Sunday, November 23, 2025

CÁC LỤC ĐỊA CHÌM ĐƯỢC TÌM THẤY CHO BIẾT LỤC ĐỊA HUYỀN THOẠI LEMURIA LÀ CÓ THẬT

Các nhà khoa học đã phát hiện ra ít nhất HAI lục địa chìm trên Trái Đất. Việc phát hiện ra những lục địa này đã thay đổi cách chúng ta nhìn nhận về lịch sử Trái Đất, cung cấp bằng chứng mới mà nhiều tác giả đã giải thích là tài liệu chỉ ra thực tế rằng các lục địa huyền thoại như Lemuria, Mu và Atlantis là có thật.


Các lục địa bí ẩn và bị con người lãng quên

Hầu hết chúng ta đều quen thuộc với những truyền thuyết về Atlantis, Lemuria và Mu. Theo nhiều truyền thuyết và văn bản, Trái Đất là nơi có nhiều lục địa đã bị ‘thất lạc’ trong quá khứ xa xôi. Một trong số đó là lục địa Lemuria, một vùng đất rộng lớn được cho là trải dài từ Ấn Độ đến Úc—trước khi có lịch sử được viết ra.

Giống như Atlantis, vùng đất cổ đại này đã biến mất trong những hoàn cảnh bí ẩn và bị con người lãng quên từ hàng chục ngàn năm trước.

Vào thế kỷ 19, một nhà địa chất người Anh tên là Philip Sclater đã đề cập đến sự tồn tại của một khối đất liền chìm có tên là Lemuria.

Trong một bài viết có tên là ‘Động vật có vú ở Madagascar’ – được viết vào năm 1864, Sclater đã đề cập rằng hóa thạch vượn cáo cực kỳ phong phú ở Madagascar và Ấn Độ, nhưng kỳ lạ thay, những hóa thạch này lại không có ở Châu Phi và Trung Đông. Quan sát này khiến Sclater đề xuất rằng tại một thời điểm trong quá khứ xa xôi, Ấn Độ và Madagascar từng là một phần của một lục địa rộng lớn hơn được gọi là Lemuria.

Có rất nhiều nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng, bất chấp ý tưởng về trôi dạt lục địa, các lục địa chìm vẫn tồn tại trên Trái Đất.

Gần đây, các nhà khoa học đã có một khám phá đáng kinh ngạc ở phía đông Úc: Một lục địa có diện tích khoảng 5 TRIỆU km vuông và đã ẩn mình trong tầm nhìn trong NHIỀU THỜI GIAN. Chỉ một phần nhỏ của lục địa—khoảng 5 phần trăm—là có thể nhìn thấy ngày nay.

Các chuyên gia cho rằng ngày nay, chỉ có 5 phần trăm lục địa hùng vĩ một thời này là có thể nhìn thấy được, đó là lý do tại sao các nhà nghiên cứu đã bỏ lỡ nó trong quá khứ xa xôi. Khu vực này chủ yếu là vùng đất chìm ở Thái Bình Dương và bao gồm cả New Zealand và vùng lãnh thổ hải ngoại New Caledonia của Pháp.

“Lemuria” trong văn học thần bí dân tộc Tamil, nối liền Madagascar, Nam Ấn Độ và Úc (bao phủ hầu hết Ấn Độ Dương)

“Đây không phải là một khám phá đột ngột mà là một nhận thức dần dần; chỉ mới 10 năm trước, chúng tôi sẽ không có đủ dữ liệu tích lũy hoặc sự tự tin trong việc giải thích để viết bài báo này ”, các nhà nghiên cứu đã viết như vậy trên GSA Today, một tạp chí của Hiệp hội Địa chất Hoa Kỳ.

Nhưng có nhiều bằng chứng hơn cho thấy có sự tồn tại của các lục địa chìm trên Trái Đất. Nếu chúng ta quan sát khu vực giữa đất liền Ấn Độ và Sri Lanka, chúng ta sẽ thấy một cấu trúc địa chất kỳ lạ. Nằm ở eo biển Palk, Ấn Độ Dương, có một khu vực địa lý cụ thể, một dải đất mỏng nối liền miền Nam Ấn Độ với Sri Lanka. Nó được gọi là “Cầu Adam”.

Cầu Adam được cho là tàn tích của một cây cầu cổ đại trước thời kỳ lũ lụt. Có thể đây là cây cầu đầu tiên được xây dựng trên Trái Đất. Hơn nữa, người ta tin rằng hình ảnh vệ tinh do NASA cung cấp cho thấy những gì chúng ta thấy thực chất có thể là một cây cầu bị sập, hiện đã chìm một phần dưới đại dương.

Tiến sĩ Badrinarayanan, cựu giám đốc của Cục Khảo sát Địa chất Ấn Độ đã tiến hành khảo sát công trình này và kết luận rằng nó là do con người tạo ra. Tiến sĩ Badrinarayanan và nhóm của ông đã khoan 10 lỗ khoan dọc theo đường thẳng của Cầu Adam.

Những gì ông phát hiện ra thật đáng kinh ngạc. Khoảng 6 mét dưới bề mặt, ông tìm thấy một lớp đá sa thạch vôi, san hô và các vật liệu giống như tảng đá. Nhóm của ông đã rất ngạc nhiên khi phát hiện ra một lớp cát rời, sâu hơn khoảng 4-5 mét và sau đó là các khối đá cứng bên dưới.

Một nhóm thợ lặn đã xuống để kiểm tra thực tế cây cầu. Những tảng đá mà họ quan sát được không phải là thành phần của một đội hình biển điển hình. Chúng được xác định là đến từ cả hai bên của con đê. Tiến sĩ Badrinarayanan cũng chỉ ra rằng có bằng chứng về hoạt động khai thác đá cổ xưa ở những khu vực này. Nhóm của ông kết luận rằng vật liệu từ cả hai bờ đã được đặt trên đáy cát của nước để tạo thành con đê. 

Theo truyền thống Ấn Độ giáo, “dải đất” này là một cây cầu do thần Rama của Ấn Độ giáo xây dựng, như được kể trong sử thi Ramayana của Ấn Độ giáo. Trên thực tế, từ thời xa xưa, nó được gọi là “Cầu Rama” hoặc “Rama Setu”.

Cầu Adam nhìn từ không gian, ảnh: NASA

Sử thi Ramayana của Ấn Độ kể về câu chuyện về cây cầu đất liền và cách nó được xây dựng để phục vụ thần Rama của Ấn Độ giáo, nhằm giúp ngài vượt qua mặt nước để đến hòn đảo lớn và giải cứu người mình yêu khỏi nanh vuốt của quỷ vương Ravana.

Đây là câu chuyện về tình yêu, những hành động dũng cảm và những công trình đáng kinh ngạc như vẻ bề ngoài của nó. Rama là một trong những biểu hiện nổi tiếng nhất của Chúa tối cao và được công nhận là hình ảnh, tinh thần và ý thức của Ấn Độ giáo, một trong những tôn giáo lâu đời nhất trên thế giới.

Những câu chuyện nhiều lần được diễn giải là sự thật về cuộc đời của Rama được kể lại trong Ramayana, một sử thi tiếng Phạn cổ, được dịch theo nghĩa đen là “Hành trình của Rama”, kể về thời kỳ các vị thần trên tàu (Vimana) và những người khổng lồ đi trên trái đất. Bằng chứng về Vimana và những người khổng lồ đã được tìm thấy trên khắp thế giới, ở nhiều quốc gia khác nhau.

Bằng chứng về các lục địa đã mất và nền văn minh cổ đại?

Theo các nhà nghiên cứu, lục địa Lemuria tách khỏi đất liền vào thời điểm nào đó trong kỷ Mesozoi do mực nước dâng cao. Thật kỳ lạ, theo Viện Hải dương học Quốc gia Ấn Độ, mực nước biển thấp hơn khoảng 100 mét vào khoảng 15.000 năm trước.

Điều này dẫn đến một trận lụt lớn cuối cùng đã dẫn đến sự biến mất không chỉ của toàn bộ một lục địa mà còn của toàn bộ nền văn minh từng tồn tại trên Trái Đất trong quá khứ xa xôi. Theo Tamilnet, lục địa Lemuria được gọi là “Kumari Kandam” trong văn học Tamil cổ đại.

Tiếng Tamil là một trong những ngôn ngữ cổ điển trên thế giới. Tiếng Tamil có lịch sử liên tục trong hơn 2000 năm và tiếng Tamil được công nhận là ngôn ngữ cổ điển ở Ấn Độ (bên cạnh tiếng Phạn).

Tiếng Tamil không thuộc hệ ngôn ngữ Ấn-Âu.

Giáo sư Shanmugathas cho biết: “Người ta có thể tưởng tượng được sức mạnh và quy mô của cơn sóng thần cần thiết để nhấn chìm một vùng núi từng tồn tại ở vành đai ven biển cổ đại của thế giới Tamil” .

Lục địa cổ Kumari Kandam được cho là đã tồn tại ở phía nam Ấn Độ ngày nay, hiện nằm bên dưới Ấn Độ Dương. Người Tamil được cho là đã lan rộng khắp thế giới, tạo ra các nền văn minh khác sau khi Kumari Kandam biến mất. Có một số tên gọi mà các lục địa này có, tùy thuộc vào cách viết, có thể thay đổi từ Kumari Kandam, Kumarikkantam và Kumari Nadu. Từ ‘Kumari Kandam’ lần đầu tiên được đề cập trong phiên bản Skanda Purana vào thế kỷ 15 – Mahāpurāṇa lớn nhất, một thể loại gồm mười tám văn bản tôn giáo Hindu – và được viết bởi Kachiappa Sivacharyara (1350-1420).

Điều thú vị là nhiều tác giả chỉ ra rằng người Tamil thuộc về nền văn minh lâu đời nhất trên bề mặt hành tinh và khi lục địa Kumari Kandam bị chìm vào biển, người dân ở đây đã di cư đến các nơi khác trên hành tinh và thành lập nên nhiều nền văn minh khác nhau.

