Saturday, December 6, 2025

7 LOẠI CẢNH GIỚI THÀNH CÔNG TRONG ĐỜI: ĐÂY MỚI THẬT SỰ LÀ "THƯỢNG THIỆN NHƯỢC THỦY"

Một người thương nhân trẻ tuổi bị người hợp tác bán đứng, cả người cả của đều không còn, thống khổ muốn nhảy xuống hồ tự vẫn. Ngay khi đến bên hồ, anh ta gặp một vị hiền sĩ đang ngồi tĩnh tọa. Anh ta liền đem từng cảnh ngộ của mình ra mà kể lại cho vị hiền sĩ nghe.


Vị hiền sĩ mỉm cười rồi khuyên bảo và dẫn anh ta về nhà mình. Sau đó, ông ta lấy ra một tảng băng đá rất to và cứng từ trong tầng hầm và nói người thương nhân: “Cậu hãy dùng sức lực mà làm cho nó tan ra!”

Người thương nhân dùng búa đập, anh ta đập hết sức nhưng cũng chỉ có thể tạo ra những vết nứt nhỏ trên mặt tảng đá băng kia.

Người thương nhân lại lấy hết sức vung búa đập tảng băng, trong chốc lát cũng chỉ có một chút băng vụn bắn ra. Anh ta thở hồng hộc và lắc đầu: “Tảng băng đá này quả thực là quá cứng!”

Vị hiền sĩ không nói mà đem tảng băng đặt lên nồi sắt nấu. Khi nồi bắt đầu nóng lên thì tảng băng đá cũng dần dần tan ra. Vị hiền sĩ hỏi: “Cậu có lĩnh ngộ được ra điều gì không?’


Người thương nhân nói: “Có một chút lĩnh ngộ! Cách mà tôi đối phó với tảng băng là không đúng. Tôi không nên dùng búa đập, mà nên dùng lửa đốt”.

Vị hiền sĩ lắc đầu.

Người thương nhân lộ rõ vẻ mặt khó xử, cúi đầu xuống và xin được thỉnh giáo.

Vị hiền sĩ nói một cách thâm sâu: “Cái mà tôi muốn cho cậu thấy là bảy loại cảnh giới thành công trong cuộc đời!”

Băng tuy là nước, nhưng so với nước lại cứng rắn gấp trăm lần. Càng trong hoàn cảnh giá lạnh ác liệt nó lại càng thể hiện ra đặc tính vững chắc như sắt thép của mình. Đây là loại cảnh giới thứ nhất của thành công trong cuộc đời – Ý chí kiên cường.

Nước hóa thành hơi, hơi là vô hình, nếu hơi tụ trong một phạm vi nhất định sẽ tạo ra lực rất lớn, động lực vô cùng. Đây là loại cảnh giới thứ hai của thành công trong cuộc đời – Tụ khí sinh tài.


Nước làm sạch vạn vật, cho dù vật bẩn như thế nào trên thế gian này, nước đều mở rộng lòng mình tiếp nhận mà không oán không hận. Sau đó, từ từ tự mình làm sạch. Đây là loại cảnh giới thứ ba của thành công trong cuộc đời – Bao dung tiếp nhận.

Nước nhìn như không có lực, chảy xuôi từ chỗ cao xuống chỗ thấp, khi gặp vật cản nó kiên nhẫn vô cùng, nếu gặp phải hòn đá, nước sẽ làm mài mòn hòn đá ấy. Đây là loại cảnh giới thứ tư của thành công trong cuộc đời – Lấy nhu thắng cương.

Nước có thể dâng cao cũng có thể hạ xuống thấp. Khi ở trên cao nước hóa thành mây mù, ở dưới thấp lại hóa thành mưa và sương, nhiều giọt nước nhỏ hội tụ lại thành sông, chảy từ cao xuống thấp. Đây là loại cảnh giới thứ năm của thành công trong cuộc đời – Co được giãn được.

Nước mặc dù là lạnh nhưng lại có một tấm lòng lương thiện. Nó không tranh không đấu, còn nuôi sống vạn vật trên thế gian nhưng lại không đòi báo đáp. Đây là loại cảnh giới thứ sáu của thành công trong cuộc đời – Nuôi dưỡng thiên hạ.


Sương mù nhìn như mờ ảo, nhưng lại có thân thể tự do nhất. Nó có thể kết thành mưa mà hóa thành hình ảnh giọt nước và lại có thể tán ra thành vô ảnh lơ lửng giữa đất trời. Đây là loại cảnh giới thứ bảy trong đời của người thành công – Công thành thân thoái.

Nhân tâm như nước! Sở dĩ năng lực, thiện ác, dục vọng .v.v. của mỗi người không giống nhau là bởi vì có cảnh giới khác xa nhau mà thôi.

An Nhiên / Theo: ĐKN

Friday, December 5, 2025

NẾU BẠN ĐÃ 50-80 TUỔI, HÃY DÀNH HAI PHÚT ĐỂ ĐỂ ĐỌC BÀI VIẾT NÀY, RẤT TRỌNG YẾU!

Nếu bạn đã 50-80 tuổi, hãy chắc chắn dành hai phút để đọc bài viết này, hạnh phúc và tuổi thọ tự nhiên đến!


Nếu bạn đã 50-80 tuổi

Phải biết học cách quên đi quá khứ tổn thương

Sau tuổi 50, muốn có một ngày hạnh phúc, bạn phải học cách quên đi quá khứ.

Đoạn tuyệt quan hệ với địa vị và những điều khó chịu của mình trong quá khứ. Giữ khoảng cách với những người không thể ở bên nhau trong quá khứ, không niệm không hận, riêng phần mình mạnh khỏe.

Minh bạch được độ tuổi nào làm gì và khi nào nên nói gì. Như vậy mới có thể không vượt qua giới hạn, không bi thương, một thân nhẹ nhàng đi vào thế giới hạnh phúc của mình.

Đừng để trà thô và cơm nhạt sống qua ngày

Tăng huyết áp, mỡ máu cao, lượng đường trong máu cao là sự hiện diện của axit uric cao, làm cho nhiều người bạn lớn tuổi nghĩ rằng “trà thô cơm nhạt” là giải pháp duy nhất cho sức khỏe và tuổi thọ. Chỉ cần ăn thức ăn mà không ăn thịt, có thể kéo dài tuổi thọ, ít bị bệnh. Nhưng trên thực tế, một chế độ ăn uống thực sự lành mạnh không phải là một bữa ăn nhẹ trà thô, mà là một sự kết hợp khoa học.

Các bác sĩ dinh dưỡng khuyến cáo rằng, người trên sáu mươi nên chú ý nhiều hơn đến dinh dưỡng và mỗi ngày nên ăn 300 ~ 500gram rau, 120 ~ 250gram cá, gia cầm, thịt, trứng và các loại thực phẩm động vật khác.
 
Hãy hiểu rằng sống đừng quá tỷ đấu hơn thua

Trong cuộc sống, quá tỷ đấu lời nói, sẽ mất rất nhiều niềm vui, nhưng cũng có rất nhiều người chịu thua trong tranh đấu thiệt hơn. Phải chăng đó là người hồ đồ?. Thực ra, đó là cái nhẫn của bậc đại đức, giả bộ hồ đồ, không đi so sánh, đây kỳ thật là cảnh giới cao nhất của nhân sinh.

Đến tuổi này, đối với một số người trong cuộc sống và một số điều, nên mở một mắt nhắm một mắt, không trái với nguyên tắc, không cần phải so sánh thực tế. Hồ đồ, sống hạnh phúc là đủ để giành chiến thắng đẹp trong cuộc sống này!


Học cách trở thành một người an tĩnh

Già đi, không còn tinh lực vô hạn, không cần tranh giành từng giây từng phút, chi bằng làm một người an tĩnh, chậm lại, yên tĩnh lại, nghe thanh âm hoa nở, cảm thụ cuộc sống tốt đẹp như thế nào.

Già đi, hãy là một người an tĩnh, biết lắng nghe, quan sát và thuận theo tự nhiên. Mặc dù kinh nghiệm và hiểu biết của riêng bạn là nhiều hoặc là tốt, nhưng nó không nhất thiết phải phù hợp với những người trẻ tuổi, vì vậy bạn chỉ có thể đưa ra lời khuyên thay vì ra lệnh.
 
Hãy làm việc để có hạnh phúc trọn vẹn

Người già cũng có việc làm, có việc làm thì bận rộn, sống vui vẻ vô biên.

Trong thực tế, học tập, lao động, rèn luyện, trồng hoa và trồng rau đều là đang vì hạnh phúc của riêng mình. Bằng cách này sẽ cho chúng ta niềm hạnh phúc trọn vẹn vào những năm cuối đời.

Người có lẽ cần quan tâm nhiều hơn là chính mình

Cả đời này, người chúng ta cần xin lỗi nhất thực ra là chính mình.

Hãy suy nghĩ về những ngày trước đây, vì lợi ích của gia đình, cho cuộc sống, làm hài lòng người khác, để đổi lấy cuộc sống mong muốn của họ, là những điều không hề dễ dàng.

Mà bây giờ đến tuổi này, nên cho phép mình ít suy nghĩ về người khác, quan tâm đến mình nhiều hơn. Thay vì làm hài lòng người khác một lần nữa, tốt hơn là làm hài lòng chính mình, để mỗi ngày của cuộc sống trở nên có ý nghĩa và đầy màu sắc.


Điều quan trọng là phải chọn cho mình một người bạn, đặc biệt là những người bạn cũ

“Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng”. Cổ ngữ từ lâu đã hiểu được tầm quan trọng của việc lựa chọn bạn bè. Quay đầu lại suy nghĩ một chút, trải qua mấy chục năm quang cảnh như vậy, còn có thể làm bạn bên cạnh mình, tuyệt đối là người đáng giá cả đời quý trọng.

Tri kỷ khó tìm, tri âm khó cầu, bạn già khó có được. Đến tuổi này, hãy chắc chắn trân trọng những người bạn cũ xung quanh bạn, ngay cả những người bạn cùng lớp học cũ hay đồng nghiệp cũ mà vẫn giữ liên lạc, cuộc sống nhờ có họ sẽ trở nên phong phú hơn và thú vị hơn.

Hãy nhớ rằng trái tim còn trẻ khi ta đã già

Con người luôn luôn già đi, đó là sự thật, cũng là một quy luật khách quan. Nhưng nếu trái tim còn trẻ, già đi mãi mãi chỉ là tuổi tác, không già đi chính là tinh thần, tính khí và phong cách.

Người trên sáu mươi, có một tâm lý tốt, vui vẻ và lạc quan, cởi mở rộng rãi. Có một tâm lý trẻ trung, không than thở về tuổi già, không buồn mùa thu thì bạn sẽ chẳng phải lo lắng tuổi già mà vẫn lạc quan và hạnh phúc với cuộc đời còn lại!

Kỳ Mai biên dịch
Vương Hòa / Theo: aboluowang

LƯƠNG TỨ - LÝ THƯƠNG ẨN


Lương tứ

Khách khứ ba bình hạm,
Thiền hưu lộ mãn chi.
Vĩnh hoài đương thử tiết,
Ỷ lập tự di thì.
Bắc Đẩu kiêm xuân viễn,
Nam Lăng ngụ sứ trì.
Thiên nhai chiêm mộng số,
Nghi ngộ hữu tân tri.


涼思 - 李商隱

客去波平檻
蟬休露滿枝
永懷當此節
倚立自移時
北斗兼春遠
南陵寓使遲
天涯占夢數
疑誤有新知


Ý nghĩ êm đềm
(Dịch thơ: Trương Việt Linh)

Khách đi sóng cũng lặng rồi
Ve ngưng tiếng gọi sương rơi nặng cành
Cõi lòng chợt thấy bâng khuâng
Tựa bên cửa sổ ngẫm dòng thời gian
Nam Lăng tin bạn lỡ làng
Sắc xuân Bắc Đẩu mơ màng xa xôi
Băn khoăn bói mộng phương trời
Ngờ ai giờ đã có người mới quen


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lý Thương Ẩn 李商隱 (813-858) tự Nghĩa Sơn 義山, hiệu Ngọc khê sinh 玉谿生, người Hà Nội, Hoài Châu (nay là Tầm Dương, phủ Hoài Khánh, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc), xuất thân trong một gia đình quan lại nhỏ sa sút. Thuở thiếu thời giỏi văn thơ, được giao du với các con của tể tướng Lệnh Hồ Sở 令狐楚, trong đó có Lệnh Hồ Đào 令狐綯. Bấy giờ trong triều có hai phe đối nghịch nhau, tranh quyền đoạt lợi, một phe là Ngưu Tăng Nhụ 牛僧孺, phe kia là Lý Đức Dụ 李德裕, hầu hết quan lại đều bị lôi cuốn vào cuộc tranh chấp ấy. Sở theo phe Ngưu. Năm Lý Thương Ẩn mười bảy tuổi (829), Sở tiến cử làm tuần quan mạc phủ. Năm hai mươi lăm tuổi (837), ông lại được Lệnh Hồ Đào khen ngợi, nâng đỡ nên đỗ tiến sĩ năm Khai Thành thứ 2. Năm sau ông được Vương Mậu Nguyên 王茂元, tiết độ sứ Hà Dương mến tài, dùng làm thư ký và gả con gái cho. Chẳng may, Vương thuộc phe Lý Đức Dụ khiến ông trở thành kẻ vong ân bội nghĩa, xảo quyệt vô hạnh trong mắt Lệnh Hồ Đào. Vương Mậu Nguyên chết, rồi Lý Đức Dụ thất thế, ông đến kinh sư nhưng không được làm gì cả. Sau nhờ Trịnh Á vận động, ông được làm chức quan sát phán quan. Trịnh Á bị biếm ra Lĩnh Biểu, ông cũng đi theo. Ba năm sau ông lại trở về, làm huyện tào tại Kinh Triệu. Ông nhiều lần đưa thư, dâng thơ cho Lệnh Hồ Đào để phân trần và xin tiến dẫn, nhưng vẫn bị lạnh nhạt. Tiết độ sứ Đông Thục là Liễu Trọng Hĩnh dùng ông làm tiết độ phán quan, kiểm hiệu Công bộ viên ngoại lang. Liễu bị bãi quan, ông cũng mất chức. Như thế là ông mắc kẹt giữa hai phái, chưa hề được đắc chí trên hoạn lộ, cứ bôn tẩu khắp nơi: Tứ Xuyên, Quảng Đông, Quảng Tây, Từ Châu nương nhờ hết người này đến người khác, long đong khốn khổ. Cuối cùng ông về đất Oanh Dương thuộc Trịnh Châu rồi bệnh chết năm 46 tuổi.

Nguồn: Thi Viện



SỰ THẬT VỀ TỐNG GIANG

Thủy Hử Truyện là tác phẩm của nhà văn Thi Nại Am đời nhà Minh. Hồi mới mười mấy tuổi, tôi mê đọc Thủy Hử lắm, đêm nào tôi cũng thắp ngọn đèn dầu to bằng hạt đậu nành bưng vào mùng nằm đọc sách. Sách dịch văn chương lưu loát, bay bỗng, có hình vẽ minh họa từng nhân vật kèm theo rất đẹp. 

Cập thời vũ Tống Công Minh - Tống Giang trong Thủy Hử của Thi Nại Am.

Lúc đó, tôi đọc vì mê cái oai dũng của Báo Tử Đầu Lâm Xung, Hành Giả Võ Tòng, thích sự tuấn tú mà mạnh mẽ của Lãng tử Yến Thanh; thích “nghe” tiếng quyền đánh vù vù, tiếng binh khí khua rổn rảng, tiếng mái chèo khua rào rạt xuyên trong lau lách Lương Sơn Bạc; thích “ngửi” mùi thịt chó nướng thơm lừng của Hoa Hòa Thượng Lỗ Trí Thâm, mùi bánh bao bốc khói với thịt bò luộc và rượu nóng trong tửu điếm Cảnh Dương Cang… Quả là “Nằm trên rượu thịt, gối gươm đao”. Những năm thập niên 80, cái thời mà cơm gạo vàng ệch khô khốc với rau muống sống cũng không đủ ăn cho no bụng, thì đêm đêm được “ăn hàm thụ” những món này kể cũng “sang trọng” ghê gớm. Nói túm lại là lúc nhỏ tôi mê Thủy Hử với một “tinh thần ăn uống” mạnh mẽ lẫn “thích đánh nhau” nhiều hơn.

Phim ảnh dựng theo Thủy Hử truyện cũng được nhiều hãng làm đi làm lại không biết chán. Trung Quốc có phim “Anh Hùng Thủy Hử” xoáy sâu vào nhân vật chính là Thời Thiên. Tuy đứng hàng thứ 107 trong Lương Sơn, nhưng Thời Thiên có khả năng khinh công giỏi, được người đời gọi là "Thiên hạ đệ nhất đạo chích" với nhiều giai thoại hài hước. Hãng truyền hình Hồng Công có “Thủy Hử Vô Gian”. Tháng 4/2009 Đài Truyền hình Trung Quốc thông báo sẽ khởi quay Tân Thủy Hử dài 80 tập với sự có mặt của các diễn viên nổi tiếng như Trương Thiết Lâm, Huỳnh Hiểu Minh, Phạm Băng Băng... tập trung vào vai chính là nhân vật Tống Giang… Nhìn chung, phim nào cũng đẩy Tống Giang lên làm nhân vật chính và chính nghĩa (thì bản gốc truyện nó thế mà).

Bây giờ, khi đã đến tuổi “Tứ thập nhi bất hoặc” (Bốn mươi tuổi biết phân biệt phải trái, không gì mê hoặc được), tôi đọc Thủy Hử với con mắt khác, không quan tâm đến ai ăn món gì, nhậu món gì, xài binh khí gì, đánh nhau giỏi dở ra sao, mà đi sâu vào khám phá tính cách từng nhân vật. Và tôi chợt ngộ ra rằng, “thấy dzậy mà hông phải dzậy à nghen”, chân tiểu nhân, ngụy quân tử vàng thau lẫn lộn, kém quan sát một chút, cả tin một chút là bị bề ngoài nó đánh lừa dễ như chơi.

Người sáng lập ra Lương Sơn Bạc là Thác Tháp Thiên Vương Tiều Cái. Tiều Cái có danh hiệu Thác Tháp Thiên Vương bởi lẽ ông thần thái uy nghi, phiêu hốt như thần tiên, văn võ gồm tài, sánh như Thác Tháp Thiên Vương Lý Tịnh.

Tiều Cái dù là người sáng lập, nhưng lại không được tính vào trong số 108 vị anh hùng Lương Sơn vì ông đã chết trước khi họ tập hợp được đầy đủ 108 người. Tướng của Tăng Đầu thị là Úc Bảo Tứ (sau này cũng gia nhập Lương Sơn Bạc) đã cướp số ngựa mà Dương Lâm, Thạch Tú, Đoàn Cảnh Trụ mua cho Lương Sơn Bạc, do đó Tiều Cái nổi giận dẫn quân đánh Tăng Đầu thị. Ông bị Sử Văn Cung bắn tên độc trúng mặt, anh em vực đem về được Lương Sơn Bạc nhưng vì không được chữa trị nên phải chết.
 
