Wednesday, December 24, 2025

HOÁN KHÊ SA ( SƠN HẠ LAN NHA ĐOẢN TẨM KHÊ) - TÔ THỨC


Hoán khê sa - Tô Thức
(Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê)

Sơn hạ lan nha đoản tẩm khê,
Tùng gian sa lộ tịnh vô nê,
Tiêu tiêu mộ vũ tử quy đề.

Thùy đạo nhân sinh vô tái thiểu,
Môn tiền lưu thủy thượng năng tê,
Hưu tương bạch phát xướng hoàng kê.

Hoàng Châu, năm Nguyên Phong thứ 5 (1082)

Bài từ này được Tô Thức làm khi chơi tại chùa Thanh Tuyền 清泉 ở huyện Kỳ Thuỷ (nay là huyện Hy Thuỷ, tỉnh Hồ Bắc, cách Hoàng Châu không xa) thời kì ông bị biếm đến Hoàng Châu. Trong Đông Pha chí lâm 東坡誌林 có nói: “Phía đông nam Hoàng Châu 30 dặm là Sa hồ, còn gọi là Loa Sư điếm. Ta mua khoảnh ruộng ở nơi đó, nhân đến xem ruộng mà mắc bệnh. Nghe nói Bàng An Thường 龐安常 người Ma Kiều giỏi về y nhưng tai điếc, liền tìm đến xin chữa trị. Bệnh khỏi, cùng với ông ta đến chơi chùa Thanh Tuyền. Chùa ở huyện Kỳ Thuỷ, ngoài Quách Môn khoảng 2 dặm, có suối rửa bút của Vương Dật Thiếu 王逸少 (tức Vương Duy), nước cực ngọt, chảy xuống khe Lan, nước khe chảy về tây. Nên ta viết bài ca.” Bài ca nói ở đây chính là bài từ này.


浣溪沙 - 蘇軾
(山下蘭芽短浸溪)

山下蘭芽短浸溪
松間沙路淨無泥
蕭蕭暮雨子規啼

誰道人生無再少
門前流水尚能西
休將白發唱黃雞


Hoán khê sa 
(Dưới núi chồi lan tưới nước trong)
(Dịch thơ: Nguyễn Xuân Tảo)

Dưới núi chồi lan tưới nước trong,
Đường đi không bụi giữa hàng thông,
Mưa chiều lất phất, tiếng quyên lồng.

Ai bảo đời người không trẻ lại,
Nước sông trước cửa chảy ngược dòng,
Bạc đầu hát khúc rạng trời đông.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tô Thức   (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.

Nguồn: Thi Viện



NỬA ĐỜI SAU TÔI MỚI HIỂU: CÓ NGƯỜI CHỈ TỐT KHI HỌ CÒN CẦN MÌNH

Có những người từng xem mình là “người không thể thiếu”, nhưng chỉ cần họ không còn nhu cầu nhờ vả hay dựa dẫm, thái độ lập tức thay đổi. Nửa đời sau, tôi mới chấp nhận một sự thật: Có người chỉ tốt với mình khi họ còn cần mình.


Ngày trẻ, tôi từng rất dễ xúc động trước những lời hứa, những câu "có gì cứ gọi", "cần gì cứ nói" của người khác. Tôi tin rằng, chỉ cần mình chân thành, đối xử hết lòng, thì người ta cũng sẽ đối xử lại như vậy. Nhưng qua bao lần cho đi rồi hụt hẫng, bao lần bị "bỏ quên" ngay khi họ đạt được điều mình giúp, tôi mới hiểu: Trên đời có một kiểu người, họ không xấu hẳn, cũng không phải người ác, chỉ là họ tốt với mình đúng bằng mức họ cần mình.

Khi hết cần rồi, mọi ấm áp, quan tâm, hứa hẹn… tan biến nhanh đến mức mình không kịp trở tay. Và hiểu ra điều đó, đời sống nhẹ hơn, bớt ảo tưởng, bớt trách móc, cũng bớt tự làm mình đau.

01

Có một giai đoạn khá dài trong đời, tôi sống với niềm tin: "Chân thành là đủ". Đứa trẻ trong tôi nghĩ rằng, chỉ cần mình tốt, trời sẽ không phụ, người sẽ không phụ. Để rồi, tôi va phải không ít câu chuyện giống nhau đến lạ:

Khi họ đang đi xin việc, cần người sửa CV, nhờ mình tư vấn, liên hệ giúp đỡ, ngày nào cũng gọi, cũng hỏi han, cũng "chị ơi, em mang ơn chị suốt đời". Nhưng khi đã vào được công ty, ổn định chỗ đứng, số lần họ chủ động nhắn tin chỉ còn đếm trên đầu ngón tay.

Khi họ đang yêu, cãi nhau với người yêu, cần nơi trút bầu tâm sự, cần người nghe mình khóc đến nửa đêm, họ gọi cho mình như gọi "tổng đài 24/7". Đến lúc đâu lại vào đó, hai đứa cưới nhau, lập gia đình yên ổn, "tổng đài" cũng bị cắt sóng luôn.


Khi họ đang khó khăn, cần vay tiền gấp, cần người đứng tên giúp, cần xin một cái chữ ký bảo lãnh… mình là "ân nhân". Nhưng khi họ đứng vững rồi, có tiếng nói, có tiền, có quan hệ riêng, mình lại thành người "xa lạ", thậm chí né tránh vì sợ… mình cần ngược lại.

Lúc trẻ, mỗi lần như vậy, tôi hay ngồi khóc. Khóc vì thấy mình ngu, vì tự hỏi "Mình đã làm gì sai?", "Hay mình không đáng được đối xử tốt?". Khi trưởng thành hơn một chút, tôi chuyển sang giận: Giận họ vô ơn, giận họ thực dụng, giận vì đã coi tình cảm của mình như một công cụ.

02

Nhưng đi qua nửa đời người, nhìn lại, tôi nhận ra: Họ chỉ sống đúng bản chất "cần gì thì tìm đến, hết cần thì rẽ sang hướng khác". Có người ý thức được điều đó, có người không; có người biết mình đang lợi dụng, có người chỉ nghĩ "tiện thì dựa", chứ cũng không tự nhận là xấu.

Và quan trọng hơn, tôi nhận ra một điều còn đau hơn: Chính mình đã cho phép họ đối xử như vậy với mình, vì mình không đặt ra ranh giới.

Khi mình luôn sẵn sàng bất cứ lúc nào, luôn nói "không sao đâu, cứ gọi", luôn lao vào xử lý vấn đề của người khác như chuyện của mình, thì vô tình, mình tự biến mình thành "dịch vụ hỗ trợ" miễn phí. Người ta quen với việc có mình ở đó.

Chúng ta, đặc biệt là phụ nữ, thường được dạy phải tốt bụng, biết nghĩ cho người khác, biết sống vì tập thể, vì gia đình. Điều đó không sai. Nhưng nếu chỉ tốt mà không tỉnh táo, chỉ cho đi mà không biết giữ cho mình một khoảng an toàn, thì lòng tốt rất dễ bị dùng sai chỗ.

Nửa đời sau, tôi bắt đầu học cách nhìn con người rõ hơn.

Người chỉ tìm đến mình lúc họ cần, khi mình cần thì luôn "bận", đó không phải bạn thân thiết, chỉ là mối quan hệ tiện lợi.

Người nói rất hay, hứa rất nhiều, nhưng khi mình rơi vào hoàn cảnh khó khăn, họ biến mất, đó không phải điểm tựa cảm xúc, chỉ là đám đông đi ngang.


Người sẵn sàng giúp mình trong khả năng của họ, dù ít dù nhiều, dù không hoàn hảo, nhưng cố gắng có mặt, đó mới là người nên trân trọng.

Nhìn rõ để không ảo tưởng, chứ không phải để cay nghiệt.

Hiểu ra rằng "có người chỉ tốt khi họ còn cần mình", tôi bớt trách, bớt than, nhưng lại bắt đầu điều chỉnh chính mình.

03

Tôi không còn vội vàng nhận lời tất cả mọi sự nhờ vả. Tôi học cách hỏi bản thân: "Việc này có nằm trong khả năng của mình không? Có làm mình kiệt sức không? Người ấy có từng ở bên mình khi mình khó khăn không?". Tôi cho đi có chọn lọc hơn: Cho những người thực sự trân trọng, cho những mối quan hệ hai chiều, cho những ai dù ít nói, nhưng khi mình cần, họ không quay mặt đi.

Tôi cũng học cách chấp nhận một sự thật hơi phũ: Trong nhiều trường hợp, người ta cư xử theo lợi ích. Không phải ai cũng có đủ sự trưởng thành để tốt với mình vô điều kiện. Điều đó không có nghĩa là thế giới toàn người xấu, mà chỉ là mình phải biết chọn chỗ đặt lòng tin.

Ở một khoảnh khắc nào đó, bạn sẽ nhận ra, điều cần thay đổi không phải là cố bắt người khác "tốt hơn", mà là mình "tỉnh hơn".

Tỉnh táo để: Biết ai chỉ tốt khi cần mình, để không gửi gắm quá nhiều kỳ vọng vào họ.

Biết ai lặng lẽ ở bên mình, để không vô tình bỏ rơi những người thật lòng.

Biết giữ sức mình, giữ thời gian, giữ cảm xúc cho đúng người, đúng việc.

