Thursday, November 27, 2025

NHÂN LỄ TẠ ƠN Ở HOA KỲ, BÀN VỀ LAO ĐỘNG, KHỔ ĐAU VÀ CỨU RỖI

Lễ Tạ ơn (Thanksgiving) của người Mỹ bắt đầu từ năm 1621 để cảm tạ Trời Đất bởi dân di cư Âu châu mới sang vùng Bắc Mỹ, mong có đời sống mới nhiều tốt đẹp hơn. Ở giai đoạn đầu khi di dân Anh quốc sang vùng đất này, gà tây hoang dã là nguồn thực phẩm dễ kiếm và nhiều thịt.


Truyền thống gà tây cho ngày lễ

Khi Alexander Hamilton, một nhà sáng lập nước Mỹ, tuyên bố, "Không một công dân Mỹ nào từ chối ăn thịt gà tây vào ngày lễ Tạ ơn" thì con chim to lớn này đã trở thành con vật lễ nghi cho truyền thống Tạ ơn hằng năm vào ngày thứ Năm cuối tháng 11.

Thịt gà tây, nếu ai đã ăn qua, thực sự chẳng ngon lành tí nào. Nó lạt lẽo và rất là dễ ngán. Thành ra, người Mỹ nấu gà tây trong dịp này chẳng qua là một cái cớ để cho cả nhà cùng nhau lục đục, nấu nướng cho vui. Đây cũng giống như truyền thống nấu bánh tét, bánh chưng ở quê ta nhân dịp Tết đến, xuân về. Cái vui ở nơi nấu nướng mới là quan trọng hơn là hương vị thức ăn.

Ở xứ Cờ Hoa này, đối với dân di cư mới sang, ai ai cũng tối mặt, tối ngày lao động. Vì thế, ai cũng mong làm sao để biến công ăn việc làm như là một niềm vui, như là một cơ hội giải thoát ra khỏi sự nhàm chán trong cuộc sống.

Từ đó, ý nghĩa của cuộc sống nằm ở nghệ thuật biến lao động sinh nhai như là chuyện nấu nướng cho mâm cơm gia đình.

Từ Lao động đến Công việc

Điều huyền bí cuộc đời nằm ở chỗ chúng ta biết cách biến lao động (labor) thành công việc (work).

Ở cái thuở khi văn minh Tây phương chưa đi vào con đường hiện đại, con người hình như không có lao động và không bị lao khổ. Khi tôi lớn lên những năm 1960-70 giữa ruộng đồng miền Trung Việt, nhìn nghe dân gặt lúa hò vấn đáp giữa cánh đồng lúa chín, tôi cảm thấy người ta dung hòa và dâng hiến chính mình, cả ý thức và thân xác, vào công việc như là một sinh hoạt tôn giáo và tâm linh.

Mỗi tác hành cho công việc không làm lao tổn hay tiêu hao năng lực thể chất và tinh thần như là lao động ngày nay. Công việc đồng áng giữa thiên nhiên của người xưa không nhằm mục đích để xong việc mà nghỉ ngơi – mà chính trong công việc là sự nghỉ ngơi và giải trí.

Thuở đó, công việc chính là hành động nuôi nấng và dung dưỡng sự trở nên và sáng thành của thiên nhiên, của tạo hóa, cho mình, cho người, cho đời và cho Trời Đất.

Không thời biểu, không ngày giờ, thứ Hai, thứ Ba hay cuối tuần, thứ Bảy, Chủ nhật. Tất cả thời gian và ngày giờ được biến hóa và tan hòa vào công việc – như là hành động nấu nướng con gà tây cho chính mình và cho gia đình trong yêu thương.

Làm việc chính là giải nghiệp và cầu nguyện

Công việc, từ đó, là một sự góp tay trong nguyện cầu để thực tế được trở thành trong ý niệm của ta và của Trời Đất theo quy luật thiên nhiên.

Khi ta làm việc ta không cảm thấy "bị lao động," mà trái lại, làm việc là góp tay với Tạo Hóa để cho thế giới – và chính ta - được chuyển mình và tiến hóa về cái Đẹp, cái Đúng. Trong công việc ta hiện thân ra tính thể – working is being – mà bản chất con người trong ta sẽ quyết định cách thức làm việc và phẩm chất cho kết quả và thể tướng nơi sự vật tác thành.

Công việc là chuyện mở đường, chuyện thắp đuốc để khơi sáng ngọn đèn tâm thức – để biết mình là gì và qua đó để biết rõ hơn bản chất thiên nhiên, vũ trụ, thế gian qua những trở lực mà công việc gặp phải và vượt qua. Tùy vào xung tác từ ta mà thế giới phản lực ngược lại như thế nào. Đây là cả một nghệ thuật giao hưởng giữa cá nhân và thế giới.

Mỗi người khi theo đuổi công việc (worker) trở nên một nghệ sĩ nhằm chuyển hóa tính chất tiêu cực nơi kẻ lao tác (laborer) bằng nội dung tôn giáo ở sự việc. Họ trở nên một đạo sĩ dấn thân trong ý chí yêu thương thế gian này trước những trở lực của khó khăn và đau mệt thân thể (pain) mà không hề bị suy thoái xuống thành khổ đau (suffering).

Trong các trường phái tôn giáo bí truyền, công phu tu luyện chính là công việc – và được gọi đúng tên như vậy, the Work. Công việc là cơ hội và phương tiện tu học, để thử thách, để chuyển hóa cho tâm thức mình và cho thế gian – nhà Phật gọi là "giải nghiệp." Công việc chính là hành trang thư pháp (calligraphy), là nghi thức trà đạo, mà trong đó mục tiêu cho công việc chính là công việc chính nó.

Làm việc như vẽ tranh

Tầm quan trọng không phải là làm cái gì mà làm như thế nào. Điều này giải thích được lý do vì sao mà các trí thức khi về già lại càng muốn trở thành họa sĩ.