4 lục địa biến mất khỏi trái đất. Ảnh giaoducthoidai

Các lục địa đã mất: trước đây là huyền thoại giờ đã trở thành hiện thực

Một lục địa cổ đại từng nằm giữa Ấn Độ và Madagascar gần đây đã được tìm thấy nằm rải rác dưới đáy Ấn Độ Dương. Theo các chuyên gia, ba tỷ năm trước, một lục địa đã bao phủ đại dương nơi đảo Mauritius của Đông Phi hiện nằm.

Các chuyên gia đã đi đến kết luận này sau khi phân tích những mảnh khoáng chất nhỏ có niên đại 3.000 TRIỆU năm. Trong một số tảng đá của đảo Mauritius, quê hương của nước cộng hòa cùng tên, bạn có thể tìm thấy những mảnh khoáng chất nhỏ có niên đại khoảng 3.000 triệu năm. Điều này hẳn không quan trọng nếu không phải vì hòn đảo trẻ, có nguồn gốc từ núi lửa, chỉ mới khoảng bảy đến mười triệu năm tuổi? Vậy những mảnh đá đó đến từ đâu và làm sao chúng có thể già đến vậy?

Theo các chuyên gia, nguồn gốc của chúng nằm ở một “lục địa đã mất” nằm dưới hòn đảo, như các nhà nghiên cứu từ Đại học Witwatersrand (Nam Phi) giải thích trong một tuyên bố.

Bạn nghĩ sao? Có thể là hàng chục ngàn năm trước—thậm chí có thể là xa hơn nữa trong lịch sử, các nền văn minh cổ đại đã tồn tại trên các lục địa như Atlantis, Mu và Lemuria không?

Các nghiên cứu gần đây đã chứng minh rằng trong quá khứ xa xôi, khối đất liền của Trái Đất rất khác so với ngày nay, đây là một trong những lý do chính khiến nhiều tác giả và nhà nghiên cứu cho rằng không có gì vô lý khi nghĩ rằng các nền văn minh cổ đại như Atlantis từng tồn tại ở đâu đó trên Trái Đất.

Mỹ Mỹ / Theo: ancient-code
Link tham khảo:




Saturday, November 22, 2025

TRANH CỦA ĐƯỜNG BÁ HỔ ĐƯỢC BÁN VỚI GIÁ CAO NGẤT; CHUYÊN GIA: PHÓNG TO LÊN THÌ KHÔNG PHẢI LÀ TRANH

Những bức tranh gốc của Đường Bá Hổ được bán đấu giá với giá cao ngất ngưởng. Khi phóng đại bức tranh lên rồi quan sát các chuyên gia phải thốt lên rằng: đây cơ bản không phải là tranh vẽ…

Nguồn ảnh: soundofhope

‘Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương’ là một bộ phim nổi tiếng, hẳn rất nhiều người đã từng xem qua. Bộ phim này thể hiện tinh tế một Đường Bá Hổ với hình tượng tài tử phong lưu, đa số người xem đều chú ý đến tính cách phong lưu mà không chú trọng đến tài hoa của ông. Kỳ thực Đường Bá Hổ là một nhà thư pháp, thi nhân, họa sĩ nổi tiếng thời nhà Minh.

Phong cách hội họa của Đường Bá Hổ rất độc đáo, ông kết hợp giữa hai trường phái hội họa phía Bắc và phía Nam, với nét vẽ tỉ mỉ, bố cục phóng khoáng, phong cách tao nhã, màu sắc tươi tắn, giỏi vẽ phong cảnh, vẽ chim bằng mực, vẽ nhân vật. Ông rất có thiên phú trong lĩnh vực hội họa và đạt được không ít thành tựu.

Tranh vẽ Đường Bá Hổ. (Ảnh: Sound Of Hope)

Tuy nhiên, nửa đời sau của Đường Bá Hổ sống rất nghèo khó, vất vả, dựa vào bán tranh vẽ để kiếm sống, hết sức gian khổ.

Khi Đường Bá Hổ còn sống, không một ai đánh giá cao những bức tranh của ông, nhưng sau khi ông mất, những bức tranh của ông đã được bán với giá cao ngất trời. Cuối những năm 1980, bức tranh ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’ của ông đã được bán đấu giá ở Hoa Kỳ với giá 660.000 USD, so với thời điểm đó thì giá này vô cùng đắt đỏ.

Có chuyên gia đã từng phóng to bức ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’, sau khi nhìn vào đã kinh ngạc thốt lên rằng: Đây căn bản không phải là tranh! Vẽ thật sự quá giống như thật. Cành lá trong tranh rất rõ ràng, đường vân của lá và thân cây vô cùng chi tiết. Nhìn bức tranh từ xa người ta cảm nhận được ý vị tuyệt vời, nhìn gần sẽ cho người ta cảm giác rung động sâu sắc.

Một phần của bức tranh ‘Sơn tĩnh nhật trường đồ’, (Ảnh: Sound Of Hope)

Hiện tại những bức thư pháp và tranh của Đường Bá Hổ còn quý hơn nữa. Bức ‘Tùng nhai biệt nghiệp đồ quyển’ của ông đã được bán với giá 71,3 triệu nhân dân tệ vào năm 2013. Những ai có thể sở hữu các tác phẩm gốc của Đường Bá Hổ thì đều rất trân quý.

Ai đã từng xem bộ phim ‘Đường Bá Hổ Điểm Thu Hương’ thì đều biết rằng Đường Bá Hổ trong phim có rất nhiều thê thiếp, cuộc sống vô cùng giàu có khiến nhiều người ngưỡng mộ. Nhưng thực tế cuộc sống của Đường Bá Hổ hoàn toàn ngược lại.

Cha của Đường Bá Hổ là một thương nhân, thời nhà Minh, địa vị của thương nhân không cao, nhưng cuộc sống của gia đình họ cũng không nghèo khổ. Cho đến khi cha ông mất, gia đình bắt đầu sa sút, không lâu sau mẹ và chị gái của ông cũng lần lượt qua đời. Đường Bá Hổ không hề có nhiều thê thiếp, cũng chưa từng theo đuổi Thu Hương, nửa đời sau của ông vô cùng túng thiếu, khổ cực.

Một phần của bức tranh Tùng nhai biệt nghiệp đồ quyển’. (Ảnh: Sound Of Hope)

Chỉ bất quá nửa đời trước ông có cuộc sống như ý, khi cưới được vợ vừa trẻ vừa đẹp, thi đậu Trạng nguyên, sau đó ông bị người ta hãm hại làm lỡ mất con đường làm quan. Sau khi bị vợ bỏ, Đường Bá Hổ bắt đầu mất hy vọng vào cuộc sống, đắm chìm trong tửu sắc, thậm chí trước khi chết cũng không có tiền để mai táng bản thân mình.

Cuộc đời của ông không khỏi khiến người khác phải xúc động, những bức “tranh nhưng không phải tranh” của Đường Bá Hổ chính là những miêu tả chân thực trong cuộc đời của ông, là thái độ bất bình đối với sự nghiệp lận đận của mình, thổ lộ cảm xúc có tài nhưng không gặp thời, cũng là nửa đời lao tao cùng khổ nạn.

Nghệ thuật thực sự cần phải rèn luyện cả đời, muốn đạt được trình độ đó thì phải trải qua những khó khăn gian khổ trong cuộc sống. Chính vì vậy ông mới có thể vẽ ra những tác phẩm sâu sắc và tạo ra sự khác biệt. Tài năng của Đường Bá Hổ thực sự đáng khâm phục, những thành tựu nghệ thuật của ông là không thể thay thế và rất khó vượt qua.

Đăng Dũng biên tập
Nguồn: tinhhoa

THÙ TRƯƠNG THIẾU PHỦ - VƯƠNG DUY


Thù Trương thiếu phủ

Vãn niên duy hiếu tĩnh,
Vạn sự bất quan tâm.
Tự cố vô trường sách,
Không tri phản cựu lâm.
Tùng phong xuy giải đới,
Sơn nguyệt chiếu đàn cầm.
Quân vấn cùng thông lý,
Ngư ca nhập phố thâm.


酬張少府

晚年惟好靜
萬事不關心
自顧無長策
空知返舊林
松風吹解帶
山月照彈琴
君問窮通理
漁歌入浦深


Mời rượu huyện úy họ Trương
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Tuổi già ưa những an nhàn.
Thế gian trăm sự, chẳng màng quan tâm.
Ưa gì mưu chước uyên thâm.
Rừng xưa trở lại, tùng lâm vui cùng.
Gió bay giải mũ lạnh lùng.
Trăng soi đầu núi, vui chung tiếng đàn.
Thông cùng đạo lý nhân gian.
Tiếng ca ngư phủ mênh mang bến bờ.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Vương Duy 王維 (699-759) tự là Ma Cật 摩詰, người huyện Kỳ (thuộc phủ Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây). Cha mất sớm, mẹ là một tín đồ thờ Phật suốt ba mươi năm nên Vương Duy chịu ảnh hưởng tư tưởng của đạo Phật. Ông tài hoa từ nhỏ, đàn hay, vẽ giỏi, chữ đẹp, văn chương xuất chúng.

Nguồn: Thi Viện



"KỲ QUAN THỊ GIÁC" NGHÌN NĂM TUỔI Ở ẤN ĐỘ

Giếng bậc thang hơn 1.000 năm tuổi Chand Baori ở Ấn Độ được xem là kỳ quan thị giác bởi thiết kế kỳ ảo và hùng vĩ.


Chand Baori, một giếng bậc thang tuyệt đẹp nằm ở làng Abhaneri, Rajasthan, không chỉ là một kiệt tác kiến trúc cổ xưa của Ấn Độ mà còn là một biểu tượng điện ảnh.

Được xây dựng vào thế kỷ 8 và 9 dưới thời vua Chanda của triều đại Nikumbh, công trình kiến trúc kỳ diệu này đã mê hoặc du khách suốt nhiều thế kỷ.

Trong lòng giếng bậc thang Chand Baori. (Ảnh: Tripadvisor)

Trong những năm gần đây, Chand Baori đã trở nên nổi tiếng toàn cầu nhờ xuất hiện trong các bộ phim như The Dark Knight Rises và Bhool Bhulaiyaa, nơi vẻ đẹp huyền bí của nó trở thành phông nền hoàn hảo cho những cảnh quay đầy bí ẩn và hùng vĩ.

Chand Baori là một trong những giếng bậc thang sâu nhất thế giới, với độ sâu khoảng 30 mét, với 13 tầng tạo thành từ 3.500 bậc thang sắp xếp theo hình đối xứng hoàn hảo.

Các bậc thang của giếng Chand Baori được xếp đối xứng hoàn hảo, tạo nên kỳ quan thị giác. (Ảnh: Wikipedia)

Cấu trúc hình kim tự tháp ngược của Chand Baori là một kỳ quan thị giác, nhưng điều làm tăng thêm vẻ huyền bí chính là bầu không khí xung quanh. Không khí bên trong giếng bậc thang mát mẻ hơn so với bề mặt, và âm thanh vang vọng lên từ độ sâu tạo nên một không gian có chút rợn ngợp.

Nước ở dưới đáy có màu xanh lục đặc biệt, một ngôi đền chạm trổ ở trung tâm với những đường vòng cung tối tăm đầy bí ẩn. Nhiệt độ dưới đáy giếng luôn thấp hơn nhiệt độ bên trên từ 5 đến 6 độ C.

Nước ở dưới đáy giếng Chand Baori có màu xanh lục đặc biệt. (Ảnh: Tripadvisor)

Cấu trúc của các bậc thang được thiết kế để đảm bảo rằng người dân có thể tiếp cận với nước vào bất kỳ thời điểm nào trong năm và từ mọi phía, đồng thời nhằm tiết kiệm nước nhiều nhất có thể.

Ngoài ra nó còn có một ý nghĩa về toán học, thậm chí thiên văn học cho đến nay, các chuyên gia vẫn chưa lý giải được bí ẩn của trí tuệ người xưa.

Toàn cảnh miệng giếng bậc thang Chand Baori nhìn từ trên cao. (Ảnh: Wikipedia)

Kể từ khi xuất hiện trong một số bộ phim, Chand Baori trở thành điểm du lịch nổi tiếng thu hút du khách từ khắp nơi trên thế giới.

Hoa Vũ / Nguồn: Times of India



CÁ TRÈN BẦU KHO TỘ VÙNG SÔNG NƯỚC CỬU LONG

Những địa danh nổi tiếng về khô và mắm cá trèn ở miền Tây như: An Giang (Châu Đốc), Rạch Giá… được mọi người trong và ngoài nước biết đến.

Cá trèn bầu làm sạch.

Tùy theo hình dáng, kích cỡ, cá trèn có những tên gọi khác nhau như: cá trèn lá, trèn mỡ, trèn kết (cá kết), trèn bầu… Trong các loại cá trèn, có thể nói con cá trèn bầu là ngon hơn cả vì thịt nhiều, ngon ngọt, ít xương. Ngoài 2 cục thịt nạc gù lên trên sống lưng, ta còn phải kể đến phần bụng (cái nọng) rất béo của cá.

Cá trèn rất dễ chế biến món ăn. Nếu là cá trèn lá (nhỏ con, mình dẹp, ít thịt) thì làm mắm hay lăn bột chiên dầm nước mắm tỏi ớt; còn những con lớn hơn như trèn kết, trèn bầu thì làm khô, kho mẳn (kho lạt), kho nghệ… Nhưng ấn tượng không thể xóa nhòa trong tôi là những buổi trưa hè khi đi học về, mồ hôi còn nhễ nhại được má “đãi” cho món canh bầu nấu tép bạc đất cùng món cá trèn bầu kho tộ.

Cá trèn bầu kho tộ.

Theo má, cá mua ở chợ phải chọn cá tươi (con lớn mới béo, ngon) đem về làm sạch, để ráo. Ướp gia vị (đầu hành lá giã nhuyễn, muối, đường tán, đường thốt nốt càng ngon vì có mùi vị đặc trưng, bột ngọt, ớt, nước màu…) cho vừa khẩu vị, để cá ngấm khoảng 5 phút. Cho nước mắm ngon (nước mắm Phú Quốc) vào ngập xâm xấp với cá, nêm cho vừa ăn. Đặt tộ lên bếp với ngọn lửa liu riu cho đến khi nước cá sền sệt là nhắc xuống. Để cho nước cá có độ sánh hấp dẫn – cũng theo má – trước khi nước cá hơi cạn thì cho thêm một ít nước cơm sôi vào. Cuối cùng, cho dầu ăn, một ít tiêu xay, vài trái ớt hiểm chín là xong…

Chỉ cần dùng đũa giẽ một miếng cá trèn cho vào miệng nhai chậm rãi, bạn sẽ cảm nhận vị ngọt, béo của cá, vị thơm nồng của tiêu thấm dần vào vị giác… Và một miếng cơm nóng có chan miếng nước canh bầu vào “lùa” một hơi, tôi đoán chắc bạn sẽ nhớ mãi món ăn dân dã của miệt đồng bằng sông nước Cửu Long này.

Hữu Tưởng / Theo: laodong

Friday, November 21, 2025

"DƯA CHÍN CUỐNG RỤNG"

Trong cuộc sống, mọi điều đều có định số, đều được an bài từ trước. Mỗi cuộc gặp gỡ, mỗi đoạn đường ta đi qua, tất cả đều không hề ngẫu nhiên. Cây có mùa ra hoa, trái có thời điểm kết quả; khi nào chín, khi nào thu hoạch, đều đã có quy luật của tự nhiên. Ý nghĩa của câu thành ngữ “Dưa chín cuống rụng” chính là như vậy.

Cảm ngộ thành ngữ Trung Hoa “Dưa chín cuống rụng”

Mỗi vụ dưa đều có số ngày định sẵn: bao lâu thì chín, bao lâu thì thu. Chỉ đợi đến đúng thời, dưa mới ngọt, ăn mới ngon. Nếu nóng vội hái sớm, dưa sẽ nhạt, chẳng ai muốn mua, người trồng cũng thất thu.

Trong đời, nhiều lúc ta cứ hay nóng nảy cưỡng cầu, muốn mọi thứ đến thật nhanh, muốn thành công chỉ sau một đêm, muốn đi đường tắt, mới gieo trồng đã mong đến ngày gặt hái. Nhưng quên rằng, mọi việc đều có thời của nó: hoa nở hoa tàn có mùa, quả chín quả rụng có lúc. Càng cưỡng cầu, lòng càng thêm phiền não, tâm càng thêm bất an.

Càng cưỡng cầu, lòng càng thêm phiền não, tâm càng thêm bất an. Ảnh minh họa.

Người làm việc mà không chuyên chú, chỉ làm qua loa đại khái, lại mong có kết quả tốt, được khen ngợi, đó là điều không thực tế. Người mới quen nhau vài lần đã vội tỏ tình, tình cảm chưa đủ sâu, chưa qua thử thách, thì khó mà bền lâu. Bởi chưa từng cùng nhau trải qua gian khó, sao có thể biết lòng người có thật sự thủy chung?

Thông thường, càng nóng vội bao nhiêu thì càng dễ thất bại bấy nhiêu; càng mong cầu bao nhiêu lại càng dễ thất vọng bấy nhiêu. Đại sự muốn thành, phải học cách nhẫn nại; muốn cuống rụng, phải đợi đến ngày dưa chín; muốn bền lâu, phải trải qua thử thách. Muốn thành công, phải chấp nhận đôi lần thất bại. Có như vậy, khi hái được quả ngọt, ta mới thấy vui, thấy đáng, thấy đời có ý nghĩa.

Mọi thứ đều cần thời gian để “chín”: tri thức cần tích lũy, kinh nghiệm cần rèn luyện, tâm tính cần tôi luyện qua thử thách, duyên phận cũng cần chờ đúng thời điểm. Người còn non nớt mà vội vàng khởi nghiệp, tất khó thành công; tình cảm quá gấp gáp, khó mà bền vững; người học đạo mà thiếu kiên trì, thì chẳng thể ngộ được đạo lý sâu xa.

Cũng như nghề nông, xuân gieo hạt, hạ chăm bón, thu mới gặt quả ngọt. Nếu cưỡng cầu nghịch thời, chẳng khác nào “bứt dây hái quả” — trái chưa kịp ngọt mà đã hỏng.

Cũng như nghề nông, xuân gieo hạt, hạ chăm bón, thu mới gặt quả ngọt. Ảnh minh họa.

Trong kiếp nhân sinh này, kiên nhẫn chính là một loại trí tuệ. Nó không chỉ giúp ta vững vàng trước khó khăn, mà còn đem lại bình yên và hòa thuận cho những người quanh mình. Bởi ta hiểu rằng, “dưa chín cuống rụng” không chỉ là một câu nói, mà là cả một triết lý sống — dạy ta biết đợi, biết thuận theo, biết tin rằng mọi việc, khi đủ duyên, tự nhiên sẽ thành.

Khai Tâm biên tập
Theo: vandieuhay

TỐNG NHÂN ĐÔNG DU - ÔN ĐÌNH QUÂN


Tống nhân đông du

Hoang thú lạc hoàng diệp,
Hạo nhiên ly cố quan.
Cao phong Hán Dương độ,
Sơ nhật Dĩnh Môn sơn.
Giang thượng kỷ nhân tại,
Thiên nhai cô trạo hoàn.
Hà đương trùng tương kiến,
Tôn tửu ủy ly nhan.