Nếu có một bài học xứng đáng cho nửa đời sau, tôi nghĩ là đừng mang lòng tốt đi chứng minh với cả thế giới, hãy giữ nó cho những mối quan hệ xứng đáng.

Cuối cùng, tôi vẫn tin ở người tốt. Nhưng tôi không còn tin rằng "tất cả những ai từng tốt với mình đều là người tốt trọn vẹn". Có người tốt vì bản chất, có người tốt vì nhu cầu, có người tốt vì họ đang ở thế yếu, cần dựa vào mình.

Khi hiểu điều đó, tôi không còn quá đau khi một mối quan hệ "lộ mặt". Tôi coi đó như một lần tấm màn rơi xuống, cho mình thấy rõ ai nên giữ, ai nên buông.


Nửa đời sau, tôi muốn sống nhẹ hơn một chút: Không trách ai đã quay lưng khi hết cần mình. Không cố níu những mối quan hệ một chiều. Không biến lòng tốt của mình thành công cụ để người khác yên tâm lợi dụng.

Và quan trọng nhất, tôi học cách tốt với chính mình trước: Ăn cho đủ, ngủ cho ngon, làm việc vì mục tiêu của mình, yêu thương những người xứng đáng, thay vì mải miết chứng minh mình là "người tốt" trong mắt người chẳng mấy quan tâm.

Có người chỉ tốt khi họ còn cần mình, điều đó nghe qua thì buồn, nhưng nếu chấp nhận được, bạn sẽ thấy: Thì ra, trưởng thành không phải là không còn tin ai, mà là vẫn tin, nhưng biết giữ lại một phần cho mình. Và ở phần ấy, chỉ có bạn mới có quyền bước vào.

Tích Thành / Theo: soha

Tuesday, December 23, 2025

ĐÈN, DẦU VÀ ÁNH SÁNG CỦA LÒNG NGƯỜI

Buổi chiều trời không mưa, nhưng se lạnh. Tôi nhìn từ khung cửa, cảnh vật yên bình. Đột nhiên trong đầu có ba chữ này, nên thuận tiện viết ra vậy. Đó chính là: Trí – Thiện – Tĩnh. Nghe thì đơn giản, nhưng sống với nó thật sự không dễ. Mà nếu sống được với nó rồi, là ta sẽ đi qua được hết mọi bão giông.


Trí là đèn

Người có trí, không phải là người nói hay, chữ tốt. Mà là người nhìn thấu được cái gốc rễ của sự việc. Giữa một đám đông đang ồn ào cãi vã, họ là người im lặng mà coi. Giữa lúc người ta tranh nhau phần thắng, họ lặng lẽ đi tìm lối ra.

Cái trí nó không la toáng lên. Nó như ngọn đèn dầu nhỏ, chỉ soi một vệt sáng vừa đủ cho mình thấy đường đi, không làm ai chói mắt, nhưng chưa bao giờ tắt.

Trí giúp mình đi qua cơn mê, không phải bằng cách đạp người khác xuống, mà bằng cách tự mình “ngộ” ra.

Tôi nhớ có lần gặp một cụ già ở quê. Cụ chẳng biết chữ, nhưng nhìn chuyện gì cũng thấu. Người ta kể lể chuyện con cái trong nhà hỗn hào, cụ chỉ chép miệng, nói một câu: “Thì tại hồi đó mình cũng y vậy với cha mẹ mình. Giờ nó trả lại cho mình đủ thôi.“

Một câu nói không bênh vực ai, chẳng trách ai, mà làm người ta ngồi lặng cả buổi chiều. Đó là trí. Cái trí không phải để hơn đời, mà là để biết nhìn lại mình.


Thiện là dầu

Đèn muốn sáng, thì phải có dầu. Người có trí mà lòng không có Thiện, thì cũng như cái đèn khô dầu, có thể lóe lên được một lúc, rồi cũng tắt ngấm.

Lòng Thiện không phải là thứ để đem đi rao giảng. Nó nằm ở những chuyện lặt vặt thôi. Là một cái nhìn không xét nét. Là một lần mình chịu thua thiệt một chút. Là một miếng ngon mình nhường cho người khác. Làm mấy việc đó, không phải để ai thấy, không cần ai cảm ơn. Chỉ cần lòng mình thấy yên là được.

Có một người cha, ngày nào cũng gói cơm mang vào trại cho đứa con nghiện ngập. Người con ấy từng phá nát cả gia đình. Người ta hỏi ông sao còn thương nó, ông chỉ nói: “Nó là con mình, ruột mình. Nó dại, mình bỏ nó sao đành?“

Chẳng có lý lẽ gì ở đây cả. Nhưng tôi tin, cái lòng thương không toan tính ấy, một ngày nào đó, sẽ là thứ kéo đứa con trở về.

Lòng Thiện chính là thứ nuôi cho cái Trí được ngay thẳng. Thiếu nó, trí khôn sẽ dễ thành khôn lỏi, thành mưu mẹo. Nhưng có lòng Thiện rồi, cái Trí sẽ biết nhường, biết lùi, biết nghĩ cho người. Khi đó, ngọn đèn của mình mới cháy bền và soi sáng cho người khác.


Tĩnh là sáng

Có đèn, có dầu, nhưng đặt trước gió, ngọn lửa cứ phập phà phập phù, khi tỏ khi mờ. Chỉ khi được đặt ở nơi lặng, ánh sáng mới tròn đầy, vững vàng.

Người ta cũng vậy. Có Trí, có Thiện, mà lòng không Tĩnh, thì chỉ một lời nói của thiên hạ cũng đủ làm mình chao đảo, chỉ một chuyện không vui cũng đủ cuốn mình đi mất, bản tâm không giữ được thì giữ được chuyện gì đây.

Tĩnh không có nghĩa là ngồi im không làm gì. Tĩnh là khi mình đi giữa chợ đời ồn ã, mà lòng mình vẫn giữ được sự yên lặng. Bị người ta hiểu lầm, vẫn không vội giải thích. Thấy người ta hơn mình, vẫn không thấy tủi thân. Bị người ta ám hại, vẫn không oán không hận. Tĩnh là một thứ sức mạnh không lời. Nó vững như núi vậy.

Người càng trưởng thành một cách chân chính, càng quý cái Tĩnh. Càng trọng cái Tĩnh. Càng gần cái Tĩnh.

Vì chỉ có tĩnh, mình mới nghe được lòng mình. Nghe được người khác nói gì sau lời của họ. Và nghe được cả Đất Trời đang dạy mình bài học gì.

Một đời người, giữ được ba thứ đó trong lòng, thì dù có đi lạc vào rừng sâu, vẫn không thấy tối. Dù đời có vùi dập, vẫn không mất niềm tin.

Ta không cần phải thành ông này bà nọ. Chỉ cần làm một người bình thường, nhưng trong tim có một ngọn đèn. Mỗi ngày, châm vào đó một chút dầu Thiện, và học cách giữ cho lòng mình lặng, để ngọn đèn ấy không bao giờ tắt.

Để nó soi đường cho mình, và nếu may mắn, có thể sưởi ấm được cho người đi bên cạnh.

Chỉ cần một đời sống yên lặng, ngay thẳng, và tử tế. Vậy là đủ một đời an yên.

Nguyên Tác An Hậu
Theo: vandieuhay

TỪ ĐẾ CHẾ PHỤ TÙNG ĐẾN HỐ NỢ HÀNG CHỤC TỶ USD: BÍ MẬT ĐEN TỐI PHÍA SAU CÚ SẬP CỦA THƯƠNG HIỆU HÀNG ĐẦU NƯỚC MỸ, VỪA KHIẾN PHỐ WALL "LẠNH GÁY"

Vụ vỡ nợ của First Brands đang nhanh chóng trở thành một trong những cú sốc lớn nhất của thị trường tín dụng Mỹ những năm gần đây. Một hãng phụ tùng ô tô tưởng như rất “đời thường” lại để lại sau lưng núi nợ hàng chục tỷ USD, cáo buộc gian lận nhiều tỷ USD và một lỗ hổng đáng sợ trong hệ thống tài trợ chuỗi cung ứng.


First Brands Group, thành lập năm 2013 với tên Crowne Group và đổi tên năm 2020, đã xây dựng đế chế phụ tùng bằng chuỗi thương vụ mua lại tài trợ chủ yếu bằng nợ, rồi tới tháng 9/2025 phải nộp đơn xin bảo hộ phá sản theo Chương 11 tại Texas.

Trong hồ sơ gửi tòa, công ty khai báo nghĩa vụ nợ trong khoảng 10-50 tỷ USD trong khi tài sản chỉ 1-10 tỷ USD, phần đáng kể đến từ các cấu trúc tài trợ ngoài bảng cân đối “mờ” dựa trên khoản phải thu và hàng tồn kho.
Sau khi đổi tên thành First Brands và đặt trụ sở tại Cleveland, Ohio, Patrick James, nhà sáng lập kiêm CEO, đẩy mạnh chiến lược thâu tóm các nhà sản xuất phụ tùng hậu mãi. Chỉ trong vài năm, First Brands gom về những cái tên quen thuộc như Fram (lọc dầu), Autolite (bugi), Raybestos (phanh), Anco và Trico (gạt mưa). Tất cả đều được đóng gói thành câu chuyện tăng trưởng hấp dẫn: một “con sếu đầu đàn” mới trong mảng phụ tùng ô tô, hưởng lợi từ nhu cầu sửa chữa xe ngày càng lớn.

