Sunday, November 23, 2025

CÁC LỤC ĐỊA CHÌM ĐƯỢC TÌM THẤY CHO BIẾT LỤC ĐỊA HUYỀN THOẠI LEMURIA LÀ CÓ THẬT

Các nhà khoa học đã phát hiện ra ít nhất HAI lục địa chìm trên Trái Đất. Việc phát hiện ra những lục địa này đã thay đổi cách chúng ta nhìn nhận về lịch sử Trái Đất, cung cấp bằng chứng mới mà nhiều tác giả đã giải thích là tài liệu chỉ ra thực tế rằng các lục địa huyền thoại như Lemuria, Mu và Atlantis là có thật.


Các lục địa bí ẩn và bị con người lãng quên

Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với những truyền thuyết về Atlantis, Lemuria và Mu. Theo nhiều truyền thuyết và văn bản, Trái Đất là nơi có nhiều lục địa đã bị ‘thất lạc’ trong quá khứ xa xôi. Một trong số đó là lục địa Lemuria, một vùng đất rộng lớn được cho là trải dài từ Ấn Độ đến Úc—trước khi có lịch sử được viết ra.

Giống như Atlantis, vùng đất cổ đại này đã biến mất trong những hoàn cảnh bí ẩn và bị con người lãng quên từ hàng chục ngàn năm trước.

Vào thế kỷ 19, một nhà địa chất người Anh tên là Philip Sclater đã đề cập đến sự tồn tại của một khối đất liền chìm có tên là Lemuria.

Trong một bài viết có tên là ‘Động vật có vú ở Madagascar’ – được viết vào năm 1864, Sclater đã đề cập rằng hóa thạch vượn cáo cực kỳ phong phú ở Madagascar và Ấn Độ, nhưng kỳ lạ thay, những hóa thạch này lại không có ở Châu Phi và Trung Đông. Quan sát này khiến Sclater đề xuất rằng tại một thời điểm trong quá khứ xa xôi, Ấn Độ và Madagascar từng là một phần của một lục địa rộng lớn hơn được gọi là Lemuria.

Có rất nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng, bất chấp ý tưởng về trôi dạt lục địa, các lục địa chìm vẫn tồn tại trên Trái Đất.

Gần đây, các nhà khoa học đã có một khám phá đáng kinh ngạc ở phía đông Úc: Một lục địa có diện tích khoảng 5 TRIỆU km vuông và đã ẩn mình trong tầm nhìn trong NHIỀU THỜI GIAN. Chỉ một phần nhỏ của lục địa—khoảng 5 phần trăm—là có thể nhìn thấy ngày nay.

Các chuyên gia cho rằng ngày nay, chỉ có 5 phần trăm lục địa hùng vĩ một thời này là có thể nhìn thấy được, đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu đã bỏ lỡ nó trong quá khứ xa xôi. Khu vực này chủ yếu là vùng đất chìm ở Thái Bình Dương và bao gồm cả New Zealand và vùng lãnh thổ hải ngoại New Caledonia của Pháp.

“Lemuria” trong văn học thần bí dân tộc Tamil, nối liền Madagascar, Nam Ấn Độ và Úc (bao phủ hầu hết Ấn Độ Dương)

“Đây không phải là một khám phá đột ngột mà là một nhận thức dần dần; chỉ mới 10 năm trước, chúng tôi sẽ không có đủ dữ liệu tích lũy hoặc sự tự tin trong việc giải thích để viết bài báo này ”, các nhà nghiên cứu đã viết như vậy trên GSA Today, một tạp chí của Hiệp hội Địa chất Hoa Kỳ.

Nhưng có nhiều bằng chứng hơn cho thấy có sự tồn tại của các lục địa chìm trên Trái Đất. Nếu chúng ta quan sát khu vực giữa đất liền Ấn Độ và Sri Lanka, chúng ta sẽ thấy một cấu trúc địa chất kỳ lạ. Nằm ở eo biển Palk, Ấn Độ Dương, có một khu vực địa lý cụ thể, một dải đất mỏng nối liền miền Nam Ấn Độ với Sri Lanka. Nó được gọi là “Cầu Adam”.

Cầu Adam được cho là tàn tích của một cây cầu cổ đại trước thời kỳ lũ lụt. Có thể đây là cây cầu đầu tiên được xây dựng trên Trái Đất. Hơn nữa, người ta tin rằng hình ảnh vệ tinh do NASA cung cấp cho thấy những gì chúng ta thấy thực chất có thể là một cây cầu bị sập, hiện đã chìm một phần dưới đại dương.