Người đứng thứ nhì Lương Sơn Bạc là Tống Giang, có tên hiệu là Hô Bảo Nghĩa (người kêu gọi chính nghĩa), còn gọi là Tống Áp Ty (chức vụ), Tống Công Minh hay Cập Thời Vũ (mưa đúng lúc). Thông qua các tên hiệu, ta có thể thấy Tống Giang là một kẻ rất biết PR cho chính mình và thu phục nhân tâm, nào là kêu gọi chính nghĩa, tỏ thái độ công bằng sáng suốt, hay giúp đỡ người khác lúc khó khăn. Biết “mượn thần vay thánh” chôn bia (giả cổ) khắc tên 108 người để tạo niềm tin, lại còn khắc tên Tống Giang đứng đầu, thế mới “đểu” chứ. Công lao gầy dựng Lương Sơn Bạc đứng đầu là Tiều Cái, Nguyễn gia huynh đệ và Lâm Xung, nhưng khi “giả thần giả thánh” Tống Giang sợ anh em nhắc đến Tiều Cái nên đã gạt phắt tên ông ra khỏi tấm bia.

Tống Giang bị đuổi, phiêu bạt không nơi nương tựa, được Tiều Cái thu dụng vào Lương Sơn nương náu, thèm muốn cơ ngơi của Tiều Cái đến nhỏ dãi mà ngoài mặt phải ra vẻ khiêm cung, khéo lấy lòng người khác. Tống Giang tạo danh tiếng cho mình bằng cách luôn xuất hiện đúng lúc nạn nhân sắp chết để ra tay cứu giúp, đúng chiến thuật “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”, một hộc lương của vua Trung Sơn cho người sắp chết đói làm người ta mang ơn đến hai đời. Vì vậy, Tống Giang còn có biệt hiệu là Cập Thời Vũ (mưa đúng lúc).

Tống Giang có-thật-trong-lịch-sử Trung Quốc là nhân vật tầm thường hơn nhiều so với tiểu thuyết.
 
Trước khi chết Tiều Cái đã có bẻ tên thề ước là ai bắt được Sử Văn Cung sẽ ngồi chiếc ghế trại chủ. Sau đó người bắt được Sử Văn Cung là Ngọc Kỳ Lân Lư Tuấn Nghĩa. Hãy xem Thi Nại Am Tiên sinh mô tả mô tả cái cách Tống Giang đoạt quyền Lư Tuấn Nghĩa như sau:
 
“Hôm đó Tiều Cái dẫn năm nghìn binh mã cùng hai mươi vị Đầu lĩnh đến chợ Tăng Đầu liền đóng trại đối với trại giặc bên kia, ngày hôm sau Tiều Cái cùng với các Đầu lĩnh cưỡi ngựa đi ra chợ Tăng Đầu để thăm nom địa thế”. Tiều Cái bị tên độc của Sử Văn Cung bắn trúng mặt, “Khi về đến sơn trại thấy Tiều Cái đã mê mệt, cơm cháo không ăn toàn thân bủng beo rất nhiều nguy hiểm . Tống Giang ngồi luôn trước giường Tiều Cái mà khóc than rất là thảm thiết”.
 
Than ôi! Một Chủ thủy trại xuất binh một lần 5.000 binh mã cùng 20 đầu lĩnh, lực lượng hùng hậu hùng cứ một góc trời như thế mà khi lâm nguy không mời nổi một danh y chữa thương, để đến nỗi phải mất mạng. Cái kiểu “ngồi luôn trước giường Tiều Cái mà khóc than rất là thảm thiết” ấy chẳng khác nào mèo khóc chuột, chẳng qua là Tống Giang và tay chân thân tín túc trực xung quanh không cho ai đến gần tiếp xúc với Tiều Cái và ngồi canh me chờ Tiều Cái chết, mà không hề thấy ai tỏ thái độ mời danh y đến điều trị vết thương.

Tống Giang lừa bắt Tần Minh, Lư Tuấn Nghĩa v.v.. rất nhiều hảo hán khác chứ bản thân họ là các danh tướng lẫy lừng, đều chưa hề mâu thuẫn gì với triều đình, giết người nhà của họ để đẩy họ vào chổ không thể quay đầu về, đành lên Lương Sơn Bạc. Đó không phải là dùng tài trí để khiến nhân tâm cảm phục.

Tống Giang giả vờ nhường chức Đầu Lĩnh cho Lư Tuấn Nghĩa, đó là hành động giả dối như Lưu Bị vứt con xuống đất. Tống Giang giết nàng Diêm Bà Tích xong không dám ra nhận tội, mà lại chạy trốn, chẳng bằng một phần mười Võ Tòng. Để thu phục Tần Minh, Lư Tuấn Nghĩa,Tống Giang dùng mưu giết hại rất nhiều dân lành, gây sự hiểu lầm không thể biện minh cho Tần Minh. Đó là hành động của kẻ dã tâm chứ không phải hảo hán.
 
“Sau khi Tống Giang lên làm đầu lĩnh Lương Sơn Bạc, điểm lại thấy anh em có cả thảy một trăm lẻ tám người, vui mừng khôn xiết, liền lập đàn tế trời đất. Đến ngày thứ bốn mươi chín thì tự nhiên trời nổi sấm rồi một luồng hào quang xé bầu trời xẹt xuống phía Nam. Tống Giang cho người đào lên thì thấy một văn bia ghi chữ cổ, nhờ người dịch ra thì ở đó ghi đầy đủ tên của một trăm lẻ tám vị đầu lĩnh Lương Sơn Bạc. Tống Giang rất mừng, đổi tên Tụ Nghĩa Sảnh thành Trung Nghĩa Đường. Rồi từ đó tìm cách quy thuận triều đình”.

Cái ranh ma của Tống Giang còn thể hiện ở chổ bản thân y là kẻ cầm đầu một đám cướp nhưng đầu óc lúc nào cũng nghĩ đến chuyện được ăn lộc vua. Tống Giang chống triều đình nhưng trong lòng suốt ngày mong được triều đình đến đón về. Đến khi triều đình dụ dỗ thì tham danh, phản bội anh em. Cuối cùng y đem cả bọn ra hàng Triều đình để mưu cầu địa vị.
 
Sau này, còn vài người như Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng hay Yến Thanh thấy rõ phận “hàng thần lơ láo” mà bỏ đi, số còn lại đều bị giết dần giết mòn, duy ngụy quân tử Tống Giang được “ghi công” nhờ có y mà Lương Sơn nhanh chóng sụp đổ. Nếu như người khác, muốn tạo dựng sự nghiệp, đánh đổ một vương triều, san bằng một quốc gia… phải lưng không rời giáp, ngựa chẳng gác yên, vào sanh ra tử giữa rừng tên mũi giáo, chiến công đánh đổi bằng xương máu chính mình; còn cái tài của Tống Giang hơn hẳn bọn “võ phu” kể trên. Nhiều lần triều đình nhà Tống cử binh đi tới đi lui mà không sao “thảo phạt” được bọn thủy khấu, nhưng Tống Giang chỉ cần nói hai từ “chiêu an” mà giết hết anh em Lương Sơn Bạc, quả là “tài năng” vượt bậc hơn người.

Kim Thánh Thán có viết: “Đọc Thủy Hử một lần thì thấy Tống Giang rất tốt, đọc đến lần thứ hai thì thấy Tống Giang nửa tốt nửa xấu, đọc lần thứ ba thì chỉ thấy xấu”. Riêng tôi, tôi thấy Tống Giang không chỉ “xấu” đơn thuần như lời Kim Tiên sinh, mà tôi thấy Tống Giang là một người ranh ma, quỷ quyệt, độc ác vô cùng, sẳn sàng phóng hỏa đốt nhà, giết người vô tội, bán đứng bằng hữu, sử dụng mọi thủ đoạn bất chấp đạo lý nhằm đạt được mục đích, nhưng Tống Giang biết che đậy cái gian manh của mình bằng cái mặt nạ đạo đức, công minh. Có thể coi Tống Giang là mẫu người sẵn sàng hi sinh tất cả để đạt được mục đích của mình. Không hiểu sao các hảo hán Lương Sơn lại không nhận ra bộ mặt thật của y?

Tạo hình của Tống Giang (Trương Hàm Dư thủ vai) trong phim truyền hình Tân thủy Hử 2011.

Nhưng cuối cùng, “ác giả ác báo”, Tống Giang bị mất hết tất cả, anh em, bạn bè, tự do, danh dự đều mất sạch, cuối cùng phải uống ngự tửu (độc) mà chết.
 
Thời buổi nhiễu nhương thổ tả, vàng thau lẫn lộn, ma nhiều hơn người, thật khó mà nhận biết những Tống Giang lẫn lộn với người bình thường. Tống Giang ngày nay cũng hô hào chính nghĩa, cũng kêu gọi tương trợ, cũng “xuất hiện đúng lúc”, nhưng mấy ai biết được Tống Giang nhón tay cho trước mặt mà thò tay giật sau lưng. Cho nên có nhiều “anh hùng hảo hán” ra sức chạy theo Tống Giang đến rạc cẳng, hết lòng hết sức ủng hộ, cho đến khi “hùm thiêng sa lưới” mới tỉnh ngộ thì ôi thôi, “Nhất túc thất thành thiên cổ hận/ Tái hồi đầu thị bách niên thân”.

Trong một triều đình bệ rạc như của Tống Huy Tông, đầy rẫy những tên quan tham lam độc ác, thấy ai có chút tài sản thì cướp, thấy đàn bà con gái đẹp cũng cướp như cha con Cao Cầu, người dân những tưởng có thể trông cậy vào anh hùng Lương Sơn mà hả giận, không ngờ gặp ngay Tống Giang, chẳng khác nào “giao trứng cho ác”, tội nghiệp cho các nạn nhân cả tin biết chừng nào.

Bài của luongdd đăng trong chaomao.org

Thursday, December 4, 2025

GIA TỘC THỊNH VƯỢNG SUỐT 130 NĂM, 4 THẾ HỆ KHUYNH ĐẢO KINH TẾ TRUNG QUỐC

Suốt hơn một thế kỷ, dòng họ Vinh vẫn giữ vị thế hiếm có trong giới tài phiệt Trung Quốc. Đây là một gia tộc đã đồng hành cùng biến động lịch sử đất nước, từ triều Minh đến thời kỳ cải cách mở cửa, và vẫn chưa từng đánh mất sự thịnh vượng.

Vinh Tông Kính (trái) và Vinh Đức Sinh (phải), hai anh em được coi là người sáng lập nên cơ đồ gia tộc họ Vinh trong lịch sử cận đại Trung Quốc. Ảnh: Rongfamily

Từ làng quê Giang Tô đến nghiệp tài chính ở Thượng Hải

Câu chuyện bắt đầu từ năm 1435 – năm đầu tiên dưới triều Minh Anh Tông. Khi ấy, một nhóm nông dân rời Kim Lăng (nay là Nam Kinh) đến lập nghiệp tại làng Vinh Hạng ở vùng ngoại ô Vô Tích, tỉnh Giang Tô. Họ trở thành tổ tiên của một trong những dòng họ thương nghiệp thành công và có ảnh hưởng nhất Trung Quốc - gia tộc họ Vinh.

Được biết nhà họ Vinh từng có người giữ chức vụ cao trong triều đình nhưng đến cuối triều Thanh, biến động lịch sử quét qua vùng Giang Tô khi cuộc nổi dậy Thái Bình Thiên Quốc lan tới. Cả gia tộc gần như bị diệt sạch, chỉ còn cậu bé 11 tuổi Vinh Hi Thái (1849 – 1896) sống sót nhờ đang học nghề cơ khí ở Thượng Hải. Chính cậu bé ấy sau này đã đặt nền móng cho đế chế kinh doanh họ Vinh.

Từ người học việc, Hi Thái vừa làm vừa tích góp. Đến năm 35 tuổi, ông được tiến cử làm kế toán tại cục thuế Tam Thủy (Phật Sơn, Quảng Đông).

Vinh Hy Thái (phải) cùng 2 người con là Vinh Tông Kính (trên) và Vinh Đức Sinh (dưới). Ảnh: The Paper

Nhờ thông minh và tính trung thực, ông nhanh chóng được giao trọng trách quản lý nhiều mảng công việc quan trọng của cục. Tiếp xúc với thương nhân phương Tây giúp ông nhận ra vai trò sống còn của dòng vốn trong phát triển kinh tế.

Vinh Hi Thái cho 2 con trai là Vinh Tông Kính (1873 – 1938) và Vinh Đức Sinh (1875 – 1952) theo học trường tư thục từ nhỏ, rồi gửi họ đến Thượng Hải học nghề ngân hàng khi mới 15 tuổi. Hai anh em sớm thành thạo nghiệp vụ kế toán, quản lý tiền gửi, và nắm rõ hoạt động tín dụng – những kỹ năng sẽ giúp họ tạo dựng đế chế tài chính sau này.

Năm 1891, Tông Kính vào làm chân chạy việc tại ngân hàng tư nhân Sâm Thái Dung, học hỏi cách phân bổ vốn, vận hành tài chính và theo dõi biến động hàng hóa. Còn Đức Sinh, hai năm sau đó, theo cha về cục thuế Tam Thủy làm kế toán.

Khi Hi Thái lâm bệnh nặng năm 1895, ông quyết định nghỉ việc, cùng gia đình trở lại Thượng Hải và mở ngân hàng Quảng Sinh gần bến Hồng Thăng. Không lâu sau, ông qua đời ở tuổi 48, để lại sự nghiệp non trẻ cho các con tiếp quản.

Từ bột mì đến sợi bông: Đế chế hình thành

Bước ngoặt đến vào mùa hè năm 1900. Khi về Thượng Hải nghỉ phép, Vinh Đức Sinh chờ thuyền ở bến Hồng Kông và bắt gặp cảnh hàng trăm công nhân bốc dỡ bột mì, bột rơi vãi trắng cả bến cảng. Ông nhận thấy Trung Quốc – đất nước nông nghiệp – lại phụ thuộc hoàn toàn vào bột mì nhập khẩu.

Câu hỏi ấy đã thôi thúc ông và anh trai hùn vốn cùng một người bạn của bố để mở nhà máy bột mì Bảo Hưng tại Vô Tích năm 1902, sau đổi tên thành Mậu Tân. Đức Sinh điều hành sản xuất, còn Tông Kính phụ trách ngân hàng và phân phối tại Thượng Hải.

Nhà máy dệt của gia tộc họ Vinh vào những năm đầu thế kỷ 20. Ảnh: The Paper

Khi chiến tranh Nga – Nhật nổ ra năm 1904, nhu cầu bột mì tăng vọt tại vùng Đông Bắc Trung Quốc. Hai anh em nắm bắt thời cơ, đầu tư máy xay thép nhập từ Anh và mở rộng sản xuất. Từ 300 bao mỗi ngày, sản lượng nhanh chóng tăng gần gấp ba.

Khi giá bao đựng bột leo thang, họ lập tức thành lập thêm nhà máy sợi Chấn Tân năm 1905 để tự chủ nguồn cung, khởi đầu cho chuỗi sản xuất khép kín “từ sợi tới bột”.

Chiến lược táo bạo “không chia cổ tức trong 3 năm” giúp họ tích lũy vốn nhanh chóng, tái đầu tư và mở rộng liên tục. Nhờ đó, từ 40.000 NDT ban đầu, vốn của họ đã tăng lên 3 triệu NDT vào năm 1923. Cách vận hành này giúp nhà Vinh vững vàng qua giai đoạn khủng hoảng kinh tế thập niên 1930.

Trong thời kỳ đỉnh cao, tập đoàn Vinh thị sở hữu tới 21 doanh nghiệp – trong đó có 4 nhà máy Mậu Tân, 8 nhà máy Phúc Tân và 9 nhà máy dệt Thân Tân tại Thượng Hải, Vô Tích, Hán Khẩu, Tế Nam.

Năm 1922, họ chiếm hơn 30% sản lượng bột mì quốc doanh cả nước; đến năm 1931, nhà họ Vinh tiếp tục thống lĩnh ngành dệt may, nắm 20% tổng sản lượng cọc sợi bông Trung Quốc và 28% lượng vải cotton khi đó.

“Một nửa người Trung Quốc mặc vải do chúng tôi dệt, ăn bột do chúng tôi xay”, Vinh Tông Kính tự hào nói trong lễ mừng thọ năm 1933. Cái tên “Tam Tân” – viết tắt của ba thương hiệu Mậu Tân, Phúc Tân, Thân Tân – trở thành biểu tượng cho thời kỳ vàng son của doanh nghiệp tư nhân Trung Quốc.

Sau năm 1937, chiến tranh Trung – Nhật buộc gia tộc phải phân tán. Vinh Tông Kính di cư sang Hồng Kông rồi qua đời tại đây, còn Vinh Đức Sinh ở lại Trung Quốc tiếp tục gây dựng sự nghiệp và thành lập nhiều doanh nghiệp trong các lĩnh vực mới.

Bên cạnh đó, ông còn giữ nhiều chức vụ trong chính quyền mới sau năm 1949, tham gia Ủy ban Chính hiệp Toàn quốc khóa I và là phó chủ nhiệm cơ quan hành chính Giang Tô. Vinh Đức Sinh cũng là người xây dựng Mai Viên – khu danh thắng nổi tiếng ở Vô Tích – cùng nhiều trường học, thư viện, viện nghiên cứu và hơn 100 cây cầu, thể hiện tinh thần hướng về cộng đồng của gia tộc.

Lần lượt từ trái sang phải: Vinh Tông Kính, Vinh Đức Sinh, Vinh Nghị Nhân, Vinh Trí Kiện. Ảnh: The Paper

Truyền nhân tiếp nối

Đức Sinh có 4 người con, trong đó cậu con trai thứ 4 Vinh Nghị Nhân (1916 – 2005) là người kế nghiệp trực tiếp. Năm 1957, ông được Chủ tịch Mao Trạch Đông đề cử vai trò phó thị trưởng Thượng Hải, rồi Thứ trưởng Bộ Công nghiệp Dệt may năm 1959.

Sau thời kỳ cải cách mở cửa, ông đảm nhận vị trí phó Chủ tịch nước và góp phần sáng lập Tập đoàn Đầu tư Trung Tín Trung Quốc (CITIC) năm 1979 – tập đoàn đầu tư quốc doanh lớn nhất của Trung Quốc, hoạt động mạnh trong lĩnh vực tài chính, ngân hàng và công nghiệp nặng.

Đến thế hệ thứ 3, Vinh Trí Kiện (sinh năm 1942), con trai Vinh Nghị Nhân, tiếp nối truyền thống kinh doanh. Là Chủ tịch CITIC chi nhánh Hồng Kông, ông gây tiếng vang khi mạnh tay mua lại 20% cổ phần của Hồng Kông Telecom Limited vào năm 1989 giữa lúc thị trường chứng khoán sụp đổ. Thương vụ này được tạp chí World Finance của Anh gọi là “giao dịch xuất sắc nhất thế giới năm 1990”.

Ông từng đứng đầu danh sách người giàu nhất Trung Quốc năm 2002 với tài sản 7 tỷ NDT, theo bảng xếp hạng Hồ Nhuận.