Niềm hạnh phúc trong khi vẽ tranh chính là sự hưng phấn từ cái Đẹp qua cử chỉ thân thể. Đây là một niềm cám dỗ nghệ thuật lạ lùng mà hầu hết những nhà văn hóa đều sẽ phải trải qua khi tuổi đã luống chiều. Vì sao vậy?

Ý chí sáng tạo và tác hành trong sự Thật nay đã biến thành một sự rút lui ra khỏi thế gian phức tạp nhằm nung ấm chính mình bằng ý chí đi tìm cái Đẹp đơn giản trong tranh. Nhưng điều này ít ai nghiệm ra và lý giải cho tri thức.

Người vẽ tranh khi về già chỉ cảm nhận được một nỗi vui sâu sắc và đơn giản khi vẽ – và chỉ có thế, họ không cần gì khác hơn. Khi lớn tuổi, kẻ trí thức, khi vẽ tranh, trở thành trẻ thơ lần nữa: Họ mang tinh thần tôn giáo hồn nhiên trong công việc như là đứa trẻ chơi đùa giữa ruộng nước bùn lầy.

Nhưng chính trong bùn lầy của đời sống và công việc mà biểu tượng Đạo lý cuộc đời được hiện thân. Người làm công việc khác với người lao động. Họ nhận thức ra tính cách biểu dấu (symbolic nature) cho sự việc và quy luật vật chất. Khi làm việc, hắn xây căn nhà hữu thể – the house of being – cho mình.

Khi căn nhà hoàn tất, hắn bước vào căn nhà – nói theo Harry Remde trong tiểu luận The House as Center – như là đi vào một biểu tượng của chính mình (When he enters this house, he enters a symbol of himself).

Nguồn hình ảnh,Getty ImagesChụp lại hình ảnh,Tổng thống Bill Clinton hoan hỉ nhận món quà Lễ Tạ ơn là một con gà tây từ Liên đoàn Gà tây Quốc gia vào năm 1996

Lao động, vô gia cư, khổ đau

Chính người làm việc tự tay xây căn nhà hữu thể, làm biểu tượng cho mình. Đó là hiện thân cái ta qua công việc. Ta phải ở trong căn nhà hữu thể này để được an trú, bởi vì nếu không thì chính ta sẽ trở thành vô gia cư.

Người làm việc là người ở trong nhà của mình; còn người lao động là người vô gia cư, hắn bị mất đi tính biểu tượng trong công việc – và hữu thể của hắn bị cuốn trôi theo nghiệp thức nơi chủ đích lao động. Đó là căn nguyên của khổ đau.

Khi con người có nghề, hắn sẽ bị nghiệp lôi kéo. Nhưng khi con người chỉ có việc làm như là công phu tu luyện – the Work – thì hắn sẽ được giải nghiệp. Người làm việc tìm ra được tinh hoa thế gian qua tác hành trong căn nhà hữu thể.

Mọi khó khăn, thô lậu trần thế sẽ trở thành than củi cho lò lửa luyện kim tinh thần như là trong bếp cơm ấm cúng giữa góc căn nhà, bạn cười to vang trong nhiệt độ lò lửa than hồng.

Khi tôn giáo và lễ nghi thay cho công việc

Khi công việc đã bị thoái hóa xuống tầm mức lao động thì hiện tượng tôn giáo duy hình thức và lễ nghi xuất hiện. Khi mà cái lễ, cái nghi nay không còn là của con người thường nhật trong công việc hằng ngày thì hắn phải tìm đến tôn giáo để khôi phục lại cho mình căn nhà tinh thần này.

Thượng đế từ đó bị khách quan và nhân thể hóa; thần linh đi về cõi khác; nhân cách con người bị hớp hồn vào hình thức trống rỗng. Hình thức cũng không còn mang ý nghĩa biểu tượng Đạo lý – mặc dù tôn giáo nặng hình thức nghi lễ là một nỗ lực phục hồi đạo lý trong lao động.

Cái Ta – ở nơi con người lao động – bị cái nghiệp trong mục tiêu thế gian cuốn trôi. Và tôn giáo là nơi đến cho những kẻ vô gia cư. Thánh nhạc, lời kinh trở nên niềm cứu độ tình trạng vô gia cư này của những con người có đầy nghề nghiệp.

Không ngạc nhiên gì mà nỗi khổ lớn nhất của con người thị thành khắp nơi là sự nhàm chán (boredom) và bệnh xuống tinh thần, trầm cảm (depression). Con người ngày nay càng bận rộn bao nhiêu họ càng cảm thấy trống rỗng và xuống tinh thần bấy nhiêu vì họ không tìm ra được ý nghĩa và hứng thú trong lao động.

Đây là bản án chung thân cho nhân loại bây giờ: Tất cả chúng ta đều là những kẻ nô lệ lao động cho thân xác, cho tự ngã. Ta chỉ mong sao được thoát ly ra khỏi tình trạng bận rộn quần quật bất tận vì nghề nghiệp.

Hãy nhìn tới khối nhân công lao động vô hồn trong các xưởng sản xuất khổng lồ từ Trung Quốc, Hoa Kỳ, đến Việt Nam, Nhật Bản. Đó là những khối nhân loại nô lệ thời đại.

Karl Marx từ thế kỷ 19 đã nhìn thấy vấn đề này và muốn đưa con người lao động ra khỏi cái mà Marx gọi là "vương quốc thiết yếu" (kingdom of necessity) để đến với "cõi tự do" (realm of freedom)(*).

Nhưng Marx lại cho sai thang thuốc. Thay vì cá nhân phải tự chuyển hóa trong công việc của mình, Marx muốn biến người cộng sản mang cơn đau đẻ cho sự chuyển bụng (labor) lịch sử bằng lao động cách mạng. Nhưng bài học này đã xong rồi.