Nhưng phía sau các thương vụ đó là đòn bẩy tài chính nặng nề. First Brands dựa vào các khoản vay hợp vốn bảo đảm, các công cụ nợ tư nhân và đặc biệt là tài trợ chuỗi cung ứng, tài trợ khoản phải thu và factoring (doanh nghiệp bán lại các hóa đơn chưa đến hạn cho một tổ chức tài chính).


Một báo cáo của Global Trade Review cho thấy tới thời điểm phá sản, các pháp nhân trong nhóm First Brands gánh khoảng 6,1 tỷ USD nợ ghi nhận trên bảng cân đối, 2,3 tỷ USD tài trợ ngoài bảng cân đối, 800 triệu USD nghĩa vụ tài trợ chuỗi cung ứng và thêm 2,3 tỷ USD nợ factoring, tổng cộng hơn 11 tỷ USD cam kết tài chính chằng chịt, trong đó nhiều khoản ít được công bố rõ với nhà đầu tư.

Về phía chủ nợ, các tổ chức tài chính lớn như Jefferies và UBS tham gia dưới vai trò mua lại hóa đơn bán hàng (receivables), cung cấp tài trợ vốn lưu động và tài trợ hàng tồn kho. Khi mọi thứ vận hành trơn tru, hóa đơn gửi cho các nhà bán lẻ như Walmart, AutoZone, Napa được bán cho các quỹ, First Brands thu tiền sớm, còn nhà đầu tư nhận tiền khi khách hàng thanh toán.

Về lý thuyết, mô hình này giúp doanh nghiệp “nhẹ vốn” hơn và tăng vòng quay tiền mặt. Nhưng nó cũng mở ra cơ hội cho việc đẩy rủi ro ra ngoài tầm nhìn của bảng cân đối và đó chính là nơi các cáo buộc gian lận xuất hiện.
Sau khi First Brands nộp đơn phá sản, câu chuyện nhanh chóng chuyển từ một trường hợp mất khả năng thanh toán sang nghi vấn gian lận quy mô lớn. Một trong các chủ nợ, Raistone, nói thẳng trước tòa rằng khoảng 2,3 tỷ USD “đơn giản là biến mất”, trong đó khoảng 1,9 tỷ USD tiền thu từ các hóa đơn đã được factoring nhưng không bao giờ được công ty chuyển lại cho chủ sở hữu thực sự của khoản phải thu.

Đến đầu tháng 11, First Brands chính thức kiện nhà sáng lập Patrick James, cáo buộc ông đã “biển thủ hàng trăm triệu, nếu không muốn nói là hàng tỷ USD” từ công ty và khiến doanh nghiệp mất khả năng thanh toán. Trong đơn kiện gửi tòa phá sản tại Texas, First Brands cho rằng James đã khiến công ty gánh thêm ít nhất 2,3 tỷ USD nghĩa vụ dựa trên các hóa đơn “không tồn tại hoặc bị chỉnh sửa”, đồng thời sử dụng cấu trúc các pháp nhân đặc biệt để cầm cố cùng một tài sản nhiều lần.

Một vụ kiện khác do ban điều hành mới và các chủ nợ đệ trình vẽ nên bức tranh chi tiết hơn về cách dòng tiền chảy khỏi doanh nghiệp. Theo cáo buộc, James đã dùng số tiền huy động được từ các khoản vay dựa trên hóa đơn để sống xa xỉ. Ông sở hữu 7 căn nhà, 17 chiếc siêu xe hàng hiếm, chi riêng 500.000 USD cho một đầu bếp riêng, 150.000 USD cho huấn luyện viên cá nhân nổi tiếng, 3 triệu USD tiền thuê nhà phố ở New York và chuyển thêm 8 triệu USD vào công ty của con rể.


Đáng chú ý, chỉ riêng trong năm 2024, James bị cáo buộc đã chuyển hơn 100 triệu USD từ First Brands sang các quỹ tín thác và doanh nghiệp riêng của mình. Tổng cộng, các nguyên đơn ước tính ông “rút ruột” khoảng 700 triệu USD. Trong bối cảnh đó, đến khi hồ sơ phá sản được nộp, luật sư của First Brands nói trước tòa rằng công ty chỉ còn 12 triệu USD tiền mặt trong tài khoản, trong khi hơn 2 tỷ USD đang “thất lạc” hoặc không thể xác minh đường đi.

Dĩ nhiên, James phủ nhận toàn bộ. Thông qua người phát ngôn, ông gọi các cáo buộc là “vô căn cứ và mang tính suy đoán”, khẳng định luôn hành xử “đạo đức” và sẽ đấu tranh để bảo vệ mình. Song song với các vụ kiện dân sự, Bộ Tư pháp Mỹ đã mở một cuộc điều tra sơ bộ về sự sụp đổ của First Brands, tập trung vào các giao dịch tài chính, việc tài trợ ngoài bảng cân đối và nghi vấn hóa đơn bị “cầm cố trùng”.

Điều đáng nói là nhiều dấu hiệu mong manh đã xuất hiện trước khi bê bối gian lận bị phanh phui. S&P Global Ratings hạ bậc tín nhiệm First Brands xuống mức “D” tức là vỡ nợ, ngay sau khi doanh nghiệp nộp đơn Chương 11, nhấn mạnh rủi ro đáo hạn đã gia tăng mạnh trước đó và công ty không còn khả năng xoay vòng nợ.

Các bài phân tích trên The Guardian và Los Angeles Times mô tả First Brands như một doanh nghiệp tăng trưởng bằng mọi giá, tích tụ đòn bẩy lớn trong thị trường tín dụng tư nhân, nơi tiêu chuẩn thẩm định đôi khi “dễ dãi” hơn so với kênh ngân hàng truyền thống.

Thực tế, trước khi phá sản, First Brands đã chậm thanh toán hàng trăm triệu USD tiền lãi cho các đối tác cho vay dựa trên hàng tồn kho, buộc James phải âm thầm đề nghị cầm cố 15% cổ phần để “câu giờ”.

Các nhà cho vay khác bắt đầu nghi ngờ về chất lượng tài sản bảo đảm, tức là giá trị thực của khoản phải thu và hàng tồn kho mà họ đang giữ cầm cố. Khi một số đơn vị tài trợ chuỗi cung ứng dừng giải ngân, chuỗi vốn lưu động của First Brands lập tức “đứt mạch”, phơi bày sự phụ thuộc cực lớn của công ty vào dòng tiền ngắn hạn đắt đỏ thay vì dòng tiền kinh doanh bền vững.

Một chi tiết làm thị trường choáng váng đó là chỉ vài tháng trước khi vụ bê bối nổ ra, hãng kiểm toán BDO vẫn ký báo cáo cho thấy tình hình tài chính của First Brands “không có vấn đề trọng yếu”. Điều đó cho thấy ngay cả những quy trình kiểm toán chuẩn mực cũng có thể “bỏ sót” rủi ro khi cấu trúc tài trợ trở nên quá phức tạp và trải rộng qua nhiều pháp nhân, nhiều chương trình tài trợ.

Trong khi đó, các quỹ và ngân hàng lại bị thu hút bởi câu chuyện lợi suất cao từ các khoản tài trợ dựa trên hóa đơn và hàng tồn kho, vốn được xem là “có tài sản bảo đảm” và rủi ro thấp. Chỉ đến khi First Brands dừng chuyển tiền cho quỹ Point Bonita của Jefferies vào giữa tháng 9, rồi nộp đơn phá sản, CEO Jefferies mới nói thẳng rằng ngân hàng mình đã bị “lừa” và chưa từng biết gì về gian lận trước đó.
Hệ quả của vụ vỡ nợ First Brands lan rộng nhanh chóng. Reuters ghi nhận các quỹ đầu tư vào khoản vay tại Mỹ chứng kiến dòng vốn rút ròng mạnh trong tháng 10, khi nhà đầu tư bắt đầu đặt câu hỏi về tiêu chuẩn cho vay, đặc biệt với những thương vụ gắn với tài trợ chuỗi cung ứng và cấu trúc vay ngoài bảng cân đối kế toán phức tạp.

Morningstar thì coi vụ sụp đổ này như một “bài kiểm tra thực tế” cho hệ sinh thái bảo hiểm tín dụng thương mại, với tổn thất bảo hiểm dự kiến từ vài trăm triệu tới hơn 1 tỷ USD trong kịch bản xấu.

Về mặt quản trị doanh nghiệp, bài học rõ ràng nhất là sự lệ thuộc quá mức vào nợ ngắn hạn và tài trợ chuỗi cung ứng, trong khi kiểm soát nội bộ và quản trị rủi ro lại không theo kịp. Một mô hình kinh doanh tưởng như “an toàn”, bán phụ tùng cho các nhà bán lẻ lớn, dòng doanh thu ổn định, có thể trở nên cực kỳ mong manh khi đòn bẩy tài chính đẩy lên quá cao, lợi nhuận thực không đủ bù chi phí vốn và cấu trúc tài trợ quá rối rắm đến mức chính ban lãnh đạo, chủ nợ, kiểm toán viên cũng khó nhìn rõ bức tranh tổng thể.


First Brands cũng nhắc lại một thông điệp cũ nhưng "cay đắng", “tài sản bảo đảm” không phải lúc nào cũng đúng nghĩa. Nếu khoản phải thu có thể bị bán trùng, nếu hàng tồn kho có thể bị dùng để thế chấp cho nhiều khoản vay khác nhau, thì giấy tờ pháp lý đẹp đẽ cũng không bảo vệ được trước nguy cơ mất vốn. Các tổ chức tài chính buộc phải xem xét lại cách đánh giá rủi ro trong các chương trình tài trợ chuỗi cung ứng, thay vì chỉ dựa trên mô hình, xếp hạng hay bề ngoài “xanh sạch” của báo cáo tài chính.

Hiện tại, First Brands đang hoạt động dưới sự giám sát của tòa phá sản, với khoản tài trợ khẩn cấp khoảng 500 triệu USD để duy trì vận hành trong quá trình tái cấu trúc, trong khi ban điều hành mới và các ủy ban độc lập tiếp tục đào sâu vào mạng lưới giao dịch tài chính trong nhiều năm qua. James tuy đã từ chức nhưng vẫn là nhân vật trung tâm trong hàng loạt cuộc điều tra và kiện tụng dân sự.

Diệp Vy (Tổng hợp)
Theo: Nhịp sống thị trường
Link tham khảo:




CUNG TỪ (宮詞) - TIẾT PHÙNG (薛逢)


Cung từ - Tiết Phùng

Thập nhị lâu trung tận hiểu trang,
Vọng Tiên lâu thượng vọng quân vương.
Toả hàm kim thú liên hoàn lãnh,
Thuỷ trích đồng long trú lậu trường.
Vân kế bãi sơ hoàn đối kính,
La y dục hoán canh thiêm hương.
Dao khuy chính điện liêm khai xứ,
Bào khố cung nhân tảo ngự sàng.


宮詞 - 薛逢

十二樓中盡曉粧
望仙樓上望君王
鎖銜金獸連環冷
水滴銅龍晝漏長
雲髻罷梳還對鏡
羅衣欲換更添香
遙窺正殿帘開處
袍褲宮人掃御床


Bài hát trong cung
(Dịch thơ:Anh Nguyệt)

Mười hai lầu, điểm trang xong,
Vọng Tiên, lên gác, nóng lòng chờ vua.
Đôi khoen, khoá thú vàng lùa,
Rồng đồng, giọt nước đong đưa, ngày dài.
Tóc mây, chải ngắm gương hoài,
Sắp thay áo lụa còn nài thêm hương.
Xa nhòm chánh điện rèm buông,
Gái hầu váy ngắn quét giường cho vua...


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Tiết Phùng 薛逢 (806-876) tự Đào Thần 陶臣, người Hà Đông, Bồ Châu (nay thuộc Vĩnh Tế, Sơn Tây, Trung Quốc), đỗ tiến sĩ năm Hội Xương đời Đường Võ Tông, làm quan Hoành văn quán học sĩ, Thượng thư lang,...

Nguồn: Thi Viện



"THẦN KINH DOANH" NHẬT BẢN KAZUO INAMORI: NGƯỜI CÀNG NGHÈO CÀNG THÍCH LÀM 3 VIỆC NÀY, NGƯỜI TRẺ MUỐN GIÀU PHẢI TUYỆT DỐI TRÁNH XA

Với kinh nghiệm đúc kết trong cả cuộc đời mình, doanh nhân đình đám xứ Phù Tang - Kazuo Inamori cho rằng đây là 3 điều người trẻ cần cảnh giác nếu không muốn tự chặn đường tương lai của chính mình.


Phần lớn chúng ta đều sinh ra trong điều kiện bình thường, thậm chí có cùng xuất phát điểm: học chung trường đại học, ra đời cùng thời điểm. Nhưng chỉ sau vài năm đi làm, có người “lên mây”, có người lại mãi “dưới đất”.

Đó chẳng phải chuyện số mệnh an bài. Con đường dẫn đến giàu có có thể vô số, nhưng lối sống khiến một người mãi nghèo thì lại rất giống nhau. Điều đáng nói là đa phần mọi người không bao giờ nghiêm túc suy nghĩ vì sao mình không thể giàu, đơn giản vì họ luôn rơi vào hai thái cực: bận đến mức không có thời gian suy nghĩ, hoặc nhàn đến mức chẳng muốn động não. Và ở bất kỳ thái cực nào, con đường đi đến thành công đều trở nên xa vời.

Ngoài hai thái cực ấy, theo doanh nhân - triết gia Nhật Bản Kazuo Inamori, còn 3 hành vi phổ biến mà giới trẻ rất dễ mắc phải, khiến họ ngày càng xa rời sự giàu có. Trong cuốn sách “Thành Pháp”, ông dành nhiều trang để phân tích cách con người “làm nên việc lớn” và cách ông đã thực hành chúng trong suốt cuộc đời.

1. Tiêu dùng trước, kiếm tiền sau

Không khó nhìn thấy một thực tế: nhiều người trẻ ngày nay tiêu tiền rất “thoáng”. Tiểu Vương - một người vừa tốt nghiệp và đi làm ở Thiên Tân (Trung Quốc) là một ví dụ. Mặc dù đang thử việc và có mức lương chưa ổn định, Tiểu Vương vẫn tiêu tốn nhiều chi phí cho các sản phẩm công nghệ cao, thuê phòng ở khu chung cư đắt đỏ, thậm chí mua chiếc xe đắt tiền chỉ vì “thích”. Mỗi tháng, Tiểu Vương chưa kịp nhận lương thì lịch trả nợ đã được nhắc nhở trước.

Lối sống tiêu dùng quá đà, chạy theo những món đồ quá khả năng tài chính khiến ham muốn vật chất trong chúng ta phình to mà không có điểm dừng. Ham muốn của bản thân không xấu, nhưng nếu chúng ta khiến nó trở thành lòng tham, nó sẽ dẫn dắt con người đi sai đường.


Kazuo Inamori từng nói một câu nổi tiếng: “Bạn gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Nếu gieo hạt giống nghèo khó, làm sao mong gặt được sự giàu có.”

Nếu mỗi tháng đều “âm tiền”, bạn sẽ không có vốn liếng để đầu tư cho tương lai. Thu nhập không đủ sống nhưng lại đòi hỏi cuộc sống xa xỉ, thì chính ta đang tự gieo mầm của nghèo túng.

2. Thiếu hiểu biết về tiết kiệm và quản lý tài chính

Câu nói: “Bạn không quản lý tiền bạc thì tiền bạc cũng không ở bên bạn” được truyền tai khắp nơi, nhưng phần lớn những người nói câu ấy lại là người… bán khóa học tài chính. Bạn có thể chưa chắc kiếm được tiền từ đầu tư, nhưng chắc chắn họ đã thu được tiền từ bạn.

Điều đáng nói là không ít người trẻ thu nhập chỉ 5-10 triệu mỗi tháng nhưng lại dành nhiều thời gian nghiên cứu đầu tư, đặt kỳ vọng làm giàu từ con số nhỏ. Kể cả khi lợi nhuận lên đến 20% mỗi năm, thì mức vốn ít ỏi đó cũng không thể giúp bạn đổi đời. Thực tế, nhiều người vì nghe lời dụ dỗ đầu tư, kiếm được vài triệu tiền lãi rồi bị cuốn vào cuộc chơi và cuối cùng mất sạch hàng chục, hàng trăm triệu tiền gốc.

Theo doanh nhân Kazuo Inamori, thay vì tốn thời gian để tìm hiểu cách làm giàu nhanh chóng, bạn nên nâng cao kỹ năng hoặc học thêm một nghề mới, như một nghề tay trái có thể tạo thu nhập bền vững. Đó mới là khoản đầu tư có tỷ suất lợi nhuận cao nhất. Bên cạnh đó, trước khi học cách đầu tư, chúng ta hãy học cách tiết kiệm trước. Khi bạn đã tự xây được một nền tảng cho mình nhờ tiết kiệm, bạn mới có thể vun đắp mọi thứ cao hơn nhờ vào việc đầu tư.

3. Quá ích kỷ sẽ bỏ lỡ nhiều cơ hội

Nhiều người thất bại không phải vì kém cỏi, mà vì họ quá “thông minh” theo cách không nên. Họ tính toán từng chút, làm việc thì sợ thiệt thòi, nhận phúc lợi thì hơn kém một chiếc bánh cũng bận lòng. Nhưng một công việc có thể làm tốt hay không phụ thuộc vào thái độ của người thực hiện, chứ không chỉ là năng lực.


Kazuo Inamori là người tin vào điều đó. Thuở trẻ, ông gia nhập Công ty Công nghiệp Shofu. Dù từng nghĩ đến chuyện bỏ đi nhưng hoàn cảnh buộc ông phải ở lại. Ông chọn cách tập trung vào một việc duy nhất và làm nó đến mức tốt nhất. Ngay cả khi công ty không trả nổi lương, ông vẫn miệt mài nghiên cứu. Sau này, chính thành quả nghiên cứu đó không chỉ giành giải thưởng mà còn cứu cả nhà máy khỏi phá sản.

Người có quá nhiều “tính toán” tưởng như kiếm được vài lợi ích nhanh chóng, nhưng về lâu dài lại bỏ lỡ những cơ hội lớn của đời mình. Trong cuốn sách “Thành Pháp”, Kazuo Inamori đã nói: “Hãy trở thành người không ngừng hoàn thiện bản thân, sống với trái tim vị tha, kiên định bước trên con đường mình tin tưởng, không do dự, không quay đầu.”

Nguyên An / Theo: soha

TẬP ĐOÀN BẤT ĐỘNG SẢN EVERGRANDE CHÍNH THỨC BỊ XÒA SỔ KHỎI SÀN CHỨNG KHOÁN SAU 16 NĂM: HỒI KẾT ĐẮNG CỦA MỘT BIỂU TƯỢNG LẪY LỪNG

Việc Evergrande bị huỷ niêm yết khỏi sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông khép lại một chương buồn. Song, khó khăn của ngành bất động sản Trung Quốc vẫn còn kéo dài.


China Evergrande Group từng là biểu tượng của sự thành công trong ngành bất động sản Trung Quốc với vị thế là nhà phát triển lớn nhất nước này. Năm 2009, Evergrande ghi dấu ấn với đợt phát hành cổ phiếu lần đầu (IPO) lớn nhất của một doanh nghiệp bất động sản tư nhân Trung Quốc trên sàn giao dịch chứng khoán Hồng Kông, đạt giá trị vốn hóa ấn tượng 9 tỷ USD. Đến năm 2017, giá trị vốn hóa tăng vọt hơn 5 lần, lên 51 tỷ USD, với giá cổ phiếu đạt đỉnh 31,39 HKD/cổ phiếu.

Tuy nhiên, đi cùng những thành tựu ấn tượng là gánh nặng nợ khổng lồ. Evergrande trở thành công ty bất động sản nặng nợ nhất thế giới, với hơn 300 tỷ USD nghĩa vụ nợ. Hành trình từ đỉnh cao đến vực sâu của Evergrande là câu chuyện cảnh báo về rủi ro của việc mở rộng quá mức dựa vào nợ tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.

Giá cổ phiếu Evergrande bắt đầu lao dốc không phanh, chỉ còn 0,163 HKD/cổ phiếu trong lần giao dịch cuối cùng cách đây 19 tháng. Vốn hóa thị trường tụt xuống mức 282 triệu USD.


Sau khi vỡ nợ và thất bại trong việc hoàn tất kế hoạch tái cơ cấu, Evergrande bị tòa án Hồng Kông ra lệnh thanh lý vào ngày 29/1/2024. Do không thể khôi phục giao dịch trong vòng 18 tháng theo quy định, công ty chính thức bị hủy niêm yết khỏi Sở Giao dịch Chứng khoán Hồng Kông vào ngày 25/8/2025. Đây là một trong những vụ hủy niêm yết lớn nhất xét về giá trị thị trường và khối lượng giao dịch trong những năm gần đây.

Sự sụp đổ của Evergrande là một phần của cuộc khủng hoảng bất động sản chưa từng có tại Trung Quốc từ năm 2021. Ngành này từng chiếm khoảng 1/4 GDP của Trung Quốc, nhưng hiện đang đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản và nhu cầu thị trường suy giảm.


Evergrande không phải là trường hợp duy nhất. Đầu tháng 8/2025, China South City, một nhà phát triển bất động sản có hậu thuẫn từ nhà nước, cũng nhận lệnh thanh lý từ Tòa án Tối cao Hồng Kông, tiếp nối hàng loạt công ty tư nhân khác.

Nhà kinh tế trưởng Gary Ng của ngân hàng đầu tư Natixis nhận định: “Evergrande là một trong những ví dụ biểu tượng cho sự sụp đổ của ngành bất động sản Trung Quốc. Việc hủy niêm yết không chỉ mang tính biểu tượng mà còn đánh dấu sự kết thúc của kỷ nguyên hoàng kim của lĩnh vực này”.
Trong bối cảnh khủng hoảng, chính quyền Trung Quốc đã nỗ lực vực dậy ngành bất động sản. Tuy nhiên, người mua nhà vẫn đang chờ đợi bàn giao các dự án dang dở, trong khi chủ nợ hy vọng thu hồi vốn.

Giám đốc đầu tư Oscar Choi của Oscar and Partners Capital tại Hồng Kông cho biết: “Rất khó để kích thích nhu cầu tiêu dùng và tâm lý thị trường khi người dân không có tiền trong túi”.

Evergrande hiện từ chối bình luận về tình hình của mình. Trong khi đó, nhiều nhà phát triển bất động sản khác đang tìm cách tránh thanh lý bằng cách kêu gọi sự hỗ trợ từ các chủ nợ để tái cơ cấu nợ.

Sự sụp đổ của Evergrande cũng phản ánh số phận của nhà sáng lập Hui Ka Yan. Từ một kỹ thuật viên luyện thép ở tỉnh Hà Nam, ông vươn lên trở thành một trong những người giàu nhất Trung Quốc.

Tuy nhiên, tháng 3/2024, ông bị cấm vĩnh viễn tham gia thị trường chứng khoán và bị phạt 47 triệu NDT do các cáo buộc gian lận chứng khoán, thổi phồng số liệu và không công bố thông tin kịp thời. Kể từ khi bị bắt vào năm 2023, ông Hui không còn xuất hiện trước công chúng.

Ông Hui Ya Kan - Nhà sáng lập China Evergrande Group.

Các nhà thanh lý hiện đang theo đuổi các vụ kiện để phong tỏa tài sản ở nước ngoài của ông Hui và vợ cũ, đồng thời tìm cách thu hồi 6 tỷ USD tiền cổ tức và thù lao đã chi trả cho ông cùng các cựu lãnh đạo.

Tuy nhiên, quá trình thanh lý có thể kéo dài cả thập kỷ, với tỷ lệ thu hồi nợ cho các chủ nợ được dự báo rất thấp. Tính đến nay, các nhà thanh lý chỉ thu về khoảng 255 triệu USD từ việc bán tài sản ở nước ngoài, bao gồm trái phiếu, thẻ thành viên câu lạc bộ, tác phẩm nghệ thuật và xe hơi. Con số này còn khiêm tốn so với tổng giá trị 45 tỷ USD mà các chủ nợ yêu cầu.


Một vị khách đang xem mô hình khu chung cư tại phòng trưng bày của Tập đoàn Bất động sản Evergrande ở Vũ Hán, tỉnh Hồ Bắc, vào năm 2013. Evergrande là một trong những nhà phát triển bất động sản lớn nhất Trung Quốc. Ảnh: Reuters.

Trong khi đó, sự sụp đổ của Evergrande đã làm tiêu tan hy vọng của nhiều người mua nhà và nhà đầu tư. Một người dùng trên mạng xã hội Douyin chia sẻ: “Tôi đã chọn Evergrande vì nghĩ rằng một công ty lớn như vậy sẽ không thể sụp đổ. Tôi đã sai”.

Vụ hủy niêm yết của Evergrande khép lại một chương trong lịch sử ngành bất động sản Trung Quốc, nhưng cuộc khủng hoảng vẫn chưa có dấu hiệu kết thúc. Ngành này tiếp tục đối mặt với những thách thức lớn, trong khi người mua nhà và chủ nợ vẫn đang chờ đợi một lối thoát.

Tham khảo Reuters
Anh Dũng / Theo: Nhịp sống Thị trường
Link tham khảo:




Monday, December 22, 2025

GERARD JOLING: NHỮNG GIAI ĐIỆU NỒNG ẤM KỶ NIỆM

Chính với nhạc phẩm kinh điển « Jamaica Farewell » (Giã từ Jamaica), Gerard Joling mở màn vòng lưu diễn châu Âu vào mùa thu 2025. Nam danh ca người Hà Lan đã chọn sân khấu làm nơi ăn mừng với giới hâm mộ 40 năm sự nghiệp. Trong số những giai điệu ăn khách của ông, một số bài từng được đặt thêm lời Việt như « Cho em về miền nắng ấm » của nhạc sĩ Phú Quang hay « Lời yêu thương » của tác giả Đức Huy.

Cánh đồng hoa tu-lip, biểu tưởng của Hà Lan. AP - Peter Dejong

Năm nay 65 tuổi, Gerard Joling nổi tiếng tại Hà Lan từ giữa những năm 1980, ban đầu như một ca sĩ và sau đó như một người dẫn chương trình truyền hình. Sinh trưởng tại thị trấn Schagen, (phía bắc Hà Lan) cách thành phố Amsterdam hơn 60 cây số, Gerard Joling ban đầu vào nghề sân khấu như một diễn viên múa, xuất hiện trong nhiều video nhạc pop của các nhóm nhạc trẻ ăn khách tại Hà Lan thời bấy giờ như Earth & Fire hay Dolly Dots.

Dịp may đến với ông vào năm 1985, nhờ lọt vào vòng chung kết chương trình thi hát SoundMixshow của Henny Huisman, Gerard Joling ký được hợp đồng ghi âm chuyên nghiệp đầu tiên. Tuy không về đầu cuộc thi, nhưng Gerard Joling sau đó lại nổi tiếng hơn cả giọng ca đoạt giải nhất. Hai đĩa đơn ghi âm vào năm 1985, bao gồm « Love Is In Your Eyes » (Tình yêu trong đôi mắt) và « Ticket To The Tropics » (Về miền nắng ấm) giúp cho Gerard Joling từng bước chinh phục hạng nhất thị trường Hà Lan.