送人東遊

荒戍落黃葉
浩然離故關
高風漢陽渡
初日郢門山
江上幾人在
天涯孤棹還
何當重相見
樽酒慰離顏


Tiễn người sang đông
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Đồn hoang, vàng lá rụng rơi.
Cố Quan từ biệt, thảnh thơi lên đường.
Gió lay, cây động Hán Dương.
Dĩnh Môn tìm tới, tan sương dạng ngày.
Trên sông còn lại ai đây !.
Buồm côi thấp thoáng chân mây cuối trời.
Bao giờ gặp lại được người.
Chén sầu ly biệt thay lời chia xa.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Ôn Đình Quân 溫庭筠 (812-870) vốn tên Kỳ 岐, tự Phi Khanh 飛卿, người Thái Nguyên đời Vãn Đường (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), là cháu của tể tướng Ôn Ngạn Bác 溫彥博. Ông tinh thông âm nhạc, là một thi nhân tài tử mẫn tiệp, từ trẻ đã nổi danh thi từ nhưng thi không đỗ nên đi chu du đây đó. Từ của ông lời rất đẹp, phái Hoa gian liệt ông vào người đứng thứ nhất đời Đường. Tác phẩm của ông có Hán Nam chân cảo và Ác Lan tập, song đều tán lạc không còn.

Nguồn: Thi Viện





ĐÓN NHẬN KHÓ KHĂN: "KHI CUỘC SỐNG TRAO CHO BẠN NHỮNG QUẢ CHANH"

Khi cuộc sống trở nên khó khăn, hãy kiên trì vượt qua, và bạn vẫn có thể biến những khó khăn đó thành điều tốt đẹp nhất.

Luôn có cơ hội cho chúng ta tìm thấy điều gì đó tích cực trong những thời điểm khó khăn của cuộc sống. (Ảnh: Biba Kayewich)

“Đời trao ta trái chanh,
Đó là lẽ thường tình.
Bạn hữu nhìn ái ngại,
Nghĩ rằng ta buông xuôi.
Nhưng rồi họ gặp lại,
Dưới bóng mát an nhàn
Ta ung dung thư thái
Nhấm nháp ly nước chanh.”

(Trích từ Tạp chí Rotarian, thuộc Rotary International, năm 1940)

Có thể bạn là người thích thưởng thức trực tiếp những trái chanh, mà không cần bất cứ thứ gì làm dịu đi vị chua của chúng. Nếu vậy thì bạn thật cừ — bạn có thể chấp nhận những cay đắng cuộc đời như bản chất vốn có của nó. Tuy nhiên, đa số mọi người lại thích nước chanh hơn. Đó là lý do khiến câu châm ngôn thời nay, “Khi cuộc sống trao cho bạn những trái chanh, hãy pha thành ly nước chanh,” trở nên phổ biến.

Trong những năm gần đây, chủ đề về “grit” (vững tâm bền chí) đã trở thành một phần quan trọng trong các cuộc thảo luận rộng rãi, đặc biệt là khi người ta ngày càng lo ngại về sự “mềm yếu” của người Mỹ. (Bằng chứng là, nếu bạn tìm kiếm từ “grit” trong danh mục “Sách” trên Amazon, bạn sẽ nhận được hơn 10,000 kết quả.) Câu châm ngôn này là một cách lạc quan để đón nhận khái niệm về sự vững tâm bền chí, về sự kiên trì đến phút cuối, và về việc cắm một chiếc nĩa thật đẹp vào tất cả những quả chanh đó để vắt lấy nước chanh. Hãy lưu ý rằng, có bằng chứng không thể chối cãi là chanh có lợi cho sức khỏe của bạn!

Nhà văn Dale Carnegie và chút tiểu sử về ông

Ông Dale Carnegie được biết đến nhiều nhất với cuốn sách mang tính bước ngoặt — “Đắc Nhân Tâm” (How to Win Friends and Influence People). Khi còn nhỏ, mỗi lần nghe đến tên cuốn sách này, tôi lại cảm thấy rất khó chịu, cho rằng cuốn sách bàn về những cách có thể là phi đạo đức để tiến thân trong đời. Nhưng sau khi đọc kỹ nội dung, tôi nhận ra nhà văn Carnegie là một người có đạo đức cao thượng. Ông chủ yếu viết về vai trò của nhân cách trong việc xây dựng các mối quan hệ bền chặt, và vượt qua những khó khăn trong cách đối nhân xử thế. Nói ngắn gọn thì cuốn sách “Đắc Nhân Tâm” bàn về việc phát triển bản thân, một trong những điều khó nhất và quan trọng nhất để làm trong đời.

Không có gì ngạc nhiên khi ông Dale Carnegie chính là người đã phổ biến câu châm ngôn quen thuộc ngày nay. Câu nói này xuất hiện trong một cuốn sách tuyệt vời khác của ông, “Quẳng Gánh Lo Đi và Vui Sống,” (How to Stop Worrying and Start Living), trong đó viết rằng: “Nếu bạn có một quả chanh, hãy pha một ly nước chanh.”

Câu nói này, với nhiều biến thể khác nhau, từng xuất hiện trên các ấn phẩm trước đó. Chẳng hạn như trên Tạp chí Rotary vừa được trích dẫn, hay trong cuốn “Hồ Sơ Chủng Viện Auburn” (Auburn Seminary Record) năm 1916, trong đó viết, “Kẻ bi quan [là] người uống hết viên thuốc đắng, kẻ lạc quan là người pha một ly nước chanh từ trái chanh được trao.” Một phiên bản trước đó, năm 1909, trong Tạp chí Literary Digest viết: “Thiên tài là người đón nhận những quả chanh mà Số Phận đưa cho họ và mở một quầy bán nước chanh.”

Có lẽ một số độc giả còn nhớ câu nói này từng xuất hiện trong chương trình quảng cáo Super Bowl năm 2020 cho một loại nước chanh có ga, trong đó có hình ảnh những quả chanh bắt đầu rơi từ trên trời xuống. Chủ đề của quảng cáo này là: Năm 2020 là “một năm đầy những quả chanh chua chát” vì đại dịch [Covid-19], đó là lý do vì sao bây giờ có một loại nước giải khát seltzer chanh mới ra đời — “nước chanh” được làm từ tất cả những quả chanh đó.

Dưới đây là vài cách tuyệt vời để đón nhận những quả chanh mà cuộc đời ném vào bạn và pha chúng thành những ly nước chanh.

Quả chanh từ tai ương sức khỏe

Bản thân tôi và các thành viên trong gia đình nhận thấy rằng, việc phát sinh những vấn đề về sức khỏe thường là cơ hội tuyệt vời để lùi lại một bước và nhìn nhận lại những điều cần phải thay đổi trong cuộc sống. Suy cho cùng, một vấn đề về sức khỏe có thể là cơ thể đang cố gắng nói với bạn điều gì đó. Chẳng hạn, “Này, chậm lại nào!” hoặc “Này, nạp ít caffeine thôi để tôi có thể ngủ ngon hơn!” hay “Này, hãy xem nhẹ mọi thứ một chút, bạn sẽ bớt căng thẳng hơn đấy,” hoặc “Hãy dành thêm thời gian cho thiên nhiên hoặc gia đình,” .v.v.

Và trong những trường hợp này, thật tuyệt khi nhận ra rằng, quả chanh mà cuộc đời trao cho bạn thực sự có thể giúp bạn khiến cuộc sống này giống ly nước chanh hơn chút — ngọt ngào hơn một chút, tốt đẹp hơn một chút, và vui tươi hơn rất nhiều.

Luôn có cơ hội cho chúng ta tìm thấy điều gì đó tích cực trong những thời điểm khó khăn của cuộc sống. (Ảnh: Biba Kayewich)

Quả chanh từ những khó khăn tài chính

Không ai muốn lâm vào tình cảnh khó khăn tài chính, nhưng hãy đối diện với nó, điều này xảy ra với hầu hết chúng ta vào một thời điểm nào đó trong đời. Mặc dù thử thách này có thể khó chấp nhận hơn chút, nhưng nếu những khó khăn tài chính có thể giúp chúng ta phát triển khả năng tự kiểm soát bản thân trong việc lập ngân sách và đưa ra các lựa chọn sống, và nếu đây là điều chúng ta có thể làm gương cho con cháu mình — thì “nước chanh” từ “quả chanh” này có thể chảy qua nhiều thế hệ.

Bản thân tôi và chồng nhận thấy rằng, những thói quen quản lý tiền bạc của chúng tôi chịu ảnh hưởng trực tiếp từ cha mẹ — từ cả cuộc đời quan sát những gì họ làm gương, và thấm nhuần trong tâm cách họ đối xử với chúng tôi (dù họ có nuôi dưỡng tâm lý nuông chiều hay không). Đối với những ai đang tìm cách xoay chuyển tình thế khó khăn theo hướng này, thì bạn có thể thử tham khảo những cuốn sách của ông Dave Ramsey, nếu chưa từng đọc — ông đã giúp đỡ rất nhiều người [trong lĩnh vực quản lý tài chính cá nhân].

Quả chanh từ những người độc hại

Có thể, đôi khi bạn trở về nhà sau giờ tan làm, và thật khó để gạt bỏ khỏi tâm trí cuộc chạm trán căng thẳng với cấp trên hay đồng nghiệp. Tâm trạng tiêu cực đó có thể sẽ tràn vào cuộc sống của gia đình bạn. Chà, đây có thể là lúc để bạn nhìn lại và tự hỏi, “Liệu xung quanh mình có đủ những người tích cực không? Những người lạc quan và sẵn lòng giúp đỡ?” Nếu câu trả lời là không, thì có lẽ đã đến lúc tìm kiếm một mạng lưới trợ giúp tích cực — chẳng hạn như tham gia một nhóm sinh hoạt ở nhà thờ, câu lạc bộ sách, nhóm đan móc, hoặc câu lạc bộ bowling.