Chuyển hóa là cứu rỗi

Maurice Nicoll, triết gia Anh, trong cuốn The Mark (Chủ đích) bàn về Tân Ước, viết, "Không ai có thể thoát ra khỏi chính mình ngoại trừ họ có một nơi nào đó để đi đến." Nicoll nói thêm, "Cá nhân không thể thay đổi mình ngoại trừ hắn đã có cái gì mới để mà vươn tới."

Con người không biết sống và lao động để làm gì, không biết đi về đâu, không biết bước đi trên mặt đất này theo hướng nào. Nó cũng giống như là người bắn cung mà tên bị hụt mục tiêu (missing the Mark). Con người khi hắn bước đi trên trái đất này bằng thái độ với công việc như thế nào sẽ quyết định mức tiến hóa cho mình.

Nicoll dùng chương Sáng thế ký (Genesis) trong Cựu Ước, câu chuyện của Lot, để giảng luận về ý nghĩa của muối. Khi Lot và vợ con khi đi đến thành phố Sodom(**), nơi rất sa đọa thân xác, có kẻ khuyên họ nên rời thành phố gấp trước khi nó bị ông Trời tiêu hủy. Nhưng Lot chần chừ.

Đến khi thiên thần hiện ra khuyên là ông ta và vợ con nên trốn "lên núi" (cõi cao) và đừng có "nhìn lui" (ám ảnh bởi quá khứ) thì mới thoát nạn – "Hãy để cho kẻ chết chôn chính họ" (Matthew 13) – Lot không dám lên núi mà chỉ muốn trốn vào thành phố nhỏ tên là Zoar. "Zoar" theo phương ngữ Trung Đông có nghĩa là "nhỏ nhặt, ti tiện". Sau đó, Sodom bị ông Trời tiêu hủy.

Nhưng vợ Lot, đứng đằng sau, quay nhìn lui lại Sodom và bà đã bị biến thành một cột muối. Lot sau đó trốn lên hang núi và loạn luân với hai con gái của mình để sinh ra thêm một thế hệ mới. "Cột muối" ở đây biểu tượng cho sự đông cứng, của sự chết, không còn khả năng sinh sản – và cũng mang ý nghĩa cứu rỗi, chuyển hóa.(***)

Nguồn hình ảnh,Getty ImagesChụp lại hình ảnh,Hình ảnh một gia đình Mỹ với món gà tây trong Lễ Tạ ơn hồi thập niên 1960

Chàng Lot trong mỗi chúng ta

Lot là mẫu người bình thường trong mỗi chúng ta vốn chỉ biết trốn chạy vào cái nhỏ nhặt để quên đi mục tiêu to lớn của cuộc đời: Chuyển hóa chính mình.

Từ trong "Zoar" – tức là vì cái nhỏ nhặt, ti tiện – mà ta tự gia tăng, quan trọng hóa chính mình qua say mê và ái dục – như là Lot bị hai đứa con gái phục rượu cho say để mà loạn luân trong hang núi.

Khi bạn rắc muối lên thịt gà tây, khi bạn nhai và nuốt vào bụng, muối sẽ giúp chuyển hóa thức ăn thành ra máu huyết, tức là Tinh Thần. Nếu không có muối, gà tây vẫn là gà tây khi ăn vào bao tử, ta sẽ bị bội thực, như là Lot loạn luân với con gái khi không còn vợ vì con gái muốn có con nối tiếp chính mình.

Thành ra bạn thấy đó: Mọi chuyện, mọi thứ trên đời – kể cả thân xác của chúng ta – đều là của biểu tượng cho một ý nghĩa huyền bí. Hãy nhìn cuộc đời cứ như là chuyện nấu nướng con gà tây – con vật tượng trưng cho ngu dốt, vụng về – trong dịp Thanksgiving này.

Trong tinh thần ơn nghĩa, trong cung cách ngôn từ, nơi hình thức, thái độ và tư cách của những người tham dự trong bếp núc mới là cái chính – chứ không phải là thịt con gà tây khi nấu xong.

Không ai nghĩ rằng khi cả nhà cùng nhau nướng gà tây thì đó là "lao động" cả – mặc dù công việc cũng rất là mất công và mệt nhọc.

Vì đây là lúc mà chúng ta thấy cái lớn, cái ân đức trong tình nghĩa gia đình, trong công việc bếp núc bình thường – thay vì như thường nhật, chúng ta vẫn có thói quen chạy trốn vào cái bé nhỏ, vay mượn cái hẹp hòi, chật chội thay cho mục tiêu lớn của cuộc đời.

Cho một văn minh tinh thần mới

Như Simon Weil, nữ triết gia Pháp, có lần đã nhận xét, "Công tác của thời đại chúng ta là kiến tạo một nền văn minh khai sinh trên nền móng tinh thần của công việc" để giải quyết vấn nạn khổ đau cho dân lao động.

Tức là ở điều mà Jean K.Martine nói: Mỗi con người qua công việc, đang sống một cuộc đời hai mặt. Một mặt từ thế giới hiển nhiên; mặt kia nằm trong bí ẩn, chờ đợi.

Theo đó thì tất cả những tác hành cho cuộc sống hằng ngày tạo ra một sự rung động tương ứng ở cõi vô hình – và chỉ khi nào sự rung cảm ở hai cõi hữu và vô này được đồng nhịp thì con người mới thực sự được hạnh phúc.

Mong các bạn Mỹ gốc Việt hãy vui thú để cùng nấu nướng và chia sẻ với gia đình con gà tây thứ Năm tuần này. Chỉ có trong tình yêu nối liền cái hữu của thức ăn với cõi vô hình của tấm lòng chân tình biết đến ơn nghĩa với người thân và cuộc đời, với Trời Đất, thì bạn mới tìm ra hạnh phúc.

Happy Thanksgiving! Chúc bạn sức khỏe và bình an!

  • Nguyễn Hữu Liêm là tác giả nhiều sách và tiểu luận triết học hiện sống ở San Jose, California.
---

(*) Tư bản luận, Vol 3.

(**) Tên thị trấn Sodom – thành phố nhiều cư dân đồng tính nam – là ngữ gốc của từ sodomy.

(***) Tân Ước – Matthew 5:13: "Bạn là muối của địa cầu." Từ salt (muối) cùng ngữ gốc với saliva (nước miếng)salvation (cứu rỗi). Sal là chuyển hóa. Nước miếng và muối giúp chuyển hóa thức ăn thành máu (tinh thần). "Cứu rỗi" chính là sự chuyển hóa cái thô lậu sang năng lực tinh thần thanh thoát.Nguyễn Hữu Liêm

Gửi cho BBC News Tiếng Việt từ San Jose, California, Hoa Kỳ
Theo: BBC Tiếng Việt (26/11/2025)



THẤT BẠI Ở ĐỜI CHÍNH LÀ CỐ GẮNG LÀM VỪA LÒNG TẤT CẢ MỌI NGƯỜI


Sống trên đời, nếu dành hết tâm trí mình để quan sát thái độ người khác, từ đó nương theo mà hành xử, chiều lòng họ, thử hỏi cuộc đời bạn có còn ý nghĩa gì? Khi ấy, phải chăng là bạn đang sống hộ người khác, phải chăng là muốn trao vận mệnh của mình cho kẻ khác?

Kỳ thực, mỗi cá nhân sinh ra đều có vận mệnh khác nhau, đều là những cá tính tự ngã khác nhau, có lòng tự tôn và nguyên tắc sống riêng biệt. Nếu chỉ biết chạy theo làm đẹp lòng người khác, chẳng phải bạn đã đánh mất đi giá trị, phẩm chất của mình rồi sao?

Bởi vậy, người xưa nói: “Vạn sự bất cầu nhân” (ý nói những chuyện trên đời này đừng nên mong cầu vào người khác). Khi cố lấy lòng người khác, chẳng phải là bạn cũng đang muốn được họ chiếu cố đến mình đó sao? Thực tế đã chỉ ra rằng điều này là hoàn toàn viển vông.

Cuộc đời và vận mệnh phải do chính mình nắm giữ và an bài. Sống tự tin, khẳng khái, hướng thiện, bao dung, rồi bạn sẽ có được tất cả những gì đáng có, rồi bạn sẽ chẳng phải nhờ vả, cậy cục, núp bóng ai. Đạo lý chỉ đơn giản như vậy.


Cố gắng lấy lòng người khác còn có một nguyên nhân nữa: Sợ bị tẩy chay, thù ghét nên cố làm bạn với tất cả. Công bằng mà nói, bạn không thể mong ở đời không có kẻ thù ghét mình, gây khó dễ cho mình. Cha mẹ, bạn bè, người thân có thể yêu thương bạn vô tư, chẳng toan tính. Nhưng đồng nghiệp, đối thủ đôi khi vẫn có thể căm hận bạn dù bạn chẳng làm gì sai.

Cuộc sống muôn vẻ, muôn màu là vậy. Có người ưu ái bạn thì cũng có kẻ gièm pha bạn. Có người tôn trọng bạn lại cũng có kẻ coi bạn bằng nửa con mắt mà thôi. Bởi thế, dẫu cố gắng đến đâu, nhọc lòng thế nào bạn cũng chẳng thể làm vừa lòng tất cả, chẳng thể đảm bảo rằng mình không còn bị ai thù ghét.

Nếu có ai đó thù ghét, cay độc, mỉa mai, chế giễu mình, bạn hãy luôn nhớ rằng: Trong miệng người khác, bạn không phải là con người bằng xương bằng thịt. Đã là như vậy, tại sao bạn còn phải thấy thống khổ, còn phải thấy mất mặt vì những lời đàm tiếu xung quanh? “Cây ngay không sợ chết đứng”, người quân tử thường để ngoài tai lời ong, tiếng ve của kẻ tiểu nhân.

Chỉ cần giữ được phong thái cao, mọi sự tình bên ngoài đều không thể làm bạn khó xử. Cổ nhân nói ấy là cái: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” (nghĩa là lấy cái bất biến của tâm mình mà ứng xử với sự biến hoá của cuộc đời).


Vả chăng, nếu nghĩ thật sâu, có thể nhận ra rằng, bạn là tốt hay xấu hoàn toàn không thể dựa vào một lời nói bâng quơ của ai đó. Người ta nói bạn xấu, chắc gì bạn đã xấu. Còn khi họ khen bạn thật tốt, ai có thể khẳng định bạn hoàn mỹ đến thế đây?

Cặp mắt thịt của con người chỉ nhìn thấy thân thể bề ngoài, đôi khi đánh giá tốt xấu, đúng sai cũng chỉ là “trông mặt mà bắt hình dong”. Chẳng ai có thể nhìn thấu nội tâm và vẻ đẹp thẳm sâu bên trong của bạn. Có phải như vậy không?

Cuối cùng, bạn hãy luôn ghi nhớ:


Làm người không cầu rằng ai cũng thích mình, chỉ cần bạn luôn chất phác, bao dung, lương thiện. Làm việc không cần phải giải thích để tất cả hiểu, chỉ cần bạn tận tâm nỗ lực là đủ rồi! Vậy mới hay:

Nhân sinh vạn thuở mải ganh đua
Quay cuồng một kiếp cố được thua
Trăm năm ánh chớp qua như mộng
Mới hay thế sự thảy trò đùa.

Theo: ĐKN

HOÀNG CHÂU HÀN THỰC THIẾP - TÔ THỨC


Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp

Tự ngã lai Hoàng Châu,
Dĩ quá tam hàn thực,
Niên niên dục tích xuân,
Xuân khứ bất dung tích.
Kim niên hựu khổ vũ,
Dữ nguyệt thu tiêu sắt.
Ngọa văn hải đường hoa,
Nê ô yến chi tuyết.
Ám trung thâu phụ khứ,
Dạ bán chân hữu lực.
Hà thù bệnh thiểu niên,
Bệnh khởi đầu dĩ bạch.