Tiến sĩ Badrinarayanan, cựu giám đốc của Cục Khảo sát Địa chất Ấn Độ đã tiến hành khảo sát công trình này và kết luận rằng nó là do con người tạo ra. Tiến sĩ Badrinarayanan và nhóm của ông đã khoan 10 lỗ khoan dọc theo đường thẳng của Cầu Adam.

Những gì ông phát hiện ra thật đáng kinh ngạc. Khoảng 6 mét dưới bề mặt, ông tìm thấy một lớp đá sa thạch vôi, san hô và các vật liệu giống như tảng đá. Nhóm của ông đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra một lớp cát rời, sâu hơn khoảng 4-5 mét và sau đó là các khối đá cứng bên dưới.

Một nhóm thợ lặn đã xuống để kiểm tra thực tế cây cầu. Những tảng đá mà họ quan sát được không phải là thành phần của một đội hình biển điển hình. Chúng được xác định là đến từ cả hai bên của con đê. Tiến sĩ Badrinarayanan cũng chỉ ra rằng có bằng chứng về hoạt động khai thác đá cổ xưa ở những khu vực này. Nhóm của ông kết luận rằng vật liệu từ cả hai bờ đã được đặt trên đáy cát của nước để tạo thành con đê. 

Theo truyền thống Ấn Độ giáo, “dải đất” này là một cây cầu do thần Rama của Ấn Độ giáo xây dựng, như được kể trong sử thi Ramayana của Ấn Độ giáo. Trên thực tế, từ thời xa xưa, nó được gọi là “Cầu Rama” hoặc “Rama Setu”.

Cầu Adam nhìn từ không gian, ảnh: NASA

Sử thi Ramayana của Ấn Độ kể về câu chuyện về cây cầu đất liền và cách nó được xây dựng để phục vụ thần Rama của Ấn Độ giáo, nhằm giúp ngài vượt qua mặt nước để đến hòn đảo lớn và giải cứu người mình yêu khỏi nanh vuốt của quỷ vương Ravana.

Đây là câu chuyện về tình yêu, những hành động dũng cảm và những công trình đáng kinh ngạc như vẻ bề ngoài của nó. Rama là một trong những biểu hiện nổi tiếng nhất của Chúa tối cao và được công nhận là hình ảnh, tinh thần và ý thức của Ấn Độ giáo, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới.

Những câu chuyện nhiều lần được diễn giải là sự thật về cuộc đời của Rama được kể lại trong Ramayana, một sử thi tiếng Phạn cổ, được dịch theo nghĩa đen là “Hành trình của Rama”, kể về thời kỳ các vị thần trên tàu (Vimana) và những người khổng lồ đi trên trái đất. Bằng chứng về Vimana và những người khổng lồ đã được tìm thấy trên khắp thế giới, ở nhiều quốc gia khác nhau.

Bằng chứng về các lục địa đã mất và nền văn minh cổ đại?

Theo các nhà nghiên cứu, lục địa Lemuria tách khỏi đất liền vào thời điểm nào đó trong kỷ Mesozoi do mực nước dâng cao. Thật kỳ lạ, theo Viện Hải dương học Quốc gia Ấn Độ, mực nước biển thấp hơn khoảng 100 mét vào khoảng 15.000 năm trước.

Điều này dẫn đến một trận lụt lớn cuối cùng đã dẫn đến sự biến mất không chỉ của toàn bộ một lục địa mà còn của toàn bộ nền văn minh từng tồn tại trên Trái Đất trong quá khứ xa xôi. Theo Tamilnet, lục địa Lemuria được gọi là “Kumari Kandam” trong văn học Tamil cổ đại.

Tiếng Tamil là một trong những ngôn ngữ cổ điển trên thế giới. Tiếng Tamil có lịch sử liên tục trong hơn 2000 năm và tiếng Tamil được công nhận là ngôn ngữ cổ điển ở Ấn Độ (bên cạnh tiếng Phạn).

Tiếng Tamil không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.

Giáo sư Shanmugathas cho biết: “Người ta có thể tưởng tượng được sức mạnh và quy mô của cơn sóng thần cần thiết để nhấn chìm một vùng núi từng tồn tại ở vành đai ven biển cổ đại của thế giới Tamil” .

Lục địa cổ Kumari Kandam được cho là đã tồn tại ở phía nam Ấn Độ ngày nay, hiện nằm bên dưới Ấn Độ Dương. Người Tamil được cho là đã lan rộng khắp thế giới, tạo ra các nền văn minh khác sau khi Kumari Kandam biến mất. Có một số tên gọi mà các lục địa này có, tùy thuộc vào cách viết, có thể thay đổi từ Kumari Kandam, Kumarikkantam và Kumari Nadu. Từ ‘Kumari Kandam’ lần đầu tiên được đề cập trong phiên bản Skanda Purana vào thế kỷ 15 – Mahāpurāṇa lớn nhất, một thể loại gồm mười tám văn bản tôn giáo Hindu – và được viết bởi Kachiappa Sivacharyara (1350-1420).

Điều thú vị là nhiều tác giả chỉ ra rằng người Tamil thuộc về nền văn minh lâu đời nhất trên bề mặt hành tinh và khi lục địa Kumari Kandam bị chìm vào biển, người dân ở đây đã di cư đến các nơi khác trên hành tinh và thành lập nên nhiều nền văn minh khác nhau.

4 lục địa biến mất khỏi trái đất. Ảnh giaoducthoidai

Các lục địa đã mất: trước đây là huyền thoại giờ đã trở thành hiện thực

Một lục địa cổ đại từng nằm giữa Ấn Độ và Madagascar gần đây đã được tìm thấy nằm rải rác dưới đáy Ấn Độ Dương. Theo các chuyên gia, ba tỷ năm trước, một lục địa đã bao phủ đại dương nơi đảo Mauritius của Đông Phi hiện nằm.

Các chuyên gia đã đi đến kết luận này sau khi phân tích những mảnh khoáng chất nhỏ có niên đại 3.000 TRIỆU năm. Trong một số tảng đá của đảo Mauritius, quê hương của nước cộng hòa cùng tên, bạn có thể tìm thấy những mảnh khoáng chất nhỏ có niên đại khoảng 3.000 triệu năm. Điều này hẳn không quan trọng nếu không phải vì hòn đảo trẻ, có nguồn gốc từ núi lửa, chỉ mới khoảng bảy đến mười triệu năm tuổi? Vậy những mảnh đá đó đến từ đâu và làm sao chúng có thể già đến vậy?

Theo các chuyên gia, nguồn gốc của chúng nằm ở một “lục địa đã mất” nằm dưới hòn đảo, như các nhà nghiên cứu từ Đại học Witwatersrand (Nam Phi) giải thích trong một tuyên bố.

Bạn nghĩ sao? Có thể là hàng chục ngàn năm trước—thậm chí có thể là xa hơn nữa trong lịch sử, các nền văn minh cổ đại đã tồn tại trên các lục địa như Atlantis, Mu và Lemuria không?

Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng trong quá khứ xa xôi, khối đất liền của Trái Đất rất khác so với ngày nay, đây là một trong những lý do chính khiến nhiều tác giả và nhà nghiên cứu cho rằng không có gì vô lý khi nghĩ rằng các nền văn minh cổ đại như Atlantis từng tồn tại ở đâu đó trên Trái Đất.

Mỹ Mỹ / Theo: ancient-code
Link tham khảo:




Saturday, November 22, 2025

TRANH CỦA ĐƯỜNG BÁ HỔ ĐƯỢC BÁN VỚI GIÁ CAO NGẤT; CHUYÊN GIA: PHÓNG TO LÊN THÌ KHÔNG PHẢI LÀ TRANH

Những bức tranh gốc của Đường Bá Hổ được bán đấu giá với giá cao ngất ngưởng. Khi phóng đại bức tranh lên rồi quan sát các chuyên gia phải thốt lên rằng: đây cơ bản không phải là tranh vẽ…

Nguồn ảnh: soundofhope

‘Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương’ là một bộ phim nổi tiếng, hẳn rất nhiều người đã từng xem qua. Bộ phim này thể hiện tinh tế một Đường Bá Hổ với hình tượng tài tử phong lưu, đa số người xem đều chú ý đến tính cách phong lưu mà không chú trọng đến tài hoa của ông. Kỳ thực Đường Bá Hổ là một nhà thư pháp, thi nhân, họa sĩ nổi tiếng thời nhà Minh.

