lực ngược lại như thế nào. Đây là cả một nghệ thuật giao hưởng giữa cá nhân và thế giới.

Mỗi người khi theo đuổi công việc (worker) trở nên một nghệ sĩ nhằm chuyển hóa tính chất tiêu cực nơi kẻ lao tác (laborer) bằng nội dung tôn giáo ở sự việc. Họ trở nên một đạo sĩ dấn thân trong ý chí yêu thương thế gian này trước những trở lực của khó khăn và đau mệt thân thể (pain) mà không hề bị suy thoái xuống thành khổ đau (suffering).

Trong các trường phái tôn giáo bí truyền, công phu tu luyện chính là công việc – và được gọi đúng tên như vậy, the Work. Công việc là cơ hội và phương tiện tu học, để thử thách, để chuyển hóa cho tâm thức mình và cho thế gian – nhà Phật gọi là "giải nghiệp." Công việc chính là hành trang thư pháp (calligraphy), là nghi thức trà đạo, mà trong đó mục tiêu cho công việc chính là công việc chính nó.

Làm việc như vẽ tranh

Tầm quan trọng không phải là làm cái gì mà làm như thế nào. Điều này giải thích được lý do vì sao mà các trí thức khi về già lại càng muốn trở thành họa sĩ.

Niềm hạnh phúc trong khi vẽ tranh chính là sự hưng phấn từ cái Đẹp qua cử chỉ thân thể. Đây là một niềm cám dỗ nghệ thuật lạ lùng mà hầu hết những nhà văn hóa đều sẽ phải trải qua khi tuổi đã luống chiều. Vì sao vậy?

Ý chí sáng tạo và tác hành trong sự Thật nay đã biến thành một sự rút lui ra khỏi thế gian phức tạp nhằm nung ấm chính mình bằng ý chí đi tìm cái Đẹp đơn giản trong tranh. Nhưng điều này ít ai nghiệm ra và lý giải cho tri thức.

Người vẽ tranh khi về già chỉ cảm nhận được một nỗi vui sâu sắc và đơn giản khi vẽ – và chỉ có thế, họ không cần gì khác hơn. Khi lớn tuổi, kẻ trí thức, khi vẽ tranh, trở thành trẻ thơ lần nữa: Họ mang tinh thần tôn giáo hồn nhiên trong công việc như là đứa trẻ chơi đùa giữa ruộng nước bùn lầy.

Nhưng chính trong bùn lầy của đời sống và công việc mà biểu tượng Đạo lý cuộc đời được hiện thân. Người làm công việc khác với người lao động. Họ nhận thức ra tính cách biểu dấu (symbolic nature) cho sự việc và quy luật vật chất. Khi làm việc, hắn xây căn nhà hữu thể – the house of being – cho mình.

Khi căn nhà hoàn tất, hắn bước vào căn nhà – nói theo Harry Remde trong tiểu luận The House as Center – như là đi vào một biểu tượng của chính mình (When he enters this house, he enters a symbol of himself).

Nguồn hình ảnh,Getty ImagesChụp lại hình ảnh,Tổng thống Bill Clinton hoan hỉ nhận món quà Lễ Tạ ơn là một con gà tây từ Liên đoàn Gà tây Quốc gia vào năm 1996

Lao động, vô gia cư, khổ đau

Chính người làm việc tự tay xây căn nhà hữu thể, làm biểu tượng cho mình. Đó là hiện thân cái ta qua công việc. Ta phải ở trong căn nhà hữu thể này để được an trú, bởi vì nếu không thì chính ta sẽ trở thành vô gia cư.

Người làm việc là người ở trong nhà của mình; còn người lao động là người vô gia cư, hắn bị mất đi tính biểu tượng trong công việc – và hữu thể của hắn bị cuốn trôi theo nghiệp thức nơi chủ đích lao động. Đó là căn nguyên của khổ đau.

Khi con người có nghề, hắn sẽ bị nghiệp lôi kéo. Nhưng khi con người chỉ có việc làm như là công phu tu luyện – the Work – thì hắn sẽ được giải nghiệp. Người làm việc tìm ra được tinh hoa thế gian qua tác hành trong căn nhà hữu thể.