Bốn năm sau khi thành công tại nước nhà, Gerard Joling thực hiện bước đột phá trên thị trường quốc tế với album phòng thu thứ tư. Tập nhạc « No more bolero's » (1989) thành công lớn tại Hà Lan cũng như ở nước ngoài. Album này đứng đầu bảng xếp hạng tại nhiều nước châu Âu trong nhiều tuần liên tục. Sau khi được mời làm giọng ca đại diện cho Hà Lan nhân Cuộc thi hát Truyền hình châu Âu Eurovision vào năm 1988, Gerard Joling chinh phục thêm thị trường châu Á vào đầu thập niên 1990, trở thành nghệ sĩ Hà Lan ăn khách nhất ở nước ngoài. Nhân một cuộc phỏng vấn gần đây trên kênh truyền hình RTL, Gerard Joling cho biết là tính đến nay anh đã bán được hơn 30 triệu đĩa nhạc, trong đó có một nửa là nhờ vào thành công trên các thị trường châu Á từ cuối những năm 1980.


Song song với nghề ca hát, Gerard Joling càng thêm nổi tiếng một thập niên sau đó nhờ dẫn nhiều show truyền hình, hay làm giám khảo trong các cuộc thi tuyển lựa tài năng mới như « Popstars », Giọng ca hay nhất Hà Lan « The Voice Senior of Holland » hay Ca sĩ mặt nạ « The Masked Singer » …Ban đầu khởi nghiệp hát solo, ông còn nổi tiếng nhờ hợp tac với nhiều tên tuổi khác trong làng giải trí : trong đó thành công nhất vẫn là ban nhạc De Toppers được thành lập lần đầu tiên vào năm 2005, cách đây vừa đúng hai thập niên.

Khi Gerard Joling hợp tác với hai ca sĩ trứ danh khác là René Froger và Gordon Heuckeroth, kế hoạch ban đầu của họ là tổ chức một đêm nhạc chủ đề với những ca khúc nổi tiếng, ba ca sĩ hát luân phiên, tiếp sức cho nhau và thường chỉ biểu diễn một lần duy nhất trên sân vận động. Thế nhưng trước sự thành công vang dội, vượt ngoài mọi dự đoán, nhóm De Toppers tổ chức biểu diễn ở quy mô lớn thường xuyên hơn.

Các đêm nhạc của họ trở thành điểm hẹn hàng năm của giới yêu nhạc nhẹ. Đội hình của nhóm đã thay đổi sau hai thập niên hoạt động và hiện bao gồm Gerard Joling, René Froger, Jeroen Van Der Boom và Jan Smit, chứ không còn có sự tham gia của Gordon Heuckeroth. Mặc dù khá bận rộn với lịch diễn tại châu Âu, nhưng Gerard Joling vẫn sẽ có mặt tại buổi trình diễn của nhóm De Toppers vào mùa Giáng Sinh năm 2025 trên sân vận động thành phố Rotterdam.

Click để nghe "Lời Yêu Thương" - Đức Huy

Trong vòng 40 năm sự nghiệp, Gerard Joling đã ghi âm khoảng 20 album solo và hàng chục album cộng tác với nhiều nghệ sĩ khác. Một trong những tập nhạc hay nhất của ông mang tựa đề « Nostalgia » (Hoài niệm) khi ông thể hiện lại những giai điệu kinh điển trữ tình bằng chất giọng tenor ấm áp du dương của mình. Những bài ca nồng ấm kỷ niệm, từ « Unchained Melody » giai điệu tái sinh cho đến « Love Story» muôn thuở một chuyện tình.

Tuấn Thảo
Theo: RFI Tiếng Việt



RẰM THÁNG 10 LÀ NGÀY GÌ?

Rằm tháng 10 là ngày gì? Câu hỏi được nhiều người quan tâm khi muốn tìm hiểu về các ngày lễ truyền thống của dân tộc Việt Nam. Đây là một trong những ngày rằm quan trọng trong năm, mang đậm giá trị tâm linh và văn hóa.


Trong đời sống tinh hoa của người Việt, các ngày lễ truyền thống luôn đóng vai trò quan trọng trong việc gắn kết gia đình, cộng đồng và cả tâm linh mỗi cá nhân. Một trong những ngày được nhắc đến nhiều đó chính là rằm tháng 10, một dịp có nhiều ý nghĩa đặc biệt để cảm tạ trời đất, thương nhớ tổ tiên và hướng về những giá trị tâm linh. Vậy, rằm tháng 10 là ngày gì? Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng nhau tìm hiểu một cách chi tiết về nguồn gốc, các phong tục tổ chức lễ cúng, cũng như những thông tin liên quan về nghỉ lễ của người lao động trong tháng 10 âm lịch.

Rằm tháng 10 là ngày gì trong văn hóa Việt Nam?

Rằm tháng 10 âm lịch, diễn ra vào ngày 15 tháng 10 âm lịch hàng năm, được biết đến với tên gọi chính thức là Tết Hạ Nguyên. Đây là một trong ba ngày rằm lớn quan trọng nhất trong năm của người Việt, bên cạnh Rằm Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng) và Rằm Trung Nguyên (rằm tháng Bảy).

Tết Hạ Nguyên còn có nhiều tên gọi khác như Tết Cơm mới, Lễ mừng lúa mới, hay Tết Song Thập. Những tên gọi này đều thể hiện bản chất của ngày lễ - một dịp để người dân ăn mừng và tạ ơn cho vụ mùa bội thu.


Rằm tháng 10 âm lịch năm 2025 sẽ rơi vào khoảng đầu tháng 11 năm 2025 theo lịch dương.

Nguồn gốc và ý nghĩa sâu sắc của Tết Hạ Nguyên

Khi tìm hiểu rằm tháng 10 là ngày gì, chúng ta không thể bỏ qua nguồn gốc lịch sử và ý nghĩa tâm linh của ngày lễ này. Theo quan niệm truyền thống của người Việt, rằm tháng 10 là ngày vua Hạ Vũ giải tai ách cho nhân sinh, do đó còn được gọi là "Hạ Nguyên Giải Ách Thuỷ Quan Ðại Ðế Thắng Hội" hay "Hạ Nguyên Thuỷ Quan Thánh Ðản".

Trong tín ngưỡng dân gian, người ta tin rằng vào ngày rằm tháng 10, trên Thiên Đình sẽ cử Thần Tam Thanh xuống trần gian để tra xét những việc làm tốt xấu của con người và báo cáo lại với Ngọc Hoàng. Chính vì thế, đây là dịp để mọi người cầu nguyện cho sự bình an, may mắn và tránh được những tai họa.


Ý nghĩa đối với các tầng lớp xã hội

Đối với nông dân và người lao động

Rằm tháng 10 diễn ra vào thời điểm sau vụ thu hoạch chính trong năm, khi mà người nông dân đã hoàn thành việc gặt lúa mùa. Do đó, ngày này mang ý nghĩa đặc biệt quan trọng như một lễ tạ ơn, nơi người dân thể hiện lòng biết ơn đối với đất trời, thần linh và tổ tiên đã ban cho một vụ mùa bội thu.

Câu ca dao "Rằm tháng Mười, mười người mười quảy" sinh động miêu tả không khí tấp nập, vui tươi của ngày lễ này, khi mọi nhà đều có thực phẩm từ vụ mùa mới để cúng lễ tạ ơn.

Đối với Phật tử và người tu hành

Trong Phật giáo, rằm tháng 10 được coi là một trong tứ trọng ân mà đức Phật đã dạy khi Ngài còn tại thế. Đây là dịp để các Phật tử hướng tâm tu tập, thể hiện lòng tri ân đối với Tam Bảo (Phật - Pháp - Tăng), tổ tiên và cha mẹ.

Ngày này cũng là cơ hội để mọi người kết nối với truyền thống gia đình trong ý nghĩa tri ân và báo ân, nhờ hồng ân chư Phật mười phương gia hộ và tổ tiên ông bà che chở.


Phong tục tập quán trong ngày Tết Hạ Nguyên

Khi hiểu được rằm tháng 10 là ngày gì, việc tìm hiểu các phong tục truyền thống cũng rất quan trọng. Vào ngày này, người dân sẽ sửa soạn các mâm cơm cúng bàn thờ tổ tiên, cúng các vị thần linh đã phù hộ cho mùa màng bội thu và cầu phúc cho gia đình.

Ở một số địa phương, ngày Tết Hạ Nguyên còn được xem là ngày cúng bái để cầu siêu cho linh hồn người thân đã khuất. Sau khi hoàn thành các nghi lễ cúng tạ ơn, cả gia đình sẽ sum họp quanh bếp lửa hồng với một bữa cơm đoàn tụ, ấm cúng, đặc biệt ý nghĩa trong tiết trời se lạnh của mùa đông.

Quy định pháp lý về nghỉ lễ trong ngày rằm tháng 10

Một câu hỏi thường gặp khi tìm hiểu rằm tháng 10 là ngày gì đó là liệu người lao động có được nghỉ làm việc hưởng nguyên lương hay không. Theo quy định tại Điều 112 Bộ luật Lao động 2019, rằm tháng 10 không thuộc danh sách các ngày lễ, tết mà người lao động được nghỉ làm việc hưởng nguyên lương do Nhà nước quy định.


Các ngày nghỉ lễ chính thức bao gồm: Tết Dương lịch, Tết Âm lịch, ngày Chiến thắng, ngày Quốc tế lao động, Quốc khánh và ngày Giỗ Tổ Hùng Vương. Do đó, nếu rằm tháng 10 trúng vào ngày làm việc bình thường, người lao động vẫn phải làm việc và không được nghỉ.