Phong cách hội họa của Đường Bá Hổ rất độc đáo, ông kết hợp giữa hai trường phái hội họa phía Bắc và phía Nam, với nét vẽ tỉ mỉ, bố cục phóng khoáng, phong cách tao nhã, màu sắc tươi tắn, giỏi vẽ phong cảnh, vẽ chim bằng mực, vẽ nhân vật. Ông rất có thiên phú trong lĩnh vực hội họa và đạt được không ít thành tựu.

Tranh vẽ Đường Bá Hổ. (Ảnh: Sound Of Hope)

Tuy nhiên, nửa đời sau của Đường Bá Hổ sống rất nghèo khó, vất vả, dựa vào bán tranh vẽ để kiếm sống, hết sức gian khổ.

Khi Đường Bá Hổ còn sống, không một ai đánh giá cao những bức tranh của ông, nhưng sau khi ông mất, những bức tranh của ông đã được bán với giá cao ngất trời. Cuối những năm 1980, bức tranh ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’ của ông đã được bán đấu giá ở Hoa Kỳ với giá 660.000 USD, so với thời điểm đó thì giá này vô cùng đắt đỏ.

Có chuyên gia đã từng phóng to bức ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’, sau khi nhìn vào đã kinh ngạc thốt lên rằng: Đây căn bản không phải là tranh! Vẽ thật sự quá giống như thật. Cành lá trong tranh rất rõ ràng, đường vân của lá và thân cây vô cùng chi tiết. Nhìn bức tranh từ xa người ta cảm nhận được ý vị tuyệt vời, nhìn gần sẽ cho người ta cảm giác rung động sâu sắc.

Một phần của bức tranh ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’, (Ảnh: Sound Of Hope)

Hiện tại những bức thư pháp và tranh của Đường Bá Hổ còn quý hơn nữa. Bức ‘Tùng nhai biệt nghiệp đồ quyển’ của ông đã được bán với giá 71,3 triệu nhân dân tệ vào năm 2013. Những ai có thể sở hữu các tác phẩm gốc của Đường Bá Hổ thì đều rất trân quý.

Ai đã từng xem bộ phim ‘Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương’ thì đều biết rằng Đường Bá Hổ trong phim có rất nhiều thê thiếp, cuộc sống vô cùng giàu có khiến nhiều người ngưỡng mộ. Nhưng thực tế cuộc sống của Đường Bá Hổ hoàn toàn ngược lại.

Cha của Đường Bá Hổ là một thương nhân, thời nhà Minh, địa vị của thương nhân không cao, nhưng cuộc sống của gia đình họ cũng không nghèo khổ. Cho đến khi cha ông mất, gia đình bắt đầu sa sút, không lâu sau mẹ và chị gái của ông cũng lần lượt qua đời. Đường Bá Hổ không hề có nhiều thê thiếp, cũng chưa từng theo đuổi Thu Hương, nửa đời sau của ông vô cùng túng thiếu, khổ cực.

Một phần của bức tranh Tùng nhai biệt nghiệp đồ quyển’. (Ảnh: Sound Of Hope)

Chỉ bất quá nửa đời trước ông có cuộc sống như ý, khi cưới được vợ vừa trẻ vừa đẹp, thi đậu Trạng nguyên, sau đó ông bị người ta hãm hại làm lỡ mất con đường làm quan. Sau khi bị vợ bỏ, Đường Bá Hổ bắt đầu mất hy vọng vào cuộc sống, đắm chìm trong tửu sắc, thậm chí trước khi chết cũng không có tiền để mai táng bản thân mình.

Cuộc đời của ông không khỏi khiến người khác phải xúc động, những bức “tranh nhưng không phải tranh” của Đường Bá Hổ chính là những miêu tả chân thực trong cuộc đời của ông, là thái độ bất bình đối với sự nghiệp lận đận của mình, thổ lộ cảm xúc có tài nhưng không gặp thời, cũng là nửa đời lao tao cùng khổ nạn.

Nghệ thuật thực sự cần phải rèn luyện cả đời, muốn đạt được trình độ đó thì phải trải qua những khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Chính vì vậy ông mới có thể vẽ ra những tác phẩm sâu sắc và tạo ra sự khác biệt. Tài năng của Đường Bá Hổ thực sự đáng khâm phục, những thành tựu nghệ thuật của ông là không thể thay thế và rất khó vượt qua.

Đăng Dũng biên tập
Nguồn: tinhhoa

THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ - VƯƠNG DUY


Thù Trương thiếu phủ

Vãn niên duy hiếu tĩnh,
Vạn sự bất quan tâm.
Tự cố vô trường sách,
Không tri phản cựu lâm.
Tùng phong xuy giải đới,
Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
Quân vấn cùng thông lý,
Ngư ca nhập phố thâm.


酬張少府

晚年惟好靜
萬事不關心
自顧無長策
空知返舊林
松風吹解帶
山月照彈琴
君問窮通理
漁歌入浦深


Mời rượu huyện úy họ Trương
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Tuổi già ưa những an nhàn.
Thế gian trăm sự, chẳng màng quan tâm.
Ưa gì mưu chước uyên thâm.
Rừng xưa trở lại, tùng lâm vui cùng.
Gió bay giải mũ lạnh lùng.
Trăng soi đầu núi, vui chung tiếng đàn.
Thông cùng đạo lý nhân gian.
Tiếng ca ngư phủ mênh mang bến bờ.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng.

Nguồn: Thi Viện



"KỲ QUAN THỊ GIÁC" NGHÌN NĂM TUỔI Ở ẤN ĐỘ

Giếng bậc thang hơn 1.000 năm tuổi Chand Baori ở Ấn Độ được xem là kỳ quan thị giác bởi thiết kế kỳ ảo và hùng vĩ.


Chand Baori, một giếng bậc thang tuyệt đẹp nằm ở làng Abhaneri, Rajasthan, không chỉ là một kiệt tác kiến trúc cổ xưa của Ấn Độ mà còn là một biểu tượng điện ảnh.

Được xây dựng vào thế kỷ 8 và 9 dưới thời vua Chanda của triều đại Nikumbh, công trình kiến trúc kỳ diệu này đã mê hoặc du khách suốt nhiều thế kỷ.

Trong lòng giếng bậc thang Chand Baori. (Ảnh: Tripadvisor)

Trong những năm gần đây, Chand Baori đã trở nên nổi tiếng toàn cầu nhờ xuất hiện trong các bộ phim như The Dark Knight Rises và Bhool Bhulaiyaa, nơi vẻ đẹp huyền bí của nó trở thành phông nền hoàn hảo cho những cảnh quay đầy bí ẩn và hùng vĩ.

Chand Baori là một trong những giếng bậc thang sâu nhất thế giới, với độ sâu khoảng 30 mét, với 13 tầng tạo thành từ 3.500 bậc thang sắp xếp theo hình đối xứng hoàn hảo.

Các bậc thang của giếng Chand Baori được xếp đối xứng hoàn hảo, tạo nên kỳ quan thị giác. (Ảnh: Wikipedia)

Cấu trúc hình kim tự tháp ngược của Chand Baori là một kỳ quan thị giác, nhưng điều làm tăng thêm vẻ huyền bí chính là bầu không khí xung quanh. Không khí bên trong giếng bậc thang mát mẻ hơn so với bề mặt, và âm thanh vang vọng lên từ độ sâu tạo nên một không gian có chút rợn ngợp.

Nước ở dưới đáy có màu xanh lục đặc biệt, một ngôi đền chạm trổ ở trung tâm với những đường vòng cung tối tăm đầy bí ẩn. Nhiệt độ dưới đáy giếng luôn thấp hơn nhiệt độ bên trên từ 5 đến 6 độ C.

Nước ở dưới đáy giếng Chand Baori có màu xanh lục đặc biệt. (Ảnh: Tripadvisor)

Cấu trúc của các bậc thang được thiết kế để đảm bảo rằng người dân có thể tiếp cận với nước vào bất kỳ thời điểm nào trong năm và từ mọi phía, đồng thời nhằm tiết kiệm nước nhiều nhất có thể.

Ngoài ra nó còn có một ý nghĩa về toán học, thậm chí thiên văn học cho đến nay, các chuyên gia vẫn chưa lý giải được bí ẩn của trí tuệ người xưa.

Toàn cảnh miệng giếng bậc thang Chand Baori nhìn từ trên cao. (Ảnh: Wikipedia)

Kể từ khi xuất hiện trong một số bộ phim, Chand Baori trở thành điểm du lịch nổi tiếng thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới.

Hoa Vũ / Nguồn: Times of India



CÁ TRÈN BẦU KHO TỘ VÙNG SÔNG NƯỚC CỬU LONG

Những địa danh nổi tiếng về khô và mắm cá trèn ở miền Tây như: An Giang (Châu Đốc), Rạch Giá… được mọi người trong và ngoài nước biết đến.

Cá trèn bầu làm sạch.

Tùy theo hình dáng, kích cỡ, cá trèn có những tên gọi khác nhau như: cá trèn lá, trèn mỡ, trèn kết (cá kết), trèn bầu… Trong các loại cá trèn, có thể nói con cá trèn bầu là ngon hơn cả vì thịt nhiều, ngon ngọt, ít xương. Ngoài 2 cục thịt nạc gù lên trên sống lưng, ta còn phải kể đến phần bụng (cái nọng) rất béo của cá.

Cá trèn rất dễ chế biến món ăn. Nếu là cá trèn lá (nhỏ con, mình dẹp, ít thịt) thì làm mắm hay lăn bột chiên dầm nước mắm tỏi ớt; còn những con lớn hơn như trèn kết, trèn bầu thì làm khô, kho mẳn (kho lạt), kho nghệ… Nhưng ấn tượng không thể xóa nhòa trong tôi là những buổi trưa hè khi đi học về, mồ hôi còn nhễ nhại được má “đãi” cho món canh bầu nấu tép bạc đất cùng món cá trèn bầu kho tộ.

Cá trèn bầu kho tộ.

Theo má, cá mua ở chợ phải chọn cá tươi (con lớn mới béo, ngon) đem về làm sạch, để ráo. Ướp gia vị (đầu hành lá giã nhuyễn, muối, đường tán, đường thốt nốt càng ngon vì có mùi vị đặc trưng, bột ngọt, ớt, nước màu…) cho vừa khẩu vị, để cá ngấm khoảng 5 phút. Cho nước mắm ngon (nước mắm Phú Quốc) vào ngập xâm xấp với cá, nêm cho vừa ăn. Đặt tộ lên bếp với ngọn lửa liu riu cho đến khi nước cá sền sệt là nhắc xuống. Để cho nước cá có độ sánh hấp dẫn – cũng theo má – trước khi nước cá hơi cạn thì cho thêm một ít nước cơm sôi vào. Cuối cùng, cho dầu ăn, một ít tiêu xay, vài trái ớt hiểm chín là xong…

Chỉ cần dùng đũa giẽ một miếng cá trèn cho vào miệng nhai chậm rãi, bạn sẽ cảm nhận vị ngọt, béo của cá, vị thơm nồng của tiêu thấm dần vào vị giác… Và một miếng cơm nóng có chan miếng nước canh bầu vào “lùa” một hơi, tôi đoán chắc bạn sẽ nhớ mãi món ăn dân dã của miệt đồng bằng sông nước Cửu Long này.

Hữu Tưởng / Theo: laodong

Friday, November 21, 2025

"DƯA CHÍN CUỐNG RỤNG"

Trong cuộc sống, mọi điều đều có định số, đều được an bài từ trước. Mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi đoạn đường ta đi qua, tất cả đều không hề ngẫu nhiên. Cây có mùa ra hoa, trái có thời điểm kết quả; khi nào chín, khi nào thu hoạch, đều đã có quy luật của tự nhiên. Ý nghĩa của câu thành ngữ “Dưa chín cuống rụng” chính là như vậy.

Cảm ngộ thành ngữ Trung Hoa “Dưa chín cuống rụng”

Mỗi vụ dưa đều có số ngày định sẵn: bao lâu thì chín, bao lâu thì thu. Chỉ đợi đến đúng thời, dưa mới ngọt, ăn mới ngon. Nếu nóng vội hái sớm, dưa sẽ nhạt, chẳng ai muốn mua, người trồng cũng thất thu.

Trong đời, nhiều lúc ta cứ hay nóng nảy cưỡng cầu, muốn mọi thứ đến thật nhanh, muốn thành công chỉ sau một đêm, muốn đi đường tắt, mới gieo trồng đã mong đến ngày gặt hái. Nhưng quên rằng, mọi việc đều có thời của nó: hoa nở hoa tàn có mùa, quả chín quả rụng có lúc. Càng cưỡng cầu, lòng càng thêm phiền não, tâm càng thêm bất an.