Vinh Nghị Nhân (hàng đầu, bên phải) cùng gia đình. Ảnh: The Paper

Trong khi đó, Vinh Trí Hâm – con út của Vinh Vĩ Nhân (con cả của Vinh Đức Sinh) – lại chọn con đường riêng. Sau khi tốt nghiệp MIT ngành kỹ sư điện, ông sáng lập công ty phân phối thuốc lá Midland, rồi chuyển hướng sang công nghệ, thành lập công ty Vinh Văn.

Sau đó, vào năm 1985, ông thành lập hãng điện tử Elcap cùng em trai Vinh Trí Kiệm và người anh em họ Vinh Trí Kiện. Bốn năm sau, Elcap được một tập đoàn Mỹ mua lại, mang về cho họ khoản lợi nhuận khổng lồ.

Tiếp tục mở rộng di sản

Sang đến thế hệ thứ 4, dòng họ Vinh vẫn giữ vị thế trong giới kinh tế Trung Quốc. Vinh Minh Kiệt (sinh năm 1969), con trai của Vinh Trí Kiện, gia nhập CITIC Pacific Hồng Kông năm 1993 rồi trở thành CEO vào năm 2000. Ông từ chức ở CITIC năm 2014 và kín tiếng từ đó tới nay.

Vinh Trí Kiện

Còn em trai ông – Vinh Minh Đệ (sinh năm 1983) – hiện điều hành Tập đoàn Long Nguyên Hồng Kông, kiêm Chủ tịch hiệp hội thương mại Vô Tích tại Hồng Kông.

Trong khi đó, con gái duy nhất của Vinh Trí Kiện là Vinh Minh Phương, tốt nghiệp Harvard và giữ nhiều vị trí quản lý trong tập đoàn CITIC.

Vinh Minh Phương

Ở Hồng Kông, Vinh Văn Úy – con gái Vinh Trí Hâm – trở thành gương mặt quen thuộc trong giới doanh nhân và thời trang, điều hành thương hiệu riêng và hoạt động tích cực trong các sự kiện xã hội.

Từ xưởng xay bột nhỏ ở Vô Tích cách đây hơn 130 năm đến khi trở thành biểu tượng của tầng lớp doanh nhân hiện đại, gia tộc họ Vinh đã nối dài cơ nghiệp qua 4 thế hệ, phá vỡ “lời nguyền không ai giàu ba đời”.

Thiên Kim / Theo: Thị Trường Tài Chính

"MỘT CHIẾC LÁ RỤNG BIẾT THU VỀ", LÁ RỤNG LÀ LÁ GÌ?

Để báo hiệu mùa thu đã đến, có một câu nói gọi là ‘nhất diệp tri thu’ nghĩa là chỉ cần một chiếc lá rụng cũng có thể cảm nhận được mùa thu đã đến. Câu này được dùng để so sánh với xu hướng phát triển của sự việc, cho thấy rằng chỉ qua những dấu hiệu nhỏ cũng có thể khiến người ta nhận ra. Vậy ‘diệp’ trong ‘nhất diệp tri thu’ thực sự là lá của cây gì?

Để báo hiệu mùa thu đã đến, có một câu nói gọi là ‘nhất diệp tri thu’ nghĩa là chỉ cần một chiếc lá rụng cũng có thể cảm nhận được mùa thu đã đến. (Ảnh minh họa: Shutterstock)

‘Diệp’ trong câu ‘nhất diệp tri thu’ chỉ đến lá của cây nào? Bởi vì những thành ngữ như vậy thường mang tính tổng quát, không chỉ định một sự vật cụ thể nào. Vậy lá trong ‘Một chiếc lá rụng biết thu về’ có thể là lá của cây dương, cây liễu, thậm chí là cây hạt dẻ, vì vậy, bất kỳ cây rụng lá nào cũng có thể mang lại cảm giác ‘biết thu về’.

‘Một chiếc lá rụng biết thu về’ là lá ngô đồng

Nguồn gốc của điển tích ‘nhất diệp tri thu’ được ghi chép trong cuốn Mộng Lương Lục thời Tống, trong đó có đoạn: “Vào ngày Lập Thu, quan Thái sử được giao nhiệm vụ trồng cây Ngô đồng dưới điện, để chờ đến khi đến giờ Lập Thu, quan Thái sử sẽ đứng dưới cây ngô đồng hô lên ‘Mùa thu đã đến’, và đúng lúc đó, lá ngô đồng sẽ rơi xuống một hai chiếc, để báo hiệu mùa thu”. Đoạn ghi chép này nói về việc các quan viên phụ trách thiên văn và khí tượng trong triều đình nhà Tống, vào thời điểm Lập Thu, sẽ đứng dưới cây Ngô đồng trong cung điện để thông báo với hoàng đế, và lá cây ngô đồng rơi đúng lúc như một nghi lễ chính thức báo hiệu mùa thu.


Vậy tại sao trong việc báo hiệu mùa thu lại không dùng cây liễu hay cây dương, mà lại chọn cây ngô đồng? Điều này là vì người xưa có một sự tôn kính đặc biệt đối với cây ngô đồng, từ lâu đã có câu nói ‘phượng hoàng phi ngô đồng bất tê’ có nghĩa là không phải cây ngô đồng chim Phượng hoàng sẽ không đậu. Cây ngô đồng trong mắt người xưa được coi là cây Thần, vì vậy việc lá ngô đồng báo thu sang được xem là điềm lành. Mang ngô đồng sánh với phượng hoàng, có thể thấy người xưa coi trọng nó thế nào! Trong tích Bá Nha-Tử Kỳ có nói, Bá Nha hỏi Tử Kỳ về xuất xứ của cây dao cầm, Tử Kỳ đáp: “Vua Phục Hy thấy 5 ngôi sao rơi xuống cây ngô đồng, rồi có chim phượng hoàng tới đậu, biết là cây quý, nên lấy gỗ làm thành loại nhạc cụ, bắt chước nhạc khí cung Dao Trì, gọi là dao cầm. Thân cây được chặt làm 3 đoạn, đoạn ngọn tiếng trong và nhẹ, đoạn gốc tiếng đục và nặng, chỉ có đoạn giữa là dùng được, đem ngâm giữa dòng nước chảy 72 ngày rồi phơi trong bóng mát đến khô mới có thể làm được…”

Ngay cả Tư Mã Quang cũng đã viết trong thơ rằng: ‘sơ văn nhất diệp lạc, tri thị cửu thu lai’ có nghĩa là vừa nghe một chiếc lá rụng, biết là thu đã đến rồi. Hay có câu ‘ngô đồng nhất diệp lạc, thiên hạ cộng tri thu’ có nghĩa là một lá ngô đồng rụng, ai cũng biết thu về.

Thực ra, từ thời Chiến Quốc, người xưa đã dùng cây Ngô đồng để đại diện cho mùa thu. Ví dụ, tổ phụ của nỗi buồn thu, Tống Ngọc, trong tác phẩm nổi tiếng của ông Cửu Biện đã viết: “Hoàng thiên phân chia bốn mùa, ta chỉ riêng buồn cho mùa thu tàn, sương trắng đã rơi trên cỏ mùa thu, lá Ngô đồng bắt đầu rụng xuống”.

Sau Tống Ngọc, các thi sĩ qua các thời kỳ cũng đã dùng cây Ngô đồng để biểu thị màu sắc mùa thu. Chẳng hạn, Lý Bạch có câu: “Nhân yên hàn quất tụ, Thu sắc lão ngô đồng” (Khói nhà ai làm lạnh quất và bưởi, Màu thu làm già cây ngô đồng). Vì vậy, cây ngô đồng không chỉ mang ý nghĩa tốt đẹp, mà còn như là biểu tượng cho vẻ đẹp mùa thu trong văn học. Hơn nữa, với việc được sử dụng trong nghi thức báo thu của triều đình, như vậy ‘diệp’ được nhắc đến trong ‘nhất diệp tri thu’ chỉ có thể là lá của cây ngô đồng.


Thời gian trôi qua nhanh chóng

Từ ‘nhẫm nhiễm’ trong câu ‘quang âm nhẫm nhiễm‘ (Thời gian trôi qua nhanh chóng) thực ra đại diện cho điều gì? Câu nói ‘Thời gian trôi qua nhanh chóng’ xuất phát từ một bài văn của Lý Thương Ẩn thời Đường, trong đó có câu: Thời gian trôi qua nhanh chóng, việc tiếp quản cũng thường xuyên xảy ra.

‘Nhẫm nhiễm’ dùng để miêu tả sự tươi tốt của cỏ cây, còn ‘nhẫm’ chỉ một loại cây gọi là ‘bạch tô’ (白苏), đây là một loại thuốc, tương tự như cây tía tô thường thấy, có một mùi hương đặc biệt và là loại cây sống và sinh trưởng trong 1 năm. Bạch tô (白苏) nảy mầm vào mùa xuân, ra hoa vào mùa hè, kết hạt vào mùa thu, và tàn lụi vào mùa đông. Do đó, người xưa đã dùng nó để miêu tả sự trôi qua có quy luật của thời gian, vì vậy mới có câu ‘quang âm nhẫm nhiễm’.

Lý Ngọc
Theo: trithucvn

VŨ LÂM LINH (雨霖鈴) - LIỄU VĨNH (柳永)


Vũ lâm linh

Hàn thiền thê thiết,
Đối trường đình vãn,
Sậu vũ sơ yết.
Đô môn trướng ẩm vô tự.
Lưu luyến xứ,
Lan chu thôi phát.
Chấp thủ tương khan lệ nhãn,
Cánh vô ngữ ngưng ế.
Niệm khứ khứ.
Thiên lý yên ba,
Mộ ái trầm trầm Sở thiên khoát.

Đa tình tự cổ thương ly biệt,
Cánh na kham,
Lãnh lạc thanh thu tiết!
Kim tiêu tửu tỉnh hà xứ?
Dương liễu ngạn,
Hiểu phong tàn nguyệt.
Thử khứ kinh niên,
Ưng thị lương thần,
Hảo cảnh hư thiết.
Tiện túng hữu thiên chủng phong tình,
Cánh dữ hà nhân thuyết?

Vũ lâm linh là tên nhạc khúc, còn viết là 雨淋鈴. Trương Dã Hồ 張野狐 giỏi thổi kèn, giốc, thiện đàn không hầu, làm trưởng Tham quân hý (lo việc mua vui trong quân đội). Trong loạn An Lộc Sơn, Dã Hồ theo Đường Minh Hoàng nhập Thục rồi lại cùng vua trở về kinh. Đường Minh Hoàng trên đường đi, nghe tiếng mưa trong rừng ngân như tiếng chuông bỗng nhớ Dương Quý Phi, sai Dã Hồ làm hai khúc Vũ lâm linh và Hoàn ai nhạc 還哀樂.


雨霖鈴 - 柳永

寒蟬淒切,
對長亭晚,
驟雨初歇。
都門帳飲無緒。
留戀處、
蘭舟催發。
執手相看淚眼,
竟無語凝噎。
念去去。
千里煙波,
暮靄沉沉楚天闊。

多情自古傷離別,
更那堪、
冷落清秋節!
今宵酒醒何處?
楊柳岸、
曉風殘月。
此去經年,
應是良辰。
好景虛設。
便縱有千種風情,
更與何人說?


Vũ Lâm Linh
(Dịch thơ: mailang)

Buồn sao lạnh tiếng ve than,
Trường Đình lấp loáng chiều tàn dần trôi.
Cơn mưa chợt dứt hạt rồi,
Đô thành rượu tiễn, không vơi giọt sầu.
Luyến lưu chẳng nỡ rời nhau,
Mà thuyền lan đã giục mau xa bờ.
Nghẹn nào biết nói chi giờ,
Dùng dằng tay nắm, đẫm mờ khoé mi.
Dặm ngàn khói sóng xa đi,
Mênh mông trời Sở, chiều khi đượm buồn.
Đa tình khóc biệt đã thường,
Còn thêm não cảnh thu sương lạnh tràn.
Tỉnh say nơi chốn mơ màng,
Bên bờ dương liễu, trăng tàn gió mai.
Lần đi cách biệt năm dài,
Ngày lành cảnh đẹp, bỏ hoài từ đây.
Phong lưu dẫu lắm vẻ hay,
Cũng không tỏ được lòng này cùng ai!


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Liễu Vĩnh 柳永 (khoảng 987 - khoảng 1053) tự Kỳ Khanh 耆卿, người huyện Kỳ An, tỉnh Phúc Kiến. Năng cải trai man lục nói: “Từ tự Nam Đường trở xuống, chỉ có tiểu lệnh. Mạn từ tới thời vua Tống Nhân Tông (1023-1062) trung nguyên thanh bình, Biện kinh phồn thịnh, ca đài vũ tạ, đua thưởng tân thanh. Kỳ Khanh lưu liên phường khúc, thu hết lời nói quê mùa, biên vào trong từ, cho người truyền lưu ca xướng, rồi sau có Thiếu Du và Sơn Cốc kế tiếp, nên man từ trở thành đại thịnh”. Hiện Liễu Vĩnh còn Nhạc chương tập 樂章集 3 quyển.

Nguồn: Thi Viện