Tuy nhiên, người lao động có thể được phép nghỉ nếu chính sách công ty có quy định riêng hoặc có thể làm đơn xin nghỉ hưởng lương hoặc nghỉ không hưởng lương.

Giá trị văn hóa và tâm linh của Tết Hạ Nguyên

Hiểu được rằm tháng 10 là ngày gì giúp chúng ta nhận thức sâu sắc hơn về giá trị văn hóa truyền thống. Tết Hạ Nguyên không chỉ là một ngày lễ đơn thuần mà còn thể hiện triết lý sống của người Việt - luôn biết ơn và tri ân.

Ngày lễ này khuyến khích mọi người dừng lại trong cuộc sống bận rộn để nhìn nhận lại những gì mình đã có, cảm ơn thiên nhiên, tổ tiên và những người đã giúp đỡ mình. Đồng thời, đây cũng là dịp để gia đình sum họp, gắn kết tình cảm và truyền đạt những giá trị đạo đức tốt đẹp cho thế hệ trẻ.


Sự khác biệt giữa ba ngày rằm lớn trong năm

Trong hệ thống các ngày rằm quan trọng của người Việt, mỗi ngày đều có ý nghĩa riêng biệt. Rằm Thượng Nguyên (rằm tháng Giêng) tập trung vào việc cầu may mắn cho năm mới, Rằm Trung Nguyên (rằm tháng Bảy) là dịp cúng cô hồn và cầu siêu cho các linh hồn, còn Rằm Hạ Nguyên (rằm tháng 10) chú trọng vào việc tạ ơn và tri ân.

Tạm kết

Qua những thông tin trên, chúng ta đã có câu trả lời đầy đủ cho câu hỏi rằm tháng 10 là ngày gì. Tết Hạ Nguyên không chỉ là một ngày lễ truyền thống mà còn là biểu tượng của lòng biết ơn, tinh thần tri ân và giá trị gia đình trong văn hóa Việt Nam. Dù thời đại có thay đổi, những giá trị cốt lõi này vẫn luôn được gìn giữ và truyền nối qua các thế hệ.

Tuấn Vương / Theo: FPTshop

TỤC NGỮ: "KHÔN ĐÂU ĐẾN TRẺ, KHỎE KHÔNG ĐẾN GIÀ", Ý NGHĨA SÂU XA LÀ GÌ?

Trong kho tàng tục ngữ Việt Nam, có những câu nghe qua tưởng đơn giản nhưng càng sống lâu càng thấy đúng, thấy thấm. “Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” là một trong những câu như thế. Chỉ vỏn vẹn vài chữ, nhưng chứa đựng cả một triết lý nhân sinh về tuổi tác, sự trưởng thành và quy luật tự nhiên mà chẳng ai có thể cưỡng lại.


Quy luật tự nhiên của từng độ tuổi

Trẻ con chưa có đủ trải nghiệm để khôn ngoan như người lớn. Người già dù trí tuệ sâu sắc nhưng sức khỏe không còn như thuở thanh xuân. Nhưng nếu chỉ hiểu như vậy thì quá nông. Người xưa gửi gắm vào câu tục ngữ này một bài học sâu hơn: mỗi lứa tuổi đều có ưu điểm và hạn chế riêng, và quan trọng nhất là biết trân trọng giá trị của giai đoạn mình đang sống.

Tuổi trẻ mạnh mẽ, nhiệt huyết nhưng thiếu kinh nghiệm. Tuổi già từng trải, khôn ngoan nhưng sức lực giảm sút. Đó là quy luật tự nhiên, không ai tránh được.

Cái thiếu của tuổi trẻ và cái hơn của tuổi già

Người trẻ thường có sức lực, nhiệt huyết và cái “tôi” mạnh mẽ. Vì chưa trải qua nhiều phong ba nên dễ nảy sinh tâm lý tự mãn, nghĩ mình giỏi giang, nghĩ người khác không bằng mình. Không ít bạn trẻ ngày nay cũng vậy: tài năng có, nhưng trải đời lại ít; nhiệt tình có, nhưng sự thấu đáo còn thiếu.

Cái thiếu của tuổi trẻ không phải là trí thông minh, mà là độ sâu của trải nghiệm.

Người già không còn khỏe mạnh, nhưng họ có điều mà người trẻ chưa có: sự lắng đọng, sự trầm tĩnh, khả năng nhìn xa hơn một bước, hiểu đời thấu đáo hơn. Họ biết rằng:

Dù mình có giỏi đến đâu, vẫn còn người giỏi hơn. Dù mình có mạnh đến mấy, cũng không thể thắng nổi thời gian. Và mọi việc trong đời đều cần sự khiêm tốn và bình tĩnh.

Cái thiếu của tuổi trẻ không phải là trí thông minh, mà là độ sâu của trải nghiệm. Ảnh internet.

Những trải nghiệm được trả giá bằng thời gian giúp họ hiểu đời theo cách mà người trẻ chưa thể hiểu ngay được.

Tuy nhiên, cũng có những người tuổi cao nhưng kinh nghiệm sống lại hạn hẹp, lòng kiêu ngạo lớn. Lại có những người còn rất trẻ nhưng biết khiêm tốn học hỏi, tự rèn luyện, nên trí tuệ sâu sắc hơn nhiều người lớn tuổi. Và cũng có những người tuổi trẻ nhưng sức khỏe đã suy kiệt vì lối sống buông thả, nghiện ngập, không biết quý trọng chính mình.

Vậy nên sức khỏe và trí tuệ không hoàn toàn phụ thuộc vào tuổi tác, mà còn nằm ở cách mỗi người tu dưỡng bản thân.

Lời kết

“Khôn đâu đến trẻ, khỏe đâu đến già” không phải là câu nói phân biệt tuổi tác. Trái lại, nó nhắc ta rằng, người trẻ hãy biết khiêm tốn, chăm chỉ học hỏi, đừng tự mãn khi mình mới chỉ biết một phần rất nhỏ của cuộc đời. Người lớn tuổi hãy bao dung và chỉ dạy, bởi những gì mình biết đã được đúc rút từ cả một đời, đáng để sẻ chia.

Người lớn tuổi hãy bao dung và chỉ dạy, bởi những gì mình biết đã được đúc rút từ cả một đời, đáng để sẻ chia. Ảnh minh họa.

Mỗi người, ở mỗi giai đoạn, hãy biết trân trọng chính mình: trân trọng sức khỏe khi còn trẻ, trân trọng trí tuệ khi về già.

Khi tuổi trẻ biết học hỏi từ tuổi già, và tuổi già biết nâng đỡ tuổi trẻ, đó chính là lúc sức mạnh của tập thể và của gia đình được phát huy trọn vẹn.

Khai Tâm biên tập
Theo: vandieuhay

Sunday, December 21, 2025

ĐÔNG CHÍ - NGÀY THANH TẨY CỦA NGƯỜI NHẬT

Ngày Đông chí được gọi là Toji trong tiếng Nhật, là ngày đánh dấu thời điểm chuyển mùa. Người Nhật có nhiều tập tục truyền thống vào Đông chí để giữ ấm cơ thể và để đánh dấu một ngày đặc biệt trong năm. Hôm nay hãy cùng Shizen tìm hiểu thêm về những tập tục này nhé!


Đông chí ở Nhật

Ngày Đông chí được gọi là Toji trong tiếng Nhật, là ngày có đêm dài nhất trong năm, đánh dấu thời điểm chuyển mùa. Trước ngày Đông chí, ban ngày thường khá ngắn. Sau ngày này, thời gian ban ngày trở nên dài hơn, ánh mặt trời chiếu sáng lâu hơn.


Người Nhật coi ngày Đông chí như thời điểm con người và thiên nhiên được tiếp thêm sức sống mới. Thời điểm chuyển từ ngày ngắn sáng ngày dài cũng mang ý nghĩa chuyển từ tiêu cực sang tích cực và người người sẽ gặp thêm nhiều may mắn trước thềm năm mới.

Người Nhật có nhiều tập tục truyền thống trong ngày Đông chí để giữ ấm cơ thể, tránh bị bệnh khi thời tiết ngày càng lạnh và để đánh dấu ngày đặc biệt này trong năm.

Tắm yuzu


Người Nhật rất thích tắm. Văn hóa tắm onsen của người Nhật đã nổi tiếng trên khắp thế giới. Tới ngày Đông chí, người Nhật cho thêm vào nước tắm những lát yuzu – một loại quả họ cam chanh. Tắm yuzu đã trở thành truyền thống ngày Đông chí tại Nhật Bản. Tập tục này được cho là có từ thời Edo (1603-1868).


Những trái yuzu chứa nhiều vitamin C, rất tốt cho cơ thể. Chúng giúp tăng sức đề kháng chống lại cảm lạnh và cảm cúm trong mùa đông. Những trái yuzu còn mang lại hương thơm đặc trưng cho nước tắm.

Những thứ có mùi thơm giống như Yuzu được cho là xua đuổi được tà khí. Thời điểm khi mặt trời tái sinh mọi người thường thanh lọc cơ thể bằng việc tắm nước Yuzu, xua đuổi tà khí cầu mong bình an vô sự (sức khỏe). Người Nhật có thói quen ăn yuzu và xát những lát yuzu lên da khi tắm trong ngày Đông chí.

