Nhập ngã tương tư môn,
Tri ngã tương tư khổ.
入我相思門,
知我相思苦。
Trường tương tư hề trường tương tư,
Trường tương tư hề vô tận cực.
Lương Ý Nương
Đời Hậu Chu, thời Ngũ Quý (905-955), ở tỉnh Hồ Nam vùng sông Tiêu Tương có nàng Ý Nương, con gái của Lương công. Nàng có sