"Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc áng trăng vàng đổ đi?"
Tôi vẫn thường nghe thầy cô tôi dạy văn chương truyền khẩu, ca dao là những câu thơ, lời nói mộc mạc hay văn hoa của người dân thường hay các văn nhân thi sĩ phản ảnh đúng hay tạo cảm xúc cho người nghe được truyền đi truyền lại và trở thành vốn liếng chung của mọi người. Các thầy cô trưng dẫn hai câu thơ của thi sĩ Bàng Bá Lân làm ví dụ:
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi.
Quả thực không có gì vinh dự cho người nào bằng những lời nói, câu văn, câu thơ được chấp nhận như một tài sản quý báu của dân tộc như bài Nam Quốc Sơn Hà của Lý Thường Kiệt hay bài Hịch Tướng Sĩ của Trần Quốc Tuấn, Bình Ngô Đại Cáo của Lê Lợi hay hai câu thơ trên của Bàng Bá Lân.
Nhà thơ Bàng Bá Lân nguyên họ Nguyễn Xuân, mới đổi sang họ Bàng được ba đời nay, sinh năm 1912, tại phố Tân Ninh, phủ Lạng Thương, tỉnh Bắc giang, chánh quán làng Đôn Thư, phủ Bình Lục, tỉnh Hà Nam.
Sau 1945 di cư vào Sài Gòn, dạy học ở các trường tư thục, tiếp tục sáng tác văn thơ; có thời gian làm chủ bút kiêm chủ nhiệm nguyệt san Bông Lúa (Sài Gòn 1956).
Tác phẩm đã xuất bản gồm các tập thơ "Tiếng thông reo (1934)", Xưa (chung với Anh Thơ năm 1941), Tiếng võng đưa (1957), Vào thu (1969). Ông cũng là nhà biên khảo và dịch thuật, đã xuất bản: Việt văn bình giảng (1962), Vài kỷ niệm về các thi văn sĩ hiện đại (2 tập, 1962 –1963), Người vợ câm (1969), Vực xoáy (1969), Phương pháp giáo dục mới (1971), Thầy giáo làng (1971), bốn cuốn sau là văn dịch.
Tác phẩm đã xuất bản gồm các tập thơ "Tiếng thông reo (1934)", Xưa (chung với Anh Thơ năm 1941), Tiếng võng đưa (1957), Vào thu (1969). Ông cũng là nhà biên khảo và dịch thuật, đã xuất bản: Việt văn bình giảng (1962), Vài kỷ niệm về các thi văn sĩ hiện đại (2 tập, 1962 –1963), Người vợ câm (1969), Vực xoáy (1969), Phương pháp giáo dục mới (1971), Thầy giáo làng (1971), bốn cuốn sau là văn dịch.
Báo chí và đài phát thanh cũng từng là khung cảnh cho hoạt động văn nghệ của ông. Chưa nói đến một nghề có lẽ đã nuôi sống ông nhiều hơn: nghề nhà giáo. Từ trường Dũng Lạc (Hà Nội) đến các trường Văn Lang, Cộng Hoà, Hoàng Việt, Lê Bảo Tịnh ở Sài Gòn, nhiều thế hệ học sinh đã thích thú nghe ông giảng văn bình thơ và còn giữ mãi kỷ niệm về ông.
Ông còn là nhà nhiếp ảnh nghệ thuật, từng triển lãm và được nhiều giải thưởng trong nước và ở nước ngoài.
Thơ ông gắn liền với làng quê sông núi gây nhiều ấn tượng và cảm xúc lâu dài cho người đọc.
Bàng Bá Lân mất năm 1988.
Trở lại vấn đề hai câu thơ của Bàng Bá Lân đã đi vào ca dao, tôi nghe đã lâu nhưng lúc đó cũng không tò mò thắc mắc hỏi xem nguồn gốc từ bài thơ nào, nên bây giờ muốn tìm hiểu cũng không có dữ liệu cụ thể ngoài một bài viết của một người đồng hương ở Bắc Giang với Bàng Bá Lân. Tôi xin trích nguyên văn ở đây để mọi người cùng tham khảo, biết đâu chừng các anh chị có thể tìm ra được nguyên bản của Bàng Bá Lân.
Hãy trả thơ về cho Bàng Bá Lân!
Hai câu thơ của nhà thơ Bắc Giang: Bàng Bá Lân; và nguyên văn của nó chắc chắn là: "Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi" chứ không phải "Múc ánh trăng vàng đổ đi".
Năm 1972, một anh bạn rủ tôi đến thăm nhà thơ Bàng Bá Lân ở một cái hẻm lớn trên đường Công Lý, Sài Gòn. Hôm ấy là Chủ nhật, ông không phải lên lớp (ông dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn).
Năm 1972, một anh bạn rủ tôi đến thăm nhà thơ Bàng Bá Lân ở một cái hẻm lớn trên đường Công Lý, Sài Gòn. Hôm ấy là Chủ nhật, ông không phải lên lớp (ông dạy ở Đại học Văn khoa Sài Gòn).
Thực ra, trước khi gặp ông, tôi cũng đã biết đến ông, một nhà thơ tiền chiến quê Bắc Giang, ông nói với tôi là đồng hương. Tôi còn biết ông phụ trách một tiết mục trên đài truyền hình Sài Gòn hồi đó.
Tiết mục mà ông phụ trách là trưng ra nhiều bức hình tư liệu về đời sống, sinh hoạt của mọi tầng lớp dân chúng ở miền Bắc trước năm 1955 như: xe thồ, đi dân công, chống lụt ở vùng chiêm trũng…
Ông có vóc người trung bình, nhanh nhẹn, trang phục bình dân, giản dị. Ông nói chuyện với chúng tôi về thời sự, kinh tế, rồi văn học, văn chương truyền miệng, thơ…
Ông thuộc rất nhiều, giọng đọc thơ rất hay. Ông đọc từ thơ tiền chiến đến thơ Đường, thơ Pháp. Nghe ông đọc, như bị thôi miên. Chờ khi ông ngừng nghỉ một lát, tôi mới nói chen vào, rằng trong ca dao Việt Nam tôi rất thích hai câu:
"Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi".
Tức thì nhà thơ ngắt lời tôi. Ông bảo hai câu thơ đó là trích trong một bài thơ lục bát gồm 12 câu của ông. Rồi ông đọc liền một mạch cả bài thơ đó. Nhưng ông sửa lại câu 8 mà tôi vừa dẫn trên là:
"Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi"
Và ông giải thích: Người ta không thể "múc ánh trăng vàng" mà là "múc trăng vàng" ở dưới nước. Khi cái gầu của cô gái trong câu ca dao, dìm xuống nước thì mặt trăng tan vỡ ra trong nước, hòa với nước, sóng sánh cùng với nước.
Thế là cô gái múc nước tát lên ruộng cao cũng đồng thời múc luôn cả vầng trăng tan vỡ trong đó. Trường hợp này cũng tương tự trong bài thơ "Nhớ rừng" của Thế Lữ. Bài thơ có câu: "Ta say mồi đứng uống ánh trăng tan". Ở đây con hổ không hề đứng ngửa mặt lên trời để uống ánh trăng trong không khí mà là uống trăng tan trong dòng suối sau khi đã "say mồi".
Nghe nhà thơ giảng nghĩa như vậy, chúng tôi từ chỗ ngỡ ngàng đến khâm phục. Hai câu thơ trên là của nhà thơ Bắc Giang: Bàng Bá Lân; và nguyên văn của nó chắc chắn là: "Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi" chứ không phải "Múc ánh trăng vàng đổ đi".
Mãi về sau này cũng có một vài người lên tiếng công nhận hai câu ca dao trên là của Bàng Bá Lân, trong đó có Giáo sư Huyền Viêm có bài đăng trên "Kiến thức ngày nay".
Tuy nhiên, chưa có ai chỉ rõ sự khác nhau giữa: "Múc ánh trăng vàng" và "Lại múc trăng vàng" như vừa nêu trên. Theo thiển nghĩ của chúng tôi, sở dĩ có sự lầm lẫn trên là do tam sao thất bản.
Rằng, quyển "Ca dao tục ngữ Việt Nam" của tác giả Vũ Ngọc Phan có in hai câu ca dao trên được xuất bản sau năm 1955 ở miền Bắc, còn tác giả của nó tức là nhà thơ Bàng Bá Lân lại di cư vào Nam từ năm 1954. Vì thế nhà thơ không được đọc quyển sách biên khảo của Vũ Ngọc Phan, không thấy sự nhầm lẫn đáng tiếc kể trên để lên tiếng cải chính.
Từ đó đến khi ông mất (1988), tôi chưa hề được gặp lại nhà thơ Bàng Bá Lân. Thỉnh thoảng gặp vài người bạn cố tri có lòng yêu mến văn chương, tôi lại đem tâm sự trên kể cho họ nghe. Suốt thời gian dài ấy, tôi cứ lòng dặn lòng bất cứ khi nào có dịp tôi sẽ đưa niềm tâm sự đó lên mặt báo. Rằng, nếu chưa làm được điều này thì tôi còn day dứt chưa yên. Rằng, món nợ tinh thần với nhà thơ đồng hương vẫn chưa trả được.
Bắc Giang, tháng 6/2007
Hoàng Chí Quang
06 Lê Lợi, T.T Chũ Lục Ngạn, Bắc Giang
Hoàng Chí Quang
06 Lê Lợi, T.T Chũ Lục Ngạn, Bắc Giang
Bài viết của ông Hoàng Chí Quang về lời giải thích của nhà thơ Bàng Bá Lân rất có lý. Người ta không thể "múc ánh trăng vàng" mà là "múc trăng vàng" ở dưới nước. Khi cái gầu của cô gái trong câu ca dao, dìm xuống nước thì mặt trăng tan vỡ ra trong nước, hòa với nước, sóng sánh cùng với nước, tạo một hình ảnh rất nên thơ và thực tế. Múc ánh trăng vàng đã hay, nhưng múc trăng vàng hay hơn và càng sinh động hơn. Sự chuyển hóa có lẽ là tam sao thất bản hay truyền miệng nhau nên mất đi phần nào tính nguyên thủy của hai câu thơ. Thiết tưởng đã đến lúc chúng ta cần phục hồi hai câu thơ tuyệt vời kia, trả về nguyên chủ là Bàng Bá Lân đã viết hai câu thơ thật hay đó.
Hỡi cô tát nước bên đàng
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi
Bàng Bá Lân
Bài này vừa đăng lên, anh Tuấn Tú cũng là người yêu chuộng thơ và thích làm thơ đã bổ sung thêm với bài Trăng Quê, được 6 câu không biết tại sao mất hai câu đầu và bốn câu cuối theo như bài viết của Hoàng Chí Quang đã viết ở trên.
TRĂNG QUÊ
Trời cao, mây bạc, trăng tròn,
Dế than hiu-quạnh, tre buồn nỉ-non
Diều ai gọi gió véo-von,
Cành xoan đùa ánh trăng suông dịu-dàng…
- Hỡi cô tát nước bên đàng!
Sao cô lại múc trăng vàng đổ đi?
(Trích trong tập Thơ Tình Bàng Bá Lân)
Anh chị em nào có thể truy tìm được trọn bài thơ Trăng Quê xin hãy viết lên đây cho đầy đủ bộ nhé! Cũng là duyên nợ văn chương với nhà thơ Bàng Bá Lân đã sáng tác được những câu thật hữu cảnh hữu tình, êm ái dịu dàng đi vào lòng dân tộc một cách tuyệt vời.
Nguyên Đỗ
(Sưu tầm trên mạng)
No comments:
Post a Comment