Mặc dù thay đổi công việc có thể không khả thi — nhưng đó cũng có thể là lựa chọn lành mạnh đáng cân nhắc — dẫu vậy, chúng ta vẫn có thể tìm cách “vắt được chút nước chanh” từ tình huống hiện tại.

Môi trường làm việc hoặc môi trường gia đình căng thẳng cũng có thể là lý do tuyệt vời để bắt đầu viết nhật ký biết ơn, ca ngợi những điều tốt đẹp và phước lành. Dù điều này nghe có vẻ ngớ ngẩn đối với một số người, nhưng cảm xúc biết ơn đã được chứng minh là có tác động tích cực đến cơ thể.

Hãy nhớ câu nói “Khi cuộc sống trao cho bạn những quả chanh, hãy pha một ly nước chanh.” Dù nghe có vẻ sáo rỗng, nhưng câu nói này thực sự có thể giúp chúng ta vượt qua những thời điểm khó khăn và đạt đến thành công. Nhà văn Dale Carnegie từng nói rất hay rằng: “Xây dựng thành công từ những thất bại. Sự chán nản và thất bại là hai bước đệm chắc chắn nhất dẫn tới thành công.”

Vậy nên, hãy tận hưởng ly nước chanh đó. Nước chanh sẽ chẳng thể trở thành thức uống tuyệt vời nếu thiếu mất vị chua làm nền tảng.

Hữu Minh biên dịch
Theo: epochtimesviet
Link tiếng Anh:

Thursday, November 20, 2025

NGUỒN GỐC Ỷ THIÊN KIẾM TRONG TIỂU THUYẾT KIM DUNG CÓ TỪ NHÀ ĐƯỜNG?

Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký (Cô Gái Đồ Long) của Kim Dung, có một truyền thuyết nổi tiếng: “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không tuân! Ỷ Thiên bất xuất, ai dám tranh phong?” Câu này nhắc đến “Đồ Long” chính là đao Đồ Long, còn “Ỷ Thiên” là kiếm Ỷ Thiên. Thực tế, hai món thần binh này đều có nguồn gốc sâu xa.


Chúng ta hãy cùng xem diễn biến của hai thần binh này dưới ngòi bút của Kim Dung ra sao:

Ỷ Thiên Kiếm

Ỷ Thiên Kiếm xuất hiện lần đầu trong bài thơ Tư Mã Tướng Quân Ca của Lý Bạch đời Đường: “Tay cầm kiếm Ỷ Thiên lấp lánh như tia chớp, chém thẳng khiến nước biển rẽ đôi.” Sau này, trong Tam Quốc Diễn Nghĩa (hồi 41: Lưu Huyền Đức đưa dân vượt sông, Triệu Tử Long một mình cứu chúa), Ỷ Thiên kiếm cũng được nhắc đến:

“Tào Tháo có hai thanh bảo kiếm: một gọi là ‘Ỷ Thiên’, một gọi là ‘Thanh Cương’. Kiếm Ỷ Thiên do chính Tào Tháo đeo, còn kiếm Thanh Cương giao cho Hạ Hầu Ân mang. Thanh Cương sắc bén vô song, chém sắt như chém bùn.”

Trong Ỷ Thiên Đồ Long Ký của Kim Dung, Ỷ Thiên là một danh kiếm, bên trong cất giấu Cửu Âm Chân Kinh cùng toàn bộ tinh hoa võ học của Quách Tĩnh và Hoàng Dung. Thanh kiếm này thuộc sở hữu của Quách Tương, con gái Quách Tĩnh. Quách Tương luôn mang kiếm bên mình, sau này sáng lập phái Nga Mi, khiến Ỷ Thiên kiếm trở thành bảo vật truyền phái.

Bí mật về việc dùng đao kiếm chém nhau để lấy sách bên trong chỉ có chưởng môn phái Nga Mi biết. Sau đó, cao thủ phái Nga Mi là Cô Hồng Tử thách đấu với Dương Tiêu nhưng thất bại và qua đời, Ỷ Thiên kiếm rơi vào tay triều đình Nguyên. Thanh kiếm được quan địa phương cướp đi, dâng lên triều đình, và cuối cùng được ban cho Nữ Dương Vương Sát Hãn Đặc Mục Nhĩ (cha của Triệu Mẫn). Sau này, Diệt Tuyệt Sư Thái đoạt lại kiếm, dẫn đến câu nói của Triệu Mẫn: “Thanh kiếm này là do phái Nga Mi trộm từ nhà ta.”


Sau trận chiến ở Quang Minh Đỉnh, Triệu Mẫn bắt giữ người phái Nga Mi, và kiếm Ỷ Thiên lại rơi vào tay cô. Tại Băng Hỏa Đảo, Chu Chỉ Nhược dùng mưu đoạt cả đao và kiếm, lấy được bí kíp bên trong, nhưng kiếm Ỷ Thiên bị gãy làm đôi. Sau đó, Trương Vô Kỵ ra lệnh cho thợ rèn của Minh Giáo sửa lại kiếm, nhưng họ từ chối vì thanh kiếm này từng được dùng để giết nhiều huynh đệ Minh Giáo.

Kiếm Ỷ Thiên từ lâu đã mang danh “Ỷ Thiên bất xuất, ai dám tranh phong.”

Đồ Long Đao

Vào ngày thành Tương Dương thất thủ, Quách Phá Lỗ, con trai Quách Tĩnh, cầm đao Đồ Long chiến đấu và hy sinh tại đây. Từ đó, đao Đồ Long lưu lạc giang hồ và vì câu truyền thuyết trên mà gây ra vô số tranh đoạt. Đao này đầu tiên rơi vào tay Du Đại Nham, tam đệ tử của Trương Tam Phong.

Du Đại Nham định mang đao về Võ Đang giao cho sư phụ xử lý, nhưng trên đường bị Ân Dã Vương (cậu của Trương Vô Kỵ) dùng kế cướp mất, giao cho Ân Tố Tố (mẹ Trương Vô Kỵ). Ân Tố Tố, con gái giáo chủ Thiên Ưng Giáo, tổ chức đại hội “Dương Đao Lập Uy” tại Vương Bàn Sơn.

Trong đại hội, Trương Thúy Sơn (ngũ đệ tử Trương Tam Phong, cha Trương Vô Kỵ) cũng có mặt. Kim Mao Sư Vương Tạ Tốn dùng tiếng “Sư Tử Hống” làm mọi người bất tỉnh, cướp đao Đồ Long, bắt Trương Thúy Sơn và Ân Tố Tố đi, định tìm nơi yên tĩnh để nghiên cứu bí mật của đao: “Võ lâm chí tôn, bảo đao Đồ Long, hiệu lệnh thiên hạ, không ai dám không tuân, Ỷ Thiên bất xuất, ai dám tranh phong.” Sau đó, họ gặp nạn trên biển, trôi dạt đến Băng Hỏa Đảo xa xôi, nơi Tạ Tốn khổ tâm nghiên cứu bí mật của đao.

Mười năm sau, Trương Vô Kỵ cùng cha mẹ trở về Võ Đang. Vài năm sau, Tạ Tốn mang đao Đồ Long quay lại Trung Nguyên. Lúc này, võ lâm xảy ra nhiều biến cố lớn: sáu đại môn phái vây đánh Quang Minh Đỉnh, Triệu Mẫn bắt giữ sáu đại phái và đoạt Ỷ Thiên kiếm từ tay phái Nga Mi.

Trương Vô Kỵ cùng Tiểu Chiêu và Triệu Mẫn đến Linh Xà Đảo đón Tạ Tốn, lúc này đã được Kim Hoa Bà Bà đưa đến đảo. Sau một trận giao tranh với người Ba Tư, Trương Vô Kỵ đoạt được Thánh Hỏa Lệnh. Kim Hoa Bà Bà và Tiểu Chiêu (con gái bà, cũng là thánh nữ Minh Giáo Ba Tư) buộc phải trở về Ba Tư, nơi Tiểu Chiêu tiếp nhận vị trí giáo chủ.

Sau đó, Chu Chỉ Nhược, truyền nhân phái Nga Mi, dùng Thập Hương Nhuyễn Cân Tán trộm từ Triệu Mẫn để đánh mê mọi người, giết Ân Ly (sau này được xác nhận là chưa chết), và bỏ Triệu Mẫn trên thuyền nhỏ để tự sinh tự diệt. Khi tỉnh lại, Trương Vô Kỵ và Tạ Tốn cho rằng Triệu Mẫn là thủ phạm, vô cùng oán hận.

Thực ra, Tạ Tốn đã nghe được việc Chu Chỉ Nhược trộm thuốc trên thuyền, nhưng vì tính mạng của nghĩa tử (Trương Vô Kỵ) nằm trong tay cô nên đành im lặng. Trong trận chiến ở Thiếu Lâm, Tạ Tốn khắc toàn bộ sự việc lên vách đá trong ngục.

Chu Chỉ Nhược dùng đao kiếm chém nhau, lấy được binh thư và bí kíp võ công, luyện thành Cửu Âm Bạch Cốt Trảo độc ác từ Cửu Âm Chân Kinh. Tại đại hội anh hùng ở Thiếu Lâm, cô đánh bại quần hùng, giành danh hiệu võ công đệ nhất thiên hạ. Tuy nhiên, khi lấy Cửu Âm Chân Kinh và Vũ Mục Di Thư, Ỷ Thiên và Đồ Long chém nhau, khiến cả hai thần binh gãy thành bốn mảnh.


Sau này, mưu kế của Chu Chỉ Nhược bị vạch trần, cô định rời khỏi Thiếu Lâm. Lúc này, Thiếu Lâm bị quân Mông Cổ vây đánh, Trương Vô Kỵ dẫn người cứu viện và bất ngờ thu hồi được bốn mảnh đao kiếm.

Ngô Kình Thảo, chưởng kỳ sứ của Nhuệ Kim Kỳ, vốn là thợ rèn, am hiểu đúc đao kiếm, kỹ thuật đúc kiếm vô song. Bí quyết nằm ở việc kiểm soát lửa. Tân Nhiên, chưởng kỳ sứ của Liệt Hỏa Kỳ, giỏi dùng lửa. Hai người dùng Thánh Hỏa Lệnh làm kìm lửa (vì nhiệt độ cực cao, kim loại thường sẽ tan chảy) để đúc lại đao Đồ Long.

Tuy nhiên, vì Ỷ Thiên kiếm từng được Diệt Tuyệt Sư Thái dùng để giết nhiều người Minh Giáo, họ không muốn đúc lại kiếm. Trương Vô Kỵ thấy nghĩa phụ Tạ Tốn quy y ở Thiếu Lâm, định tặng đao Đồ Long cho Thiếu Lâm, nhưng phương trượng Không Văn từ chối, nói rằng đao do Trương Vô Kỵ lấy được và Minh Giáo đúc lại, nên thuộc về anh. Các mảnh kiếm Ỷ Thiên được trả lại cho phái Nga Mi.

Diễn biến sau này của hai tuyệt thế thần binh

Trong bản sửa mới, không còn cảnh đao kiếm chém nhau. Ỷ Thiên kiếm và Đồ Long đao đều là thần binh sắc bén, nhưng ở phần gần chuôi có một đoạn đúc bằng sắt mềm, có thể dùng thần binh còn lại cắt chậm để lấy mảnh sắt bên trong. Mảnh sắt này khắc bản đồ dẫn đến nơi cất giấu kinh thư. Hóa ra, Quách Tĩnh và Hoàng Dung đã giấu Vũ Mục Di Thư và bí kíp võ công tại một góc đảo Đào Hoa, chờ người kế thừa sau này đến lấy.

Cô gái áo vàng cướp một gói nhỏ từ Chu Chỉ Nhược, giao cho Trương Vô Kỵ. Trương Vô Kỵ tìm thấy vị trí đảo Đào Hoa từ gói đó, lấy lại các mảnh đao kiếm.

Trong Bích Huyết Kiếm, Hạ Tuyết Nghi (Kim Xà Lang Quân) từng có ý định đến Nga Mi cướp bảo kiếm, có thể chính là kiếm Ỷ Thiên năm xưa.

Mỹ Mỹ biên tập
Nguồn: Kanchina

VÌ SAO 90% LÂU ĐÀI CHÂU ÂU KHÔNG CÓ NGƯỜI Ở?

Trên khắp châu Âu, hơn mười nghìn lâu đài vẫn sừng sững giữa núi đồi, rừng thẳm và những dòng sông cổ kính. Từ pháo đài đá cheo leo dựng lên để phòng thủ cách đây hàng thế kỷ đến những cung điện lộng lẫy từng là nơi phô diễn vinh quang của các triều đại, tất cả đều mang một vẻ đẹp đầy mê hoặc.

Vì sao 90% lâu đài châu âu không có người ở?

Thế nhưng, 90% trong số ấy ngày nay hoàn toàn không có người sinh sống. Hành lang dài hun hút chỉ còn tiếng gió rít, nhiều gian phòng đóng bụi hàng chục năm, và giữa sự tráng lệ ấy là một sự thật khiến nhiều người bất ngờ: sống trong một lâu đài cổ thực ra là điều… gần như không ai dám thử.

Lý do đầu tiên nằm ở chính cấu trúc và tình trạng của các công trình này. Một lâu đài tuổi đời năm sáu thế kỷ nghe thì huy hoàng nhưng lại là gánh nặng kinh tế khổng lồ.

Mái ngói rộng hàng trăm mét vuông được lợp bằng đá phiến hoặc gạch nung thủ công, tường đá dày 2–3 mét xây từ hàng chục nghìn khối đá. Hàng trăm ô cửa kính màu vẽ tay, chỉ một ô nhỏ thôi đã có giá 500–1000 euro. Mưa tuyết và gió bão khiến mỗi năm phải thay vài nghìn viên ngói, tốn từ 80.000 đến 120.000 USD.

Thợ sửa mái cũng phải là những người được đào tạo đặc biệt để làm việc trên độ dốc cao gần 70 độ. Nhiều lâu đài còn có hệ thống sưởi bằng củi với ống khói dài hàng chục mét, phải vệ sinh và kiểm tra cháy nổ mỗi năm, tiêu tốn 500–800 triệu đồng. Nếu muốn lắp hệ thống hiện đại, chủ nhân phải đục xuyên tường đá dày 2 mét, chi thêm vài tỷ đồng nữa.

Một căn biệt thự 300 m² ở Hà Nội bảo trì khoảng 50–80 triệu đồng mỗi năm, nhưng một lâu đài thì tiêu tốn gấp 50–100 lần con số ấy. Vì vậy, không khó hiểu khi phần lớn lâu đài bị bỏ hoang: chi phí duy trì cao tới mức ngay cả những người giàu cũng phải cân nhắc.


Tuy nhiên, người châu Âu không để tài sản chết mà biến chúng thành “máy in tiền”.

Họ mở cửa lâu đài như bảo tàng, khách sạn siêu sang, phim trường hay địa điểm tổ chức sự kiện. Lâu đài Alnwick (Anh), nơi quay Harry Potter, đón 1,2 triệu khách mỗi năm, mang về 18 triệu bảng. Château de Bard (Pháp) cho thuê phòng từ 800 đến 2000 euro một đêm, mỗi năm thu về hàng triệu euro. Neuschwanstein (Đức) – biểu tượng trong logo Disney – đón 1,5 triệu khách và thu 22,5 triệu euro mỗi năm.

Theo UNESCO, 40% lâu đài châu Âu đã được chuyển đổi công năng để phục vụ du lịch hoặc thương mại, 25% dùng làm phim trường hay địa điểm cưới, chỉ còn 5% thực sự có người sống. Lâu đài vì thế trở thành nguồn thu khổng lồ, nhưng lại gần như không còn phù hợp để làm nhà ở.

Để hiểu vì sao châu Âu có nhiều lâu đài đến mức thừa thãi, cần nhìn vào hơn một nghìn năm lịch sử phong kiến phân mảnh.

Sau khi đế quốc La Mã sụp đổ, châu Âu bước vào thời kỳ hỗn loạn kéo dài. Từ thế kỷ 9 đến 19, có hơn 1500 lãnh chúa lớn nhỏ, mỗi người đều muốn xây cho mình một pháo đài để bảo vệ lãnh thổ và thể hiện quyền lực.

Một vùng đất chỉ rộng 100 km² cũng có thể có tới 20 – 30 lâu đài. Đức hiện sở hữu khoảng 25.000 lâu đài và pháo đài, Pháp có hơn 40.000 château.

Khi thuốc súng xuất hiện, nhiều pháo đài đá trở nên lỗi thời; đến thời kỳ công nghiệp và cách mạng xã hội, nhiều gia tộc phá sản vì thuế và chiến tranh. Hàng nghìn lâu đài bị bỏ rơi, một số bị quân đội trưng dụng, số khác xuống cấp theo thời gian. Nhiều lâu đài được xây chỉ để khoe mà không có phòng ngủ hay nhà bếp hoàn chỉnh; một số còn chưa từng được sử dụng.


Bên cạnh đó là vô số câu chuyện kỳ lạ xoay quanh những công trình này: lâu đài nhỏ nhất châu Âu chỉ vỏn vẹn 12 m²; lâu đài Chillingham ở Anh nổi tiếng với hơn 50 hồn ma; lâu đài Houska (Séc) được xây mà không có cửa chính vì người ta tin rằng bên dưới là “cổng địa ngục”; lâu đài Predjama (Slovenia) lại được dựng ngay trong hang đá với đường hầm bí mật dài 14 km để trốn quân thù. Tất cả tạo nên một thế giới vừa tráng lệ vừa đầy bí ẩn nhưng hầu như không dành cho cuộc sống hiện đại.

Tóm lại, 90% lâu đài châu Âu không có người ở vì ba nguyên nhân chính: chi phí bảo trì quá lớn, cấu trúc lỗi thời và khó cải tạo, và số lượng công trình vượt xa nhu cầu thực tế do lịch sử phong kiến phân mảnh để lại. Dù không còn người sinh sống, những lâu đài ấy vẫn là chứng nhân của thời đại; nơi lưu giữ quyền lực, tham vọng, bi kịch và cả sự phù hoa của một châu Âu đã xa.

Những tòa lâu đài châu Âu lãng mạn và tráng lệ là vậy, nhưng chúng trở thành biểu tượng của một thời đã qua. Chúng đứng đó như những chứng nhân im lặng; không còn tất bật người ở, nhưng lại chứa đựng cả kho báu ký ức của lịch sử.

Có lẽ, điều khiến chúng đẹp đến thế chính là sự đơn độc ấy: một vẻ đẹp không dành cho cuộc sống hằng ngày, mà dành cho sự chiêm nghiệm, khám phá và trân quý thời gian.

Tú Uyên biên tập
Theo: vandieuhay

THU ĐĂNG TUYÊN THÀNH TẠ DIỄU BẮC LÂU - LÝ BẠCH


Thu đăng Tuyên Thành 
Tạ Diễu bắc lâu

Giang thành như hoạ lý,
Sơn vãn vọng tình không.
Lưỡng thuỷ giáp minh kính,
Song kiều lạc thái hồng.
Nhân yên hàn quất dữu,
Thu sắc lão ngô đồng.
Thuỳ niệm bắc lâu thượng,
Lâm phong hoài Tạ công.

Tạ Diễu bắc lâu tức Tạ Diễu lâu 謝脁樓 hay Tạ công lâu 謝公樓, đời Đường đổi tên thành Điệp Chướng lâu 疊嶂樓, do Tạ Diễu cho xây khi làm thái thú Tuyên Thành. Tạ Diễu 謝眺 (hay Tạ Thiếu, có sách chép là 謝脁, 464-499) là thi nhân cũng là quan thời Tề ở Nam triều. Lầu còn di chỉ trên núi Lăng Dương 陵陽, vì vậy mới có câu.