Ăn bí đỏ

Món ăn đặc trưng trong ngày Đông chí tại Nhật Bản là bí đỏ, tên trong tiếng Nhật là kabocha.

Phong tục ăn bí đỏ được bắt đầu từ thời Edo. Thời đó, bí đỏ đọc chữ Hán là “Nankin”. Vì chữ “n” có nghĩa là “Mang theo vận may tới” nên ăn bí đỏ được cho là “Sẽ có điều tốt lành tới”. Người Nhật cho rằng sau ngày đông chí, mặt trời sẽ được tái sinh và vận may sẽ tới. Trong từ Nankin, chữ “n” xuất hiện 2 lần nên vào ngày đông chí mọi người thường ăn bí đỏ và cầu mong sự may mắn sẽ đến với mình.


Ở Nhật Bản, mùa của bí đỏ là mùa hè, nhưng vì có thể bảo quản được lâu nên vẫn có thể ăn được bí đỏ tới tận ngày đông chí. Những vitamin trong bí đỏ còn có tác dụng tăng sức đề kháng, phòng bệnh trong mùa đông.

Ngoài ra, người Nhật còn ăn những món ăn chế biến từ các loại rau củ mang ý nghĩa may mắn như cà rốt, củ cải trắng, mì udon, hạt bạch quả.

Đi đền cầu may

Xuất phát từ quan điểm ngày Đông chí là thời điểm kết thúc mùa đông, khởi đầu mùa xuân. Cũng như kết thúc những điều tồi tệ để chờ đón những điều tốt đẹp. Người Nhật thường đến các ngôi đền để xin vật cầu may Ichiyoraifuku. Từ ngày Đông chí tới ngày Setsubun (ngày 3/2 năm sau), một số ngôi đền Nhật Bản sẽ bán những vật cầu may cho người dân.


Tại Tokyo, ngôi đền bán vật cầu may được nhiều người dân tìm tới là đền Ana Hachimangu. Đây còn là ngôi đền thờ vị thần của sự giàu có, của cải nên những vật cầu may tại đây còn được cho là mang tới vận may về tài chính cho người dân.

Theo: Shizen

ĐẾ CHẾ 180 TỶ USD BỊ QUẬT NGÃ VÌ "NHỮNG DÒNG EXCEL": CỔ PHIẾU GIẢM GẦN 320 LẦN VỀ CÒN BẰNG "CỐC TRÀ ĐÁ"

Từng là biểu tượng của kỷ nguyên viễn thông Mỹ, WorldCom vươn lên đỉnh cao bằng tốc độ thâu tóm thần tốc và niềm tin của Phố Wall. Nhưng chỉ trong chớp mắt, đế chế ấy sụp đổ khi sự thật về những “con số phù phép” trong sổ sách kế toán bị phơi bày. Từ niềm tự hào của giới đầu tư, WorldCom trở thành biểu tượng cho lòng tham, sự dối trá và cú sập đau đớn nhất lịch sử doanh nghiệp Mỹ.


WorldCom – từng là gã khổng lồ viễn thông và là nhà cung cấp dịch vụ đường dài lớn thứ hai tại Mỹ – đã trở thành tâm điểm của một trong những vụ gian lận kế toán lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ. Sự sụp đổ của tập đoàn này không chỉ khiến thị trường chứng khoán toàn cầu chấn động, mà còn làm dấy lên nghi ngờ sâu sắc về đạo đức kinh doanh và năng lực giám sát tài chính tại Mỹ đầu thế kỷ 21.
Câu chuyện của WorldCom bắt đầu năm 1983 tại bang Mississippi, khi Bernie Ebbers – một cựu giáo viên thể dục – cùng một nhóm đối tác sáng lập công ty LDDS (Long Distance Discount Service), chuyên cung cấp dịch vụ điện thoại đường dài giá rẻ.

Dưới sự lãnh đạo của Ebbers, LDDS theo đuổi chiến lược thâu tóm táo bạo, dùng cổ phiếu thay cho tiền mặt để mua lại hàng loạt đối thủ nhằm mở rộng quy mô nhanh chóng. Chỉ trong nửa đầu thập niên 1990, công ty đã mua hơn 35 doanh nghiệp và đổi tên thành WorldCom vào năm 1995.

Trong chưa đầy một thập kỷ, WorldCom hoàn tất hơn 60 thương vụ thâu tóm, trong đó có thương vụ nổi bật với MCI Communications trị giá 37 tỷ USD. Ở thời kỳ đỉnh cao, WorldCom đạt vốn hóa thị trường gần 180 tỷ USD, giá cổ phiếu đạt 60 USD, và Ebbers trở thành tỷ phú với khối tài sản 1,4 tỷ USD.


Tuy nhiên, ánh hào quang nhanh chóng phai nhạt. Năm 2000, thương vụ sáp nhập trị giá 129 tỷ USD với Sprint bị giới chức Mỹ ngăn chặn vì lo ngại độc quyền. Cùng lúc đó, bong bóng dot-com nổ tung khiến cổ phiếu viễn thông lao dốc, đẩy WorldCom vào khủng hoảng.

Để giữ giá cổ phiếu và duy trì niềm tin của nhà đầu tư, ban lãnh đạo đã chỉ đạo thao túng sổ sách kế toán. Cốt lõi của hành vi gian lận là việc chuyển chi phí hoạt động (operating expenses) – như chi phí thuê đường truyền – thành chi phí đầu tư (capital expenditures), giúp thổi phồng lợi nhuận.

Nhờ thủ thuật này, WorldCom báo lãi 1,6 tỷ USD năm 2001 thay vì khoản lỗ 1,2 tỷ USD, và tiếp tục báo lãi 172 triệu USD trong quý I/2002. Ban đầu, công ty thừa nhận gian lận 3,8 tỷ USD trong giai đoạn 1999–2002, nhưng con số thực tế sau đó được xác định vượt 11 tỷ USD. Ngoài ra, WorldCom còn rút quỹ dự phòng để giảm chi phí báo cáo, che giấu tình trạng tài chính thua lỗ.
Vụ bê bối bị phát hiện giữa năm 2002 nhờ Cynthia Cooper – phó chủ tịch bộ phận kiểm toán nội bộ của WorldCom. Trong quá trình kiểm tra sổ sách, Cooper cùng đồng nghiệp Gene Morse phát hiện nhiều khoản mục bất thường, đặc biệt là chi phí “prepaid capacity” – một thuật ngữ kế toán mơ hồ.

Bất chấp sự ngăn cản từ giám đốc tài chính Scott Sullivan, Cooper vẫn tiếp tục điều tra bí mật vào ban đêm và báo cáo phát hiện của mình lên ủy ban kiểm toán cùng kiểm toán viên độc lập KPMG. Kết quả điều tra đã vạch trần vụ gian lận kế toán quy mô khổng lồ, khiến cả thị trường tài chính Mỹ rúng động. Năm 2002, tạp chí Time vinh danh Cynthia Cooper là “Nhân vật của năm” vì lòng dũng cảm và tinh thần liêm chính.

Bernard Ebbers, WorldCom CEO.

Tháng 4/2002, Bernie Ebbers buộc phải từ chức CEO, một phần vì ông nợ WorldCom hơn 400 triệu USD. Khi vụ bê bối vỡ lở, công ty đang gánh khoản nợ 41 tỷ USD, cùng áp lực lớn từ các chủ nợ như JPMorgan Trust, Mellon Bank và Citibank.

Tháng 7/2002, WorldCom nộp đơn phá sản theo Chương 11 với tổng tài sản hơn 107 tỷ USD – vụ phá sản doanh nghiệp lớn nhất lịch sử Mỹ tại thời điểm đó. Cổ phiếu rơi từ 63,5 USD xuống chỉ còn 0,20 USD (khoảng 5.000 đồng, tương đương giá 1 cốc trà đá ở thời điểm hiện tại), khiến nhà đầu tư thiệt hại hơn 180 tỷ USD và hơn 17.000 nhân viên mất việc.

Năm 2005, Ebbers bị kết án 25 năm tù vì lừa đảo chứng khoán và gian lận kế toán. CFO Scott Sullivan nhận án 5 năm tù sau khi nhận tội và ra làm chứng chống lại sếp cũ. Nhiều lãnh đạo khác của công ty cũng bị truy tố.

Cùng với vụ Enron, bê bối WorldCom đã tạo sức ép lớn buộc Quốc hội Mỹ phải cải tổ mạnh mẽ hệ thống giám sát doanh nghiệp. Năm 2002, Đạo luật Sarbanes–Oxley (SOX) ra đời, tăng cường minh bạch tài chính, quy trách nhiệm cá nhân cho lãnh đạo và siết chặt chế tài đối với gian lận kế toán.

Sau khi phá sản, WorldCom đổi tên thành MCI vào năm 2003, thoát khỏi tái cơ cấu năm 2004 và đến 2006 được Verizon Communications mua lại.

Vụ bê bối WorldCom là lời cảnh tỉnh sâu sắc cho giới doanh nhân và nhà đầu tư toàn cầu. Tăng trưởng thiếu kiểm soát và đạo đức kinh doanh yếu kém có thể biến “kỳ tích” thành thảm họa. Trong thế giới doanh nghiệp, lợi nhuận có thể là ảo, nhưng trách nhiệm, minh bạch và niềm tin thì luôn là thật.

Hồng Duy (Tổng hợp)
Theo: Nhịp Sống Thị Trường
Link tham khảo: