Dạ ẩm Đông Pha tỉnh phục tuý,
Quy lai phảng phất tam canh,
Gia đồng tỵ tức dĩ lôi minh.
Xao môn đô bất ứng,
Ỷ trượng thính giang thanh.
Trường hận thử thân phi ngã hữu,
Hà thì vong khước doanh doanh?
Dạ lan phong tĩnh hộc văn bình.
Tiểu chu tòng thử thệ,
Giang hải ký dư sinh.
臨江仙-夜歸臨皋
夜飲東坡醒復醉,
歸來彷彿三更,
家童鼻息已雷鳴。
敲門都不應,
倚杖聽江聲。
長恨此身非我有,
何時忘卻營營?
夜闌風靜縠紋平。
小舟從此逝,
江海寄餘生。
Lâm giang tiên
Đêm về Lâm Cao
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Đông Pha chợt tỉnh chợt say.
Đêm về rượu nhạt đã tày canh ba.
Gia đồng gọi cửa chẳng ra.
Gáy to như sấm trong nhà chẳng nghe.
Khuya gậy cất bước ngoài hè.
Tiếng sông thao thức, vắng hoe đêm trường.
Một thân nào phải vấn vương.
Nào đâu theo đuổi bước đường vinh hoa.
Canh khuya tĩnh mịch cửa nhà.
Thuyền nan bé nhỏ trôi xa bến bờ.
Một thân sống gửi thác nhờ.
Đời thừa còn mãi bơ vơ chốn này.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Tô Thức 蘇軾 (1037-1101) tự Tử Chiêm 子瞻, Hoà Trọng 和仲, hiệu Đông Pha cư sĩ 東坡居士, người đời thường gọi là Tô Đông Pha 蘇東坡, thuỵ Văn Trung 文忠, người My Sơn (nay thuộc tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc). Ông từng làm quan Thông phán, Thái thú. Cha là Tô Tuân, em là Tô Triệt, đều là các đại gia thi văn, đương thời người ta gọi là Tam Tô. Thái độ của ông rất hào sảng lạc quan, tuy ông làm quan thăng giáng nhiều lần, song ông không để ý, vẫn ưu du tự tại, đọc sách làm vui, ông là người giàu tình cảm, cho nên phản ánh tới từ của ông, vừa hào phóng lại vừa tình tứ. Ông là người có tài nhất trong số bát đại gia của Trung Hoa (từ thế kỷ VII đến thế kỷ XIII, gồm có Hàn Dũ, Liễu Tông Nguyên đời Đường, Âu Dương Tu, Tô Tuân (cha Tô Thức), Tô Thức, Tô Triệt (em Tô Thức), Vương An Thạch và Tăng Củng), khoáng đạt nhất, tư tưởng và tính tình cũng phức tạp nhất.
Nguồn: Thi Viện