秋登宣城謝眺北樓

江城如畫裏
山晚望晴空
兩水夾明鏡
雙橋落綵虹
人煙寒橘柚
秋色老梧桐
誰念北樓上
臨風懁謝公


Mùa thu lên phía bắc thành 
Tạ Diễu ở Tuyên Thành
(Dịch thơ: Chi Nguyen)

Giang Thành cảnh đẹp như tranh.
Bóng chiều trên núi, trong lành tầng không.
Nước mưa như tấm gương trong.
Cầu kiều soi bóng, sắc hồng ban mai.
Vườn cam chín đỏ nhà ai.?
Trong làn khói lạnh, thu phai ngô đồng.
Bắc lầu còn mãi ngóng trông.
Ngồi đây hóng gió, Tạ Công nhớ hoài.


Sơ lược tiểu sử tác giả:

Lý Bạch 李白 (701-762) tự Thái Bạch 太白, hiệu Thanh Liên cư sĩ 青蓮居士, sinh ở Tứ Xuyên (làng Thanh Liên, huyện Chương Minh, nay là huyện Miện Dương). Quê ông ở Cam Túc (huyện Thiên Thuỷ - tức Lũng Tây ngày xưa). Lý Bạch xuất thân trong một gia đình thương nhân giàu có. Lúc nhỏ học đạo, múa kiếm, học ca múa, lớn lên thích giang hồ ngao du sơn thuỷ, 25 tuổi “chống kiếm viễn du”, đến núi Nga My ngắm trăng, ngâm thơ rồi xuôi Trường Giang qua hồ Động Đình, lên Sơn Tây, Sơn Đông cùng năm người bạn lên núi Thái Sơn “ẩm tửu hàm ca” (uống rượu ca hát), người đời gọi là Trúc khê lục dật. Sau đó được người bạn tiến cử với Đường Minh Hoàng, ông về kinh đô Trường An ba năm, nhưng nhà vua chỉ dùng ông như một “văn nhân ngự dụng” nên bất mãn, bỏ đi ngao du sơn thuỷ.

Đến Lạc Dương, gặp Đỗ Phủ kết làm bạn vong niên (Đỗ Phủ kém Lý Bạch 11 tuổi). Họ cùng Cao Thích vui chơi, thưởng trăng ngắm hoa, san bắn được nửa năm. Rồi ông lại tiếp tục chia tay Đỗ Phủ viễn du về phương nam. Những năm cuối đời ông ẩn cư ở Lư Sơn. Tương truyền năm 61 tuổi ông đi chơi thuyền trên sông Thái Thạch, tỉnh An Huy, uống say, thấy trăng lung linh đáy nước, nhảy xuống ôm trăng mà chết. Nay còn Tróc nguyệt đài (Đài bắt trăng) ở huyện Đăng Đồ, An Huy, là địa điểm du lịch nổi tiếng. Người đời phong danh hiệu cho ông là Thi tiên, Trích tiên, Tửu trung tiên,...

Nguồn: Thi Viện



NGẠN NGỮ Ả RẬP: TIN VÀO CHÚA, NHƯNG HÃY BUỘC CHẶT CON LẠC ĐÀ CỦA BẠN

“Tin vào Chúa, nhưng hãy buộc chặt con lạc đà của bạn”. Câu ngạn ngữ cổ xưa này gợi lên những suy ngẫm về đức tin và trách nhiệm.

Tin vào Chúa, nhưng hãy buộc chặt con lạc đà của bạn (ảnh minh họa: Epochtimes)

Ngày nay, có lẽ phần lớn chúng ta đều không quá trăn trở với những câu hỏi như thế này. Với nhiều người, dù có đức tin hay không, họ vẫn thường hành động theo cách mà phần đông xã hội vẫn làm và không kỳ vọng rằng có một bàn tay Thần thánh can thiệp vào cuộc sống của họ.

Tuy nhiên, đôi khi đức tin có thể lấn sang ranh giới của sự tắc trách, và việc xác định ranh giới này quả thực là một vấn đề không hề đơn giản.

Đây chính là những vấn đề mà câu ngạn ngữ thực sự muốn đề cập đến.

Câu ngạn ngữ này từ đâu mà có?

“Tin vào Chúa, nhưng hãy buộc chặt con lạc đà của bạn” là câu ngạn ngữ có nguồn gốc từ thời Ả Rập cổ đại. Tuy nhiên, sự thâm thúy trong đó đã giúp câu nói này trở nên phổ biến trong nhiều ngôn ngữ và nhiều nền văn hóa qua nhiều thế hệ.

Con “lạc đà” cần được buộc chặt của bạn là gì? Đó có phải là chiếc xe của bạn? Cơ thể bạn? Hàm răng của bạn? Ngôi nhà hay các mối quan hệ của bạn? Cuối cùng, tất cả mọi thứ đều cần được “buộc chặt” theo một cách nào đó. Nghĩa là cần được chăm sóc, quản lý và bảo vệ. Và chẳng phải điều đó cũng chính là sự tôn trọng đối với những gì Thần đã tạo ra và ban tặng cho chúng ta hay sao?

Câu nói này du nhập vào nước Anh từ lúc nào là điều rất khó xác định. Ghi nhận sớm nhất về một câu tục ngữ tương tự trong văn học Anh là vào năm 1834, trong một bài thơ của William Blacker. Ông ghi lại lời của một chính khách người Anh (khi đó là tướng quân) Oliver Cromwell nói với các binh sĩ của mình:

“Hãy đặt niềm tin vào Chúa, các chàng trai, và giữ thuốc súng của mình khô ráo!”

Câu nói này đôi khi được rút ngắn thành “Hãy tin vào Chúa và giữ thuốc súng khô ráo”, hoặc đơn giản là “Giữ thuốc súng khô ráo” để đảm bảo súng có thể hoạt động hiệu quả.

Cromwell đặc biệt chú trọng tuyển chọn những binh sĩ tin kính Chúa, nhưng đồng thời ông cũng rất nghiêm khắc trong việc kỷ luật và huấn luyện họ. Điều này thể hiện rõ triết lý “Hãy tin vào Chúa, nhưng…”, nhấn mạnh sự cân bằng giữa đức tin và trách nhiệm hành động.

Câu ngạn ngữ xuất hiện từ thời Ả Rập cổ xưa (ảnh minh họa: Pinterest)

Những phiên bản khác của câu ngạn ngữ

Một phiên bản tương tự và có lẽ phổ biến hơn là: “Chúa giúp những ai biết tự giúp mình.” Ý nghĩa của câu nói này là hãy làm phần việc của bạn, chủ động thực hiện nó và bạn sẽ nhận được phần thưởng xứng đáng từ Thần.

Dưới đây là một bài thơ trào phúng của Scotland minh họa cho ý tưởng này:

Hắn là tên trộm khỏe mạnh, gan góc
Hắn tin rằng: “Hẳn chẳng làm gì sai,
Mở rương lục lọi là chuyện thường

Bởi vì lòng tin Chúa, Chúa sẽ giúp

Hắn bước ra đứng trước nơi công đường
Chẳng ngại ngần bào chữa cho điều đó,
Thẩm phán bảo: “Ừ! đúng là sự thật
Anh tự giúp mình giờ hãy đợi Chúa”

Có rất nhiều cách diễn đạt ý tưởng này. John Baret, trong tác phẩm “An Alvearie” năm 1580 đã viết rằng: “Chúa giúp đỡ những ai chăm chỉ trong công việc của mình.”

Giáo sĩ George Herbert, trong tác phẩm “Jacula Prudentum” năm 1640, cũng khuyên rằng: “Hãy tự giúp mình, và Chúa sẽ giúp bạn.”

Tuy nhiên, mãi cho đến năm 1736, khi cuốn “Poor Richard’s Almanack” của Benjamin Franklin ra đời, thì phiên bản hiện đại của câu ngạn ngữ “Chúa giúp những ai biết tự giúp mình” mới được ghi lại.

Những câu chuyện cổ xưa đôi khi cũng nhấn mạnh rằng, sự trợ giúp từ đấng thiêng liêng phụ thuộc vào việc chúng ta sẵn lòng hành động. Truyện ngụ ngôn “Hercules và Người đánh xe” của Aesop (khoảng năm 570 TCN) minh họa rõ ràng cho điều này.

Trong câu chuyện, một người đánh xe thấy chiếc xe của mình mắc kẹt trên con đường lầy lội, thay vì tự mình giải quyết vấn đề, ông lại cầu Hercules vĩ đại giúp đỡ.

Hercules hiện ra và chỉ dẫn ông phải tự mình nỗ lực, dùng vai đẩy bánh xe và thúc đàn bò kéo đi. Với giọng điệu nghiêm khắc, Hercules cảnh báo rằng ông không nên tìm đến sự giúp đỡ nếu chưa tự mình cố gắng hết sức.

Ở châu Âu cũng có những câu tục ngữ tương tự, thể hiện ý nghĩa của việc tự lực cánh sinh thay vì dựa dẫm vào thần linh. Người Pháp nói: “Chúa không bao giờ xây cầu cho chúng ta, nhưng Ngài ban cho chúng ta đôi tay,” còn người Tây Ban Nha nhắc nhở: “Trong khi chờ nước từ trời, đừng quên tiếp tục tưới tiêu.”

Tất cả những phiên bản câu ngạn ngữ này, đều phản ánh một điều: “Chúng ta cần có trách nhiệm với bản thân chứ không phải chỉ cần có đức tin thôi là đủ”.

Bên cạnh đó còn có hàm ý rằng, mọi điều chúng ta làm hay không làm, Thần đều thấy. Điều này có nghĩa là chúng ta “phải xứng đáng nhận được điều đó”. Chúng ta cần làm những việc đúng đắn và sống tốt cuộc đời này, khi những việc làm tốt được ghi nhận, Thần mới trợ giúp và ban cho chúng ta phần thưởng xứng đáng.