Mọi khó khăn, thô lậu trần thế sẽ trở thành than củi cho lò lửa luyện kim tinh thần như là trong bếp cơm ấm cúng giữa góc căn nhà, bạn cười to vang trong nhiệt độ lò lửa than hồng.

Khi tôn giáo và lễ nghi thay cho công việc

Khi công việc đã bị thoái hóa xuống tầm mức lao động thì hiện tượng tôn giáo duy hình thức và lễ nghi xuất hiện. Khi mà cái lễ, cái nghi nay không còn là của con người thường nhật trong công việc hằng ngày thì hắn phải tìm đến tôn giáo để khôi phục lại cho mình căn nhà tinh thần này.

Thượng đế từ đó bị khách quan và nhân thể hóa; thần linh đi về cõi khác; nhân cách con người bị hớp hồn vào hình thức trống rỗng. Hình thức cũng không còn mang ý nghĩa biểu tượng Đạo lý – mặc dù tôn giáo nặng hình thức nghi lễ là một nỗ lực phục hồi đạo lý trong lao động.

Cái Ta – ở nơi con người lao động – bị cái nghiệp trong mục tiêu thế gian cuốn trôi. Và tôn giáo là nơi đến cho những kẻ vô gia cư. Thánh nhạc, lời kinh trở nên niềm cứu độ tình trạng vô gia cư này của những con người có đầy nghề nghiệp.

Không ngạc nhiên gì mà nỗi khổ lớn nhất của con người thị thành khắp nơi là sự nhàm chán (boredom) và bệnh xuống tinh thần, trầm cảm (depression). Con người ngày nay càng bận rộn bao nhiêu họ càng cảm thấy trống rỗng và xuống tinh thần bấy nhiêu vì họ không tìm ra được ý nghĩa và hứng thú trong lao động.

Đây là bản án chung thân cho nhân loại bây giờ: Tất cả chúng ta đều là những kẻ nô lệ lao động cho thân xác, cho tự ngã. Ta chỉ mong sao được thoát ly ra khỏi tình trạng bận rộn quần quật bất tận vì nghề nghiệp.

Hãy nhìn tới khối nhân công lao động vô hồn trong các xưởng sản xuất khổng lồ từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, đến Việt Nam, Nhật Bản. Đó là những khối nhân loại nô lệ thời đại.

Karl Marx từ thế kỷ 19 đã nhìn thấy vấn đề này và muốn đưa con người lao động ra khỏi cái mà Marx gọi là "vương quốc thiết yếu" (kingdom of necessity) để đến với "cõi tự do" (realm of freedom)(*).

Nhưng Marx lại cho sai thang thuốc. Thay vì cá nhân phải tự chuyển hóa trong công việc của mình, Marx muốn biến người cộng sản mang cơn đau đẻ cho sự chuyển bụng (labor) lịch sử bằng lao động cách mạng. Nhưng bài học này đã xong rồi.

Chuyển hóa là cứu rỗi

Maurice Nicoll, triết gia Anh, trong cuốn The Mark (Chủ đích) bàn về Tân Ước, viết, "Không ai có thể thoát ra khỏi chính mình ngoại trừ họ có một nơi nào đó để đi đến." Nicoll nói thêm, "Cá nhân không thể thay đổi mình ngoại trừ hắn đã có cái gì mới để mà vươn tới."

Con người không biết sống và lao động để làm gì, không biết đi về đâu, không biết bước đi trên mặt đất này theo hướng nào. Nó cũng giống như là người bắn cung mà tên bị hụt mục tiêu (missing the Mark). Con người khi hắn bước đi trên trái đất này bằng thái độ với công việc như thế nào sẽ quyết định mức tiến hóa cho mình.