Càng cưỡng cầu, lòng càng thêm phiền não, tâm càng thêm bất an. Ảnh minh họa.

Người làm việc mà không chuyên chú, chỉ làm qua loa đại khái, lại mong có kết quả tốt, được khen ngợi, đó là điều không thực tế. Người mới quen nhau vài lần đã vội tỏ tình, tình cảm chưa đủ sâu, chưa qua thử thách, thì khó mà bền lâu. Bởi chưa từng cùng nhau trải qua gian khó, sao có thể biết lòng người có thật sự thủy chung?

Thông thường, càng nóng vội bao nhiêu thì càng dễ thất bại bấy nhiêu; càng mong cầu bao nhiêu lại càng dễ thất vọng bấy nhiêu. Đại sự muốn thành, phải học cách nhẫn nại; muốn cuống rụng, phải đợi đến ngày dưa chín; muốn bền lâu, phải trải qua thử thách. Muốn thành công, phải chấp nhận đôi lần thất bại. Có như vậy, khi hái được quả ngọt, ta mới thấy vui, thấy đáng, thấy đời có ý nghĩa.

Mọi thứ đều cần thời gian để “chín”: tri thức cần tích lũy, kinh nghiệm cần rèn luyện, tâm tính cần tôi luyện qua thử thách, duyên phận cũng cần chờ đúng thời điểm. Người còn non nớt mà vội vàng khởi nghiệp, tất khó thành công; tình cảm quá gấp gáp, khó mà bền vững; người học đạo mà thiếu kiên trì, thì chẳng thể ngộ được đạo lý sâu xa.

Cũng như nghề nông, xuân gieo hạt, hạ chăm bón, thu mới gặt quả ngọt. Nếu cưỡng cầu nghịch thời, chẳng khác nào “bứt dây hái quả” — trái chưa kịp ngọt mà đã hỏng.

Cũng như nghề nông, xuân gieo hạt, hạ chăm bón, thu mới gặt quả ngọt. Ảnh minh họa.

Trong kiếp nhân sinh này, kiên nhẫn chính là một loại trí tuệ. Nó không chỉ giúp ta vững vàng trước khó khăn, mà còn đem lại bình yên và hòa thuận cho những người quanh mình. Bởi ta hiểu rằng, “dưa chín cuống rụng” không chỉ là một câu nói, mà là cả một triết lý sống — dạy ta biết đợi, biết thuận theo, biết tin rằng mọi việc, khi đủ duyên, tự nhiên sẽ thành.

Khai Tâm biên tập
Theo: vandieuhay

TỐNG NHÂN ĐÔNG DU - ÔN ĐÌNH QUÂN


Tống nhân đông du

Hoang thú lạc hoàng diệp,
Hạo nhiên ly cố quan.
Cao phong Hán Dương độ,
Sơ nhật Dĩnh Môn sơn.
Giang thượng kỷ nhân tại,
Thiên nhai cô trạo hoàn.
Hà đương trùng tương kiến,
Tôn tửu ủy ly nhan.


送人東遊

荒戍落黃葉
浩然離故關
高風漢陽渡
初日郢門山
江上幾人在
天涯孤棹還
何當重相見
樽酒慰離顏


Tiễn người sang đông
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Đồn hoang, vàng lá rụng rơi.
Cố Quan từ biệt, thảnh thơi lên đường.
Gió lay, cây động Hán Dương.
Dĩnh Môn tìm tới, tan sương dạng ngày.
Trên sông còn lại ai đây !.
Buồm côi thấp thoáng chân mây cuối trời.
Bao giờ gặp lại được người.
Chén sầu ly biệt thay lời chia xa.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Ôn Đình Quân 溫庭筠 (812-870) vốn tên Kỳ 岐, tự Phi Khanh 飛卿, người Thái Nguyên đời Vãn Đường (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), là cháu của tể tướng Ôn Ngạn Bác 溫彥博. Ông tinh thông âm nhạc, là một thi nhân tài tử mẫn tiệp, từ trẻ đã nổi danh thi từ nhưng thi không đỗ nên đi chu du đây đó. Từ của ông lời rất đẹp, phái Hoa gian liệt ông vào người đứng thứ nhất đời Đường. Tác phẩm của ông có Hán Nam chân cảo và Ác Lan tập, song đều tán lạc không còn.

Nguồn: Thi Viện