Vậy nên, Hãy tin vào Chúa, nhưng đừng quên buộc chặt con lạc đà của bạn. Luôn giữ đức tin và không ngừng hành động, vì cả hai đều nên song hành với nhau, chỉ khi ấy nó mới trở nên đáng quý.

Angelica Reis
Theo: The Epochtimes
Link tiếng Anh:

HÙNG VĨ NHỮNG DÃY ALPS CHÂU Á

Không cần đến châu Âu, bạn cũng có thể tận hưởng kỳ nghỉ tuyệt vời với cảnh quan hùng vĩ và ngoạn mục không kém gì dãy Alps nổi tiếng với những dãy núi nổi tiếng châu Á sau đây.


Những ngọn núi lớn nhất Hàn Quốc

Được biết đến với ngành công nghiệp giải trí hàng đầu châu Á, nét ẩm thực riêng biệt đầy hấp dẫn cùng những khu phố lung linh huyền ảo về đêm, Hàn Quốc còn hấp dẫn hàng triệu du khách mỗi năm ghé thăm với những cảnh thiên nhiên mộng mơ và lãng mạn. Đặc biệt, vào mùa tuyết trắng, khung cảnh trên những ngọn núi cao trở nên quyến rũ hơn bao giờ hết.

Dãy Yeongnam Alps

Dãy Yeongnam Alps nằm ở khu vực đông nam Hàn Quốc, xung quanh vùng Ulsan và Gyeongsang tuy không dài như dãy Alps châu Âu (hầu hết các ngọn núi chỉ cao hơn 1.000 m) nhưng nơi đây lại có nhiều cảnh quan hùng vĩ, đầy mê hoặc với các thác nước, suối nước nóng, đền thờ...

Thung lũng băng Eoreumgol

Tuy nhiên, điểm hấp dẫn dân địa phương cũng như du khách ghé thăm dãy Alps Hàn Quốc này nhất có lẽ là thung lũng băng Eoreumgol. Nằm trên sườn núi Eoreumgol, Eoreumgol được biết đến với khí hậu lạnh lẽo quanh năm.

PyeongChang có nhiều khu nghỉ mát trượt tuyết nổi tiếng

Nằm trên cao trong vùng núi Taebaek ở Gangwon-do, khu vực đông bắc Hàn Quốc, núi PyeongChang nổi danh là xứ sở thần tiên rất riêng của Hàn Quốc với thời tiết lạnh giá. Nơi đây quanh năm nhiệt độ không quá 1oC, có khi thấp hơn. Nằm ở độ cao 700 m so với mực nước biển, PyeongChang được gọi với cái tên “Alps của Hàn Quốc”. Mùa đông khu vực này thường kéo dài vài tháng và có tuyết rơi dày đặc. Điều này đã biến PyeongChang thành điểm đến tuyệt vời cho những người yêu thích bộ môn trượt tuyết. Bạn có thể dễ dàng tìm thấy nhiều khu nghỉ mát trượt tuyết nổi tiếng tại đây, trong đó có thể kể đến Alpensia Ski Resort.

Công viên quốc gia Seoraksan

Đến gần Seoul hơn, bạn sẽ tìm thấy một trong những “Alps ẩn” của Hàn Quốc - Seoraksan National Park. Đây là một trong các công viên quốc gia nổi tiếng nhất xứ sở Kim Chi với cảnh quan núi non sừng sững, các con đường ngoạn mục thu hút hàng triệu du khách mỗi năm, đặc biệt là vào mùa thu để ngắm nhìn khung cảnh Seoraksan đắm mình trong những tán lá chuyển màu đỏ, màu vàng rực rỡ.

Nhật Bản và những dãy núi Alps hùng vĩ

Ở Nhật Bản, không nơi nào có vẻ đẹp lạ thường như dãy Alps trên đảo Honshu. Trong đó, dãy Alps phía bắc hay còn được gọi là dãy núi Hida có địa hình hiểm trở và cảnh núi cao tuyệt đẹp. Nơi đây từ lâu đã nổi tiếng, thu hút không ít du khách trong và ngoài nước, đặc biệt là những người có đam mê trekking. Nếu có dịp đến dãy Hida, bạn có thể ghé thăm một số điểm nổi tiếng như thung lũng Kamikochi; làng Shirakawa và tuyến đường Alpine Tateyama Kurobe - hành lang trượt tuyết nổi tiếng đất nước Mặt Trời Mọc.

Đính Tsubakuro trên dãy núi Hida

Còn điểm đến thu hút nhất tại dãy Alps trung tâm là Kiso - thung lũng cổ kính chạy qua một số thị trấn vùng núi cao ở tỉnh Nagano. Trong thời Edo, các thương nhân đã dùng thung lũng này để giao thương giữa Edo và Kyoto. Do đó, nhiều bưu điện được thành lập trên tuyến đường này, mỗi điểm cách nhau chỉ vài km. Từ đó, trên thung lũng Kiso dần hình thành các thành phố bưu điện mà ngày nay người ta còn bảo tồn để lưu giữ nét đẹp lịch sử của chúng.

Núi Ontake thuộc dãy Kiso

Dãy Apls phía nam được kiến tạo từ dãy núi Akaishi, nơi có hệ sinh thái động thực vật phong phú, nguồn suối nước nóng tự nhiên... Vào mùa đông, nơi đây nhận được nhiều tuyết, vì thế, dân bản địa lẫn du khách tứ phương thường đến dãy Apls phía nam để trượt tuyết. Dãy Akaishi có hơn 35 km dốc, du khách tới đây trượt tuyết được phục vụ bởi hệ thống 27 thang máy đưa lên đỉnh núi. Ngoài ra, nơi đây còn có nhiều khu nghỉ dưỡng trượt tuyết cao nhất tại Nhật Bản, có nơi còn có thể lên đến độ cao 1.900 m!

Dãy núi Akaishi là điểm trượt tuyết được nhiều người yêu thích

Trung Quốc với dãy Alps 13 đỉnh kỳ vĩ

Có nhiều dãy núi hùng vĩ nằm rải rác Trung Quốc, nhưng đẹp nhất thường nằm ở phía tây bắc, ở Tây Tạng hoặc dọc vùng biên giới Nepal. Trong đó, không thể không kể tới dãy núi tuyết Mai Lý ở tỉnh Vân Nam, bao gồm 13 đỉnh núi kỳ vĩ.


Thậm chí, bạn không cần phải đi bộ lên những ngọn núi để tận hưởng vẻ đẹp mê hoặc này. Bạn chỉ cần dậy sớm, chờ mặt trời mọc để ngắm nhìn khung cảnh nắng vàng dần chan qua các ngọn núi đầy quyến rũ. Nếu như bạn muốn ngắm nhìn cận cảnh vẻ đẹp nguy nga, tráng lệ này, bạn có thể đi bộ từ chùa Phi Lai đến thôn Vũ Băng.


Kawagebo là đỉnh cao nhất trong dãy núi tuyết Mai Lý. Tính đến thời điểm này, hiện chưa có ai lên được đến đỉnh của Kawagebo. Tuy nhiên, bạn vẫn có thể chiêm ngưỡng vẻ đẹp hoa lệ của dòng sông băng dưới chân nó. Những dòng sông băng nối dài cùng tuyết phủ đôi bờ đã tạo nên bữa tiệc thiên cảnh mãn nhãn.

Dãy Alps của Việt Nam

Dãy núi Hoàng Liên Sơn còn được nhiều du khách quốc tế gọi là “dãy Apls của Việt Nam”. Mặc dù là một quốc gia Đông Nam Á với khí hậu nhiệt đới ấm áp, miền bắc Việt Nam vẫn có thể rất lạnh vào mùa đông. Vì vậy, không có gì là ngạc nhiên khi “dãy Alps của Việt Nam” này nằm ở thị trấn phía tây bắc của Lào Cai.

Đỉnh Fansipan - nóc nhà Đông Dương

Nằm giữa dãy núi Hoàng Liên Sơn, thị trấn Sa Pa ẩn dưới bóng Fansipan hùng vĩ - đỉnh núi cao nhất Đông Dương. Bên cảnh núi hon tráng lệ, Sa Pa còn nổi tiếng với kiến tạo ruộng bậc thang độc đáo tuyệt đẹp. Vào tháng 9, mùa thu hoạch, Sa Pa rực rỡ trong sắc vàng của lúa chín và sắc xanh của cây rừng. Tất cả tạo nên một khung cảnh thiên nhiên thơ mộng, trữ tình đến nao lòng.

Dãy Alps của Thái Lan với những ngôi đền cổ

Ở phía bắc xứ Chùa Vàng, huyện núi cao Khao Kho, tỉnh Phetchabun, bạn có thể tìm thấy “dãy Alps Thái Lan”. Khao Kho chỉ cách thủ đô Bangkok 1 giờ đi máy bay. Tuy nhiên, bầu không khí 2 bên khác biệt như không cùng một đất nước. Trong khi Bangkok hào nhoáng với những tòa nhà chọc trời hiện đại, những khu trung tâm mua sắm xa hoa và những nhà hàng sang trọng thì Khao Kho lại đẹp giản dị với không gian mênh mông sắc xanh của núi, của trời. Đây sẽ một điểm nghỉ dưỡng tuyệt vời nếu như bạn muốn thoát khỏi cuộc sống đô thị tấp nập.

Du khách săn mây ở Phu Thap Boek

Du khách tới đây thường không thể bỏ qua những chuyến trekking lên đỉnh núi Phu Thap Boek để tận hưởng bầu không khí cùng khung cảnh thiên nhiên tuyệt vời. Cạnh đó, bạn cũng có thể ghé thăm những ngôi làng quanh Khao Kho để ngắm những ngôi đền Thái cổ đẹp như tranh vẽ.

Hương Thảo / Theo: vntravelline.com