Nicoll dùng chương Sáng thế ký (Genesis) trong Cựu Ước, câu chuyện của Lot, để giảng luận về ý nghĩa của muối. Khi Lot và vợ con khi đi đến thành phố Sodom(**), nơi rất sa đọa thân xác, có kẻ khuyên họ nên rời thành phố gấp trước khi nó bị ông Trời tiêu hủy. Nhưng Lot chần chừ.

Đến khi thiên thần hiện ra khuyên là ông ta và vợ con nên trốn "lên núi" (cõi cao) và đừng có "nhìn lui" (ám ảnh bởi quá khứ) thì mới thoát nạn – "Hãy để cho kẻ chết chôn chính họ" (Matthew 13) – Lot không dám lên núi mà chỉ muốn trốn vào thành phố nhỏ tên là Zoar. "Zoar" theo phương ngữ Trung Đông có nghĩa là "nhỏ nhặt, ti tiện". Sau đó, Sodom bị ông Trời tiêu hủy.

Nhưng vợ Lot, đứng đằng sau, quay nhìn lui lại Sodom và bà đã bị biến thành một cột muối. Lot sau đó trốn lên hang núi và loạn luân với hai con gái của mình để sinh ra thêm một thế hệ mới. "Cột muối" ở đây biểu tượng cho sự đông cứng, của sự chết, không còn khả năng sinh sản – và cũng mang ý nghĩa cứu rỗi, chuyển hóa.(***)

Nguồn hình ảnh,Getty ImagesChụp lại hình ảnh,Hình ảnh một gia đình Mỹ với món gà tây trong Lễ Tạ ơn hồi thập niên 1960

Chàng Lot trong mỗi chúng ta

Lot là mẫu người bình thường trong mỗi chúng ta vốn chỉ biết trốn chạy vào cái nhỏ nhặt để quên đi mục tiêu to lớn của cuộc đời: Chuyển hóa chính mình.

Từ trong "Zoar" – tức là vì cái nhỏ nhặt, ti tiện – mà ta tự gia tăng, quan trọng hóa chính mình qua say mê và ái dục – như là Lot bị hai đứa con gái phục rượu cho say để mà loạn luân trong hang núi.

Khi bạn rắc muối lên thịt gà tây, khi bạn nhai và nuốt vào bụng, muối sẽ giúp chuyển hóa thức ăn thành ra máu huyết, tức là Tinh Thần. Nếu không có muối, gà tây vẫn là gà tây khi ăn vào bao tử, ta sẽ bị bội thực, như là Lot loạn luân với con gái khi không còn vợ vì con gái muốn có con nối tiếp chính mình.

Thành ra bạn thấy đó: Mọi chuyện, mọi thứ trên đời – kể cả thân xác của chúng ta – đều là của biểu tượng cho một ý nghĩa huyền bí. Hãy nhìn cuộc đời cứ như là chuyện nấu nướng con gà tây – con vật tượng trưng cho ngu dốt, vụng về – trong dịp Thanksgiving này.

Trong tinh thần ơn nghĩa, trong cung cách ngôn từ, nơi hình thức, thái độ và tư cách của những người tham dự trong bếp núc mới là cái chính – chứ không phải là thịt con gà tây khi nấu xong.

Không ai nghĩ rằng khi cả nhà cùng nhau nướng gà tây thì đó là "lao động" cả – mặc dù công việc cũng rất là mất công và mệt nhọc.

Vì đây là lúc mà chúng ta thấy cái lớn, cái ân đức trong tình nghĩa gia đình, trong công việc bếp núc bình thường – thay vì như thường nhật, chúng ta vẫn có thói quen chạy trốn vào cái bé nhỏ, vay mượn cái hẹp hòi, chật chội thay cho mục tiêu lớn của cuộc đời.

Cho một văn minh tinh thần mới

Như Simon Weil, nữ triết gia Pháp, có lần đã nhận xét, "Công tác của thời đại chúng ta là kiến tạo một nền văn minh khai sinh trên nền móng tinh thần của công việc" để giải quyết vấn nạn khổ đau cho dân lao động.

Tức là ở điều mà Jean K.Martine nói: Mỗi con người qua công việc, đang sống một cuộc đời hai mặt. Một mặt từ thế giới hiển nhiên; mặt kia nằm trong bí ẩn, chờ đợi.