黄州寒食帖

自我來黃州
已過三寒食
年年欲惜春
春去不容惜
今年又苦雨
兩月秋蕭瑟
臥聞海棠花
泥污燕支雪
闇中偷負去
夜半真有力
何殊病少年
病起鬚已白


Hoàng Châu Hàn Thực Thiếp
(Dịch thơ: yeuhannom)

Từ ngày tôi đến hoàng châu
Hàn thực ba tết qua mau mất rồi
Tháng ngày chỉ tiếc Xuân thôi
Xuân đi mà chẳng một lời luyến lưu
Năm nay liên tục mưa rào
Hai tháng hiu hắt gió gào Thu phai
Nằm nghe thấy, Hải Đường rơi
Phấn hoa như tuyết lại vùi bùn thâm
Tựa như tên trộm âm thầm
Nửa đêm cưỡng đoạt sức thân chống gì
Khác đâu tuổi trẻ bệnh suy
Đến khi bệnh dậy đầu thì bạc phơ


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.

Theo: yeuhannom



SÚP RẮN - MÓN ĂN SƯỞI ẤM NGÀY ĐÔNG BUỐT GIÁ

Loại súp đặc biệt này không phải thứ thích hợp với mọi du khách. Tuy nhiên, nhiều người đã thử và ấn tượng với nó.


Trong tiếng Quảng Đông, súp rắn có tên là "se gang" (蛇羹). Một bát súp rắn có chứa tới 5 loại thịt rắn khác nhau, gồm rắn hổ mang Trung Quốc, rắn cạp nia, rắn ráo, rắn sọc dưa và rắn lục mũi hếch. 2 loài đầu tiên có độc còn 3 loài còn lại không có.


Người Quảng Đông có một câu nói: "Khi gió thu nổi lên, 3 con rắn béo múp". Câu này ý chỉ 3 con rắn đầu tiên trong danh sách ăn rất nhiều trước khi ngủ đông. Do đó, chúng giàu dinh dưỡng nhất vào giai đoạn này. Cũng vì thế, món súp rắn rất phổ biến vào mùa thu, đông.


Súp rắn được chuộng ở vùng Đông Nam của Trung Quốc. Người dân ở đây sống gần biển. Gió biển khiến họ thường bị đau nửa đầu, viêm khớp. Súp rắn hay những món ăn từ rắn khác giúp bồi bổ cơ thể, ngừa cảm cúm và kéo dài tuổi thọ. Súp rắn luôn được xem là một trong những món đặc biệt nhất. Nó đã xuất hiện và được lưu truyền hàng thế kỷ.


Nơi có món súp rắn ngon nhất là Hong Kong (Trung Quốc). Các nhà hàng kinh doanh thịt rắn ở đây được gọi là "se wong" (tạm dịch: vua rắn). Một số món khác cũng được yêu thích là da rắn hầm, thịt rắn chiên, súp mật rắn tươi...


Về súp rắn, món này ngon nhất khi được làm tại chỗ. Tức là, khi khách yêu cầu, người chủ mới làm thịt rắn để bát súp luôn tươi, ngon. Thông thường, các nhà hàng sẽ giữ chúng trong hộp gỗ vì đây là môi trường khô ráo, lý tưởng nhất. Một điều lưu ý là không được đặt rắn hổ mang Trung Quốc chung với những con khác. Rắn hổ mang Trung Quốc được xem như vua và nó sẽ ăn các con khác.


Chính phủ khuyến nghị các cơ sở kinh doanh nên cho con rắn ngủ trước khi chặt đầu. Đây là một hành động nhân đạo. Sau đó, đầu bếp sẽ gỡ xương của nó ra. Rắn có từ 200 đến 400 đốt sống với nhiều xương sườn. Sau khi bỏ xương, người ta xé thịt thành từng miếng mỏng. Bên cạnh thịt rắn, món súp phải có thêm nấm đông cô, thịt gà và măng (đôi khi có thêm bong bóng cá).


Không chỉ thịt, mọi phần của con rắn đều được sử dụng để tránh lãng phí. Theo những đầu bếp Trung Quốc, mọi bộ phận của rắn đều bổ dưỡng. Phần tốt nhất là túi mật - thứ được dùng để làm rượu. Vào trước những năm 1980, thịt rắn là thứ xa xỉ không phải ai cũng có thể ăn. Thời điểm này, các thầy kinh kịch Quảng Đông thường ăn mật rắn trước buổi diễn để tăng cường năng lượng, cải thiện giọng nói.


Món súp rắn truyền thống được làm từ hỗn hợp 2 loại súp. Đầu tiên là loại nước dùng cơ bản làm từ giăm bông, thịt gà, ninh trong 6 giờ. Loại súp còn lại gồm xương rắn, vỏ quýt phơi khô, cùi nhãn, chà là, mía, gừng - nấu trong 4 giờ. Cuối cùng, họ thêm đậu phụ lên men và lá chanh khô để tăng độ giòn, loại bỏ mùi tanh của rắn.


Hiện nay, công thức này được xem là quá cầu kỳ. Một số nhà hàng cao cấp vẫn làm theo công thức này. Nhiều nhà hàng khác lại đơn giản hóa công thức bằng cách nấu chung thịt lợn và xương rắn trong một giờ. Doanh số bán hàng súp rắn trong mùa đông rất cao. Một số nhà hàng có thể bán tới 700-1.000 bát/ngày.

Theo: vivunow.com



TEM PHIẾU THỰC PHẨM Ở MỸ CÓ TỪ BAO GIỜ?

Chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ ra đời vào thời kỳ Đại Suy Thoái, được thiết kế để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp Mỹ.


Chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ được triển khai vào thời điểm nước này đang phải đối mặt với một nghịch lý bi thảm: Trong khi hàng triệu người Mỹ phải chịu đựng nạn đói trong thời kỳ Đại Suy Thoái, nông dân nước này lại bị dư thừa sản phẩm vật nuôi và cây trồng, khiến giá nông sản giảm mạnh.

Nguyên nhân là nền kinh tế sụp đổ những năm 1930 làm suy yếu sức mua của người tiêu dùng thực phẩm.

Để tạo ra sự khan hiếm nhân tạo và đẩy giá lên cao, Bộ Nông nghiệp Mỹ dưới thời Tổng thống Franklin D. Roosevelt ban đầu trả tiền cho nông dân để họ cày bỏ ruộng và giết lợn. Tuy nhiên việc phá hủy lương thực vào thời điểm rất nhiều người đói bụng đã gây ra sự phẫn nộ, khiến Tổng công ty Hàng hóa Dư thừa Liên bang (FSCC), một cơ quan thuộc chương trình Chính sách Kinh tế Mới của Mỹ được thành lập năm 1933, phải mua lại lương thực dư thừa và phân phối trực tiếp cho người nghèo với chi phí thấp hoặc miễn phí.

Chương trình tem phiếu thực phẩm của Mỹ ra đời vào thời kỳ Đại Suy Thoái, được thiết kế để hỗ trợ nông dân và doanh nghiệp Mỹ.

Tuy nhiên, sáng kiến ​​này đã làm giảm doanh thu của các cửa hàng tạp hóa và bán buôn thực phẩm, những người phàn nàn về sự can thiệp của chính phủ và cạnh tranh không lành mạnh trên thị trường.

Đối mặt với ba vấn đề: dư thừa nông sản, doanh số bán hàng yếu kém ở các cửa hàng tạp hóa và người dân đói khổ trong bối cảnh tỷ lệ thất nghiệp lên tới 17%, FSCC hy vọng những tờ giấy vuông nhỏ xíu có thể giải quyết được vấn đề nan giải của mình. Rochester, New York, sau đó trở thành địa điểm cho một thí nghiệm kinh tế mới do chính phủ điều hành.

Phiếu thực phẩm ra mắt

Sáng 16/5/1939, các viên chức FSCC hồi hộp dõi theo khi họ mở cửa bưu điện cũ tại Rochester để triển khai biện pháp cứu trợ mới nhất của nước này.

Trong khi các phóng viên báo chí và nhiếp ảnh gia tranh giành vị trí để ghi lại khoảnh khắc lịch sử đang hình thành, người đầu tiên trong hàng tiến đến quầy thu ngân. Ralston Thayer, một thợ máy 35 tuổi, người đã thất nghiệp gần một năm, đưa cho nhân viên thu ngân 4 USD từ trợ cấp thất nghiệp mới nhất của mình và nhận lại 4 USD tem màu cam cùng với 2 USD tem màu xanh miễn phí.

Dựa trên thành công ban đầu, chương trình tem phiếu thực phẩm đã được triển khai đến các thành phố thí điểm khác và mở rộng đến một nửa số quận trên toàn nước Mỹ.

"Phiếu thực phẩm" màu cam có thể được đổi tại bất kỳ cửa hàng tạp hóa nào trong số 1.200 cửa hàng tạp hóa tham gia chương trình tại Rochester, để lấy bất kỳ hàng hóa nào trên kệ, trong khi tem màu xanh chỉ có thể được sử dụng để mua các mặt hàng nông sản dư thừa như bơ, trứng, mận khô, bột mì, cam, bột ngô và đậu.

Người bán hàng tạp hóa có thể đổi phiếu thực phẩm lấy tiền mặt tại các ngân hàng thương mại và văn phòng FSCC.

“Tôi chưa bao giờ nhận được thực phẩm dư thừa trước đây, nhưng thủ tục có vẻ khá đơn giản và tôi chắc chắn sẽ tận dụng nó”, Thayer nói với các phóng viên.

Trong suốt cả ngày, khoảng 2.000 cư dân Rochester đã tiếp bước Thayer. Cứ mỗi 1 USD mua tem cam, họ sẽ nhận được 50 xu tem xanh miễn phí, nhờ đó sức mua của họ tăng thêm 50%. Chiều hôm đó, hàng loạt khách hàng đổ xô đến các cửa hàng tạp hóa ở Rochester với những tập tem cam và xanh mới cứng trên tay.

Những người nhận tem thực phẩm đã chấp thuận chương trình mới, cho phép họ có nhiều lựa chọn hơn về thực phẩm, ngoài những mặt hàng dư thừa do chính phủ phân phát. “Giờ đây, chúng tôi sẽ có được thực phẩm tốt nhất”, một phụ nữ nói với tờ Rochester Democrat and Chronicle. “Chúng tôi có thể tự chọn những mặt hàng dư thừa này thay vì lấy những gì họ cho chúng tôi".

Các cửa hàng tạp hóa ở Rochester cũng được hưởng lợi. Một số người đã thu được 50.000 USD vào ngân quỹ của họ trong bốn ngày đầu tiên của chương trình.

“Tôi đã hết sạch bột mì khi cơn sốt tem bắt đầu”, chủ cửa hàng tạp hóa Joseph Mutolo nói với các quan chức FSCC khi ông trở thành nhà bán lẻ đầu tiên đổi tem. “Điều đó chắc chắn khác với ngày xưa khi bạn cho không thực phẩm tại các kho thực phẩm lớn. Khi đó, khi bạn cho không bột mì hoặc bơ, không bán được gì. Giờ đây, dường như tôi không còn dự trữ nữa".

Dựa trên thành công ban đầu, chương trình tem phiếu thực phẩm đã được triển khai đến các thành phố thí điểm khác và mở rộng đến một nửa số quận trên toàn nước Mỹ.

Người Mỹ đủ điều kiện có thể mua từ 1 đến 1,5 USD tem cam hàng tuần cho mỗi thành viên trong gia đình. Chương trình đã nuôi sống 20 triệu người Mỹ cho đến khi bị ngừng vào năm 1943 khi các biện pháp kích thích kinh tế do Thế chiến II mang lại đã làm giảm tỷ lệ thất nghiệp và tình trạng dư thừa mùa màng.

Bắt đầu từ năm 1990, thẻ chuyển tiền trợ cấp điện tử, tương tự như thẻ ghi nợ liên kết với tài khoản trợ cấp, đã thay thế tem phiếu thực phẩm giấy.

Tem phiếu quay lại nhiều lần

Tổng thống John F. Kennedy đã bị sốc trước cảnh nghèo đói mà ông chứng kiến ​​ở Tây Virginia trong cuộc bầu cử của Đảng Dân chủ năm 1960. Trong chiến dịch tranh cử sơ bộ, ông dự kiến khôi phục chương trình tem phiếu thực phẩm dưới dạng thí điểm. Đó trở thành một trong những hành động đầu tiên của ông sau khi nhậm chức vào năm 1961.

Về sau, mặc dù người nhận vẫn phải trả tiền cho tem phiếu thực phẩm, nhưng các loại tem phiếu đặc biệt dành cho hàng hóa dư thừa bị bãi bỏ. Đạo luật Tem phiếu Thực phẩm năm 1964, được Tổng thống Lyndon B. Johnson ký thành luật vào ngày 31/8/1964, đã hệ thống hóa và mở rộng chương trình này. "Kế hoạch tem phiếu thực phẩm sẽ là một trong những vũ khí quý giá nhất của chúng ta trong cuộc chiến chống đói nghèo", ông Johnson tuyên bố tại lễ ký kết.

Mặc dù được khởi xướng bởi các tổng thống Đảng Dân chủ, chương trình tem phiếu thực phẩm đã chứng kiến ​​sự mở rộng lớn nhất dưới sự lãnh đạo của một tổng thống đảng Cộng hòa, Richard Nixon. Trong suốt nhiệm kỳ tổng thống của Nixon, chương trình tem phiếu thực phẩm tăng gấp năm lần, từ 3 triệu người nhận vào năm 1969 lên 15 triệu người vào năm 1974.

Chương trình tem phiếu thực phẩm tiếp tục nhận được sự ủng hộ của lưỡng đảng trong những năm tiếp theo. Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hòa Bob Dole và Thượng nghị sĩ Đảng Dân chủ George McGovern đi đầu trong việc thông qua Đạo luật Cải cách Tem phiếu Thực phẩm năm 1977. Đạo luật này đã củng cố các điều khoản chống gian lận và loại bỏ yêu cầu người nhận phải mua phiếu tem phiếu thực phẩm.

Tem phiếu thực phẩm màu cam và xanh từ năm 1939. Với mỗi đô la tiền mặt, một người thất nghiệp sẽ nhận được 1 đô la tem màu cam và 50 xu tem màu xanh.

Tem phiếu Thực phẩm Điện tử SNAP

Bắt đầu từ năm 1990, thẻ chuyển tiền trợ cấp điện tử, tương tự như thẻ ghi nợ liên kết với tài khoản trợ cấp, đã thay thế tem phiếu thực phẩm giấy. Biện pháp này tiếp tục giảm thiểu gian lận, vì người nhận không còn có thể bán tem phiếu thay vì sử dụng chúng để mua thực phẩm. Cùng với việc loại bỏ tem phiếu thực phẩm giấy, chương trình đã đổi tên thành Chương trình Hỗ trợ Dinh dưỡng Bổ sung (SNAP) vào năm 2008.

Chương trình SNAP phục vụ trung bình 41,7 triệu người Mỹ mỗi tháng vào năm 2024. Các nhà sản xuất và bán lẻ thực phẩm cũng tiếp tục được hưởng lợi.

Nhà phân tích Michael Lasser của UBS ước tính rằng Walmart có được khoảng 4 phần trăm doanh số bán hàng tại Mỹ từ việc mua tem phiếu thực phẩm vào năm 2018. Theo dữ liệu phân tích mua hàng từ năm 2025, Walmart chiếm khoảng 24 phần trăm chi tiêu của hộ gia đình tham gia SNAP - điều này nhấn mạnh mối quan hệ giữa hỗ trợ thực phẩm và các chuỗi bán lẻ thực phẩm lớn.

Phương Anh / Nguồn: History.com
Link tham khảo:




Wednesday, November 26, 2025

5 ĐẶC ĐIỂM CỦA NGƯỜI "PHÚC MỎNG", MONG RẰNG BẠN KHÔNG CÓ LẤY MỘT ĐIỀU

Thiện – ác đều có báo, mọi sự đều có nhân quả. Vận mệnh của một người tốt hay xấu đều là do chính mình tạo ra, không thể trách ai khác. Một người mệnh khổ, phúc mỏng, đa phần mang 5 đặc điểm dưới đây. Nếu biết soi lại bản thân, nhận ra sai mà sửa, thì vẫn có thể thay đổi vận mệnh cả đời; còn nếu không, cuối cùng chỉ có thể rơi vào cảnh đường cùng bế tắc.

5 đặc điểm của người “phúc mỏng”, mong rằng bạn không có lấy một điều

1. Tự cao, luôn nhìn vào khuyết điểm của người khác

Có người tự cho mình hơn người một bậc, chẳng những khinh thường người khác, mà hễ người ta vừa mở miệng, họ liền thích lập tức phản bác, chỉ ra lỗi lầm của đối phương, khiến người ta khó xử. Nhưng với khuyết điểm của chính mình thì lại cực kỳ bao dung, không cho ai góp ý. Kết quả chỉ khiến bản thân kết oán với người, trở thành kẻ tự cao tự đại kiểu “dã lang dạ lang”. Phản bác người khác, ngoài việc cho thấy tu dưỡng của mình chưa đủ, xét ở góc độ khác, cũng chính là đang hạ thấp bản thân.

Vận mệnh một người xấu đi, thường là vì cái miệng không tốt. Luôn thích nói những lời tiêu cực, rồi tự hành vi của mình cũng bị ảnh hưởng theo, vận mệnh tự nhiên ngày càng khổ.

2 Tham lam

“Lòng người không đủ như rắn nuốt voi.”

Người tham lam, dù có bạc vạn đầy nhà cũng chẳng biết đủ, vẫn cảm thấy mình khổ mệnh. Làm người phải biết đủ thì mới thường vui; người không biết đủ, cuối cùng thường rơi vào bẫy lợi ích, càng tham thì lại càng chìm sâu.

Người tham lam, dù có bạc vạn đầy nhà cũng chẳng biết đủ, vẫn cảm thấy mình khổ mệnh. Ảnh internet.

3. Thích so bì

Có người lòng so đo rất nặng, luôn ganh tỵ khi thấy người khác hơn mình. Nhưng thực tế, ai cũng đều “kém hơn người này, lại hơn người kia”, đời người vốn không tệ đến vậy.

Người thích so bì thường cũng là người có tấm lòng rất hẹp hòi, không chịu nhìn thấy người khác tốt hơn mình. Khi nhận ra khoảng cách giữa mình và người khác, họ không thể tĩnh tâm suy xét, cũng không chịu khiêm tốn học ưu điểm của người ta. Những người như vậy có khi vốn dĩ mệnh cũng không đến mức quá khổ, nhưng vì lòng dạ hẹp hòi, không dung được người, nên phúc báo ngày càng cạn kiệt.

4. Sĩ diện

Xã hội ngày nay tràn ngập chủ nghĩa vụ lợi, nhiều người cho rằng muốn thành công thì phải sĩ diện và “mặt dày”. Khi một người sống chỉ vì sĩ diện, họ buộc phải làm vừa lòng người khác, trở thành kẻ muốn lấy lòng tất cả, cho rằng có như vậy người khác mới nói mình tốt. Nhưng thực tế, những lời hay ý đẹp người ta nói với mình đa phần đều là lời giả lược, chỉ dễ nghe chứ chẳng chân thật mấy.

Người sĩ diện cũng không dám đường hoàng mà đối đãi với người khác; khi bị ức hiếp, cũng chỉ biết nín nhịn nuốt giận. Cũng vì sĩ diện, nên lúc giao tiếp với bạn bè, người thân, họ thường thích tỏ ra rộng rãi, luôn muốn cho người khác được lợi, nhưng lại không biết từ chối đúng lúc, khiến cuộc sống của chính mình càng ngày càng vất vả.

4. Dễ nổi nóng, dễ bực bội

Người không thể tĩnh tâm thì tâm trạng dễ bồn chồn, dễ bị cơn giận chi phối. Chỉ cần gặp việc không vừa ý, họ liền bực bội khó chịu, vì nóng nảy mà không thể nhìn nhận mọi việc một cách lý tính, càng không thể nghĩ trước nghĩ sau.

Người không thể tĩnh tâm thì tâm trạng dễ bồn chồn, dễ bị cơn giận chi phối. Ảnh internet.

Loại người này vì dễ bốc đồng mà đánh mất lý trí, nên khi làm việc rất dễ mắc sai lầm; vừa sai, tính khí lại nổi lên, càng khiến họ thêm hấp tấp. Lâu dần tạo thành vòng luẩn quẩn: hiệu quả công việc giảm sút, các mối quan hệ cũng trở nên tệ hại, xung đột và mâu thuẫn với người khác tăng lên. Những phiền não do chính mình gây ra ngày càng nhiều, cuộc đời lại càng kém yên bình.

Những ai có các đặc điểm trên nhất định phải sửa đổi những tính xấu ấy, như vậy mới không làm tiêu hao trước phần phúc báo mà mình đang có.

Khai Tâm biên dịch
Theo: vandieuhay

XÍCH BÍCH HOÀI CỔ - TÀO TUYẾT CẦN


Xích Bích hoài cổ

Xích Bích trần mai thuỷ bất lưu,
Đồ lưu danh tính tải không chu.
Huyên điền nhất cự bi phong lãnh,
Vô hạn anh hồn tại nội du.


赤壁懷古

赤壁塵埋水不流
徒留名姓載空舟
喧闐一炬悲風冷
無限英魂在內遊


Xích Bích hoài cổ
(Dịch thơ: Vũ Bội Hoàng)

Xích Bích sông kia nước chẳng trôi,
Truyền trơ tên họ chở đi thôi.
Ầm ầm gió thảm theo làn khói,
Biết mấy hồn thiêng quẩn đấy rồi.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tào Tuyết Cần 曹雪芹 (4/4/1710 - 10/6/1765) là một tiểu thuyết gia vĩ đại người Trung Quốc, tác giả của cuốn tiểu thuyết Hồng lâu mộng, một trong tứ đại kỳ thư của văn học cổ điển Trung Quốc.

Gia đình thế hệ trước của Tào Tuyết Cần là một gia đình quan lại thuộc tầng lớp đại quý tộc thời nhà Thanh Trung Quốc. Từ đời tổ đến đời cha của ông đã thay nhau giữ chức “Giang ninh chức tạo” là một chức quan to thu thuế trong triều đình. Năm lần vua Khang Hy tuần du phương Nam thì bốn lần ở lại nhà họ Tào. Ông nội ông là Tào Dần, một nhà văn xuất sắc vùng Giang Ninh. Đến đời của ông tất cả sự giầu sang quyền quý của gia đình đã trở thành quá khứ. Gia đình ông bị mắc nạn. Ông sống trong nghèo khổ, phải đưa gia đình đi khắp nơi để mưu sinh. Mười năm cuối đời ông đã dồn toàn bộ tâm huyết và tinh thần vào để tạo nên kiệt tác Hồng lâu mộng.

Nguồn: Thi Viện