Nhân sinh vô căn đế
Phiêu như mạch thượng trần
Phân tán trục phong chuyển
Thử dĩ phi thường thân
Lạc địa vi huynh đệ
Hà tất cốt nhục thân?
Đắc hoan đương tác nhạc
Đấu tửu tụ tỉ lân
Thịnh niên bất trùng lai
Nhất nhật nan tái thần
Cập thời đương miễn lệ
Tuế nguyệt bất đãi nhân
雜詩其一
人生無根蒂
飄如陌上塵
分散逐風轉
此已非常身
落地為兄弟
何必骨肉親
得歡當作樂
斗酒聚比鄰
盛年不重來
一日難再晨
及時當勉勵
歲月不待人
Thơ tạp kỳ 1
(Dịch thơ: Trần Trọng Dương)
Bụi người chẳng biết từ đâu
Phiêu linh ấy cũng một màu thế nhân
Tơi bời theo gió xoay vần
Cái thân bụi bặm là thân vô thường.
Kết anh em há đường cốt nhục?
Ai cũng là mảy tục trần gian
Khi vui khúc nhạc cung đàn
Xóm giềng tụ tập uống tràn canh thâu.
Mùa này được mùa sau lại mất
Một ngày khó hai lúc bình minh,
Vụ mùa mình gắng sức mình
Thoi đưa ngày tháng chùng chình chi đâu
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Đào Tiềm 陶潛 (365-427) người đất Tầm Dương đời Tấn, tự Uyên Minh 淵明. Có sách nói ông vào đời Tấn, tên là Uyên Minh 淵明, tự Nguyên Lượng 元亮, đến đời Tống (Nam Bắc triều) đổi tên thành Tiềm 潛. Đời sau, do phạm huý với vua Cao Tổ đời Đường là Lý Uyên 李淵 nên người ta còn gọi ông là Đào Thâm Minh 陶深明 hay Đào Tuyền Minh 陶泉明. Ông tự hiệu Ngũ liễu tiên sinh 五柳先生, thuỵ hiệu Tĩnh tiết tiên sinh 靖節先生. Khi làm quan lệnh tại Bành Trạch, phải đứng đón chào viên đốc bưu do quận thú phái đến, Đào Tiềm than rằng “Ta tại sao lại vì năm đấu gạo mà chịu gãy lưng?”, bèn trả ấn, từ quan.
Sách Tấn thư chép Đào Tiềm là người đất Sài Tang đời Tấn (nay thuộc Cửu Giang, Giang Châu), tính tình cao thượng, không cần danh lợi, ham học, giỏi thơ văn. ông có soạn truyện Ngũ liễu tiên sinh để tự ví mình. Nhà nghèo có cha mẹ già, ông phải ra làm chức Tế tửu - chức quan nhỏ trong huyện, nhưng không chịu gò bó nên từ quan về nhà. Về sau, ông lại ra làm huyện lệnh Bàng Trạch, được hơn 80 ngày, nhân cuối năm phái viên đốc hưu (chức quan giúp quan quận thú coi việc kiểm tra đôn đốc các huyện trong quận) đến huyện, nha lại khuyên ông ăn mặc chỉnh tề để đốc hưu. Ông ngậm ngùi than rằng: “Ngã khởi năng vị ngũ đấu mễ chiết yêu quyển quyển sự hương lý tiểu nhân đa” (Ta sao lại có thể vì năm đấu gạo mà phải chịu còng lưng, vòng tay thờ bọn tiểu nhân nơi thôn xóm ấy ru!). Rồi ngay hôm ấy ông trả ấn bỏ quan mà về. Sau khi từ quan về, ông hay ẩn nằm ngũ dưới cửa sổ đằng bắc, tự coi mình là người đời Hy Hoàng. Ông vui cảnh an bần lạc đạo, lấy tiếng đàn, câu thơ, chén rượu làm vui. Tính ông chuộng cúc, cứ đến ngày trùng cửu (mùng 9/9), ông lại cùng bạn bè bày tiệc rượu bên khóm trúc để thưởng hoa.
Nguồn: Thi Viện