Theo đó thì tất cả những tác hành cho cuộc sống hằng ngày tạo ra một sự rung động tương ứng ở cõi vô hình – và chỉ khi nào sự rung cảm ở hai cõi hữu và vô này được đồng nhịp thì con người mới thực sự được hạnh phúc.

Mong các bạn Mỹ gốc Việt hãy vui thú để cùng nấu nướng và chia sẻ với gia đình con gà tây thứ Năm tuần này. Chỉ có trong tình yêu nối liền cái hữu của thức ăn với cõi vô hình của tấm lòng chân tình biết đến ơn nghĩa với người thân và cuộc đời, với Trời Đất, thì bạn mới tìm ra hạnh phúc.

Happy Thanksgiving! Chúc bạn sức khỏe và bình an!

  • Nguyễn Hữu Liêm là tác giả nhiều sách và tiểu luận triết học hiện sống ở San Jose, California.
---

(*) Tư bản luận, Vol 3.

(**) Tên thị trấn Sodom – thành phố nhiều cư dân đồng tính nam – là ngữ gốc của từ sodomy.

(***) Tân Ước – Matthew 5:13: "Bạn là muối của địa cầu." Từ salt (muối) cùng ngữ gốc với saliva (nước miếng)salvation (cứu rỗi). Sal là chuyển hóa. Nước miếng và muối giúp chuyển hóa thức ăn thành máu (tinh thần). "Cứu rỗi" chính là sự chuyển hóa cái thô lậu sang năng lực tinh thần thanh thoát.Nguyễn Hữu Liêm

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ San Jose, California, Hoa Kỳ
Theo: BBC Tiếng Việt (26/11/2025)



THẤT BẠI Ở ĐỜI CHÍNH LÀ CỐ GẮNG LÀM VỪA LÒNG TẤT CẢ MỌI NGƯỜI


Sống trên đời, nếu dành hết tâm trí mình để quan sát thái độ người khác, từ đó nương theo mà hành xử, chiều lòng họ, thử hỏi cuộc đời bạn có còn ý nghĩa gì? Khi ấy, phải chăng là bạn đang sống hộ người khác, phải chăng là muốn trao vận mệnh của mình cho kẻ khác?

Kỳ thực, mỗi cá nhân sinh ra đều có vận mệnh khác nhau, đều là những cá tính tự ngã khác nhau, có lòng tự tôn và nguyên tắc sống riêng biệt. Nếu chỉ biết chạy theo làm đẹp lòng người khác, chẳng phải bạn đã đánh mất đi giá trị, phẩm chất của mình rồi sao?

Bởi vậy, người xưa nói: “Vạn sự bất cầu nhân” (ý nói những chuyện trên đời này đừng nên mong cầu vào người khác). Khi cố lấy lòng người khác, chẳng phải là bạn cũng đang muốn được họ chiếu cố đến mình đó sao? Thực tế đã chỉ ra rằng điều này là hoàn toàn viển vông.

Cuộc đời và vận mệnh phải do chính mình nắm giữ và an bài. Sống tự tin, khẳng khái, hướng thiện, bao dung, rồi bạn sẽ có được tất cả những gì đáng có, rồi bạn sẽ chẳng phải nhờ vả, cậy cục, núp bóng ai. Đạo lý chỉ đơn giản như vậy.


Cố gắng lấy lòng người khác còn có một nguyên nhân nữa: Sợ bị tẩy chay, thù ghét nên cố làm bạn với tất cả. Công bằng mà nói, bạn không thể mong ở đời không có kẻ thù ghét mình, gây khó dễ cho mình. Cha mẹ, bạn bè, người thân có thể yêu thương bạn vô tư, chẳng toan tính. Nhưng đồng nghiệp, đối thủ đôi khi vẫn có thể căm hận bạn dù bạn chẳng làm gì sai.

Cuộc sống muôn vẻ, muôn màu là vậy. Có người ưu ái bạn thì cũng có kẻ gièm pha bạn. Có người tôn trọng bạn lại cũng có kẻ coi bạn bằng nửa con mắt mà thôi. Bởi thế, dẫu cố gắng đến đâu, nhọc lòng thế nào bạn cũng chẳng thể làm vừa lòng tất cả, chẳng thể đảm bảo rằng mình không còn bị ai thù ghét.

Nếu có ai đó thù ghét, cay độc, mỉa mai, chế giễu mình, bạn hãy luôn nhớ rằng: Trong miệng người khác, bạn không phải là con người bằng xương bằng thịt. Đã là như vậy, tại sao bạn còn phải thấy thống khổ, còn phải thấy mất mặt vì những lời đàm tiếu xung quanh? “Cây ngay không sợ chết đứng”, người quân tử thường để ngoài tai lời ong, tiếng ve của kẻ tiểu nhân.

Chỉ cần giữ được phong thái cao, mọi sự tình bên ngoài đều không thể làm bạn khó xử. Cổ nhân nói ấy là cái: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (nghĩa là lấy cái bất biến của tâm mình mà ứng xử với sự biến hoá của cuộc đời).


Vả chăng, nếu nghĩ thật sâu, có thể nhận ra rằng, bạn là tốt hay xấu hoàn toàn không thể dựa vào một lời nói bâng quơ của ai đó. Người ta nói bạn xấu, chắc gì bạn đã xấu. Còn khi họ khen bạn thật tốt, ai có thể khẳng định bạn hoàn mỹ đến thế đây?

Cặp mắt thịt của con người chỉ nhìn thấy thân thể bề ngoài, đôi khi đánh giá tốt xấu, đúng sai cũng chỉ là “trông mặt mà bắt hình dong”. Chẳng ai có thể nhìn thấu nội tâm và vẻ đẹp thẳm sâu bên trong của bạn. Có phải như vậy không?

Cuối cùng, bạn hãy luôn ghi nhớ:


Làm người không cầu rằng ai cũng thích mình, chỉ cần bạn luôn chất phác, bao dung, lương thiện. Làm việc không cần phải giải thích để tất cả hiểu, chỉ cần bạn tận tâm nỗ lực là đủ rồi! Vậy mới hay:

Nhân sinh vạn thuở mải ganh đua
Quay cuồng một kiếp cố được thua
Trăm năm ánh chớp qua như mộng
Mới hay thế sự thảy trò đùa.

Theo: ĐKN

HOÀNG CHÂU HÀN THỰC THIẾP - TÔ THỨC


Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp

Tự ngã lai Hoàng Châu,
Dĩ quá tam hàn thực,
Niên niên dục tích xuân,
Xuân khứ bất dung tích.
Kim niên hựu khổ vũ,
Dữ nguyệt thu tiêu sắt.
Ngọa văn hải đường hoa,
Nê ô yến chi tuyết.
Ám trung thâu phụ khứ,
Dạ bán chân hữu lực.
Hà thù bệnh thiểu niên,
Bệnh khởi đầu dĩ bạch.


黄州寒食帖

自我來黃州
已過三寒食
年年欲惜春
春去不容惜
今年又苦雨
兩月秋蕭瑟
臥聞海棠花
泥污燕支雪
闇中偷負去
夜半真有力
何殊病少年
病起鬚已白


Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp
(Dịch thơ: yeuhannom)

Từ ngày tôi đến hoàng châu
Hàn thực ba tết qua mau mất rồi
Tháng ngày chỉ tiếc Xuân thôi
Xuân đi mà chẳng một lời luyến lưu
Năm nay liên tục mưa rào
Hai tháng hiu hắt gió gào Thu phai
Nằm nghe thấy, Hải Đường rơi
Phấn hoa như tuyết lại vùi bùn thâm
Tựa như tên trộm âm thầm
Nửa đêm cưỡng đoạt sức thân chống gì
Khác đâu tuổi trẻ bệnh suy
Đến khi bệnh dậy đầu thì bạc phơ


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.

Theo: yeuhannom