Chiêu Quân oán - Viên trì dạ phiếm (Trương Tư)
Nguyệt tại bích hư trung trú,
Nhân hướng loạn hà trung khứ.
Hoa khí tạp phong lương,
Mãn thuyền hương.
Vân bị ca thanh dao động,
Tửu bị thi tình xuyết tống.
Tuý lý ngoạ hoa tâm,
Ủng hồng khâm.
昭君怨-園池夜泛 (張鎡)
月在碧虛中住,
人向亂荷中去.
花氣雜風涼,
滿船香.
雲被歌聲搖動,
酒被詩情掇送.
醉裏臥花心,
擁紅衾,
Chiêu Quân oán - Dạo thuyền đêm trong ao
(Người dịch: Nguyễn Đương Tịnh)
Trăng treo tận trời xanh biếc,
Ta lội giữa đám sen hồng.
Hương thơm đầy gió mát,
Ngập thuyền không.
Run rẩy mây nghe ta hát,
Hồn thơ có rượu thêm nồng.
Ta say nằm giữa nhuỵ,
Nhuộm áo hồng.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Trương Tư 張鎡 (1153-1221) vốn tự là Thì Khả 時可, sau vì mến mộ Quách Công Phủ 郭功甫 nên lấy tự khác là Công Phủ, hiệu Ước Trai 約齋. Tổ tiên vốn là người Thành Kỷ (nay là Thiên Thuỷ, Cam Túc) nhưng sống ở Lâm An (nay là Hàng Châu, Chiết Giang). Ông làm quan đến Tư gia thiếu khanh. Năm Long Hưng thứ 2 (1164) làm Đại Lý tư trực. Năm Thuần Hy làm Thông phán Vụ Châu. Năm Khánh Nguyên làm Tư Nông tự chủ bạ, Tư Nông tự thừa. Năm Khai Hy thứ 3 (1207) cùng mưu giết Hàn Trác Trụ 韓侂胄 và cũng muốn trừ Tể tướng Sử Di Viễn 史彌遠. Sự việc bị lộ, tháng 12 năm Gia Định thứ 4 bị bắt, mất vào năm sau.
Trương Tư xuất thân quý tộc, giỏi cả thi từ hoạ. Ông học thơ từ Lục Du 陸遊, có giao du với Vưu Mậu 尤袤, Dương Vạn Lý 楊萬里, Tân Khí Tật 辛棄疾, Khương Quỳ 姜夔. Tác phẩm nay còn "Nam Hồ tập" 南湖集 10 quyển, "Sĩ học quy phạm" 仕學規范 4 quyển, "Ngọc Chiếu đường từ" 玉照堂詞 1 quyển.
Nguồn: Thi Viện
No comments:
Post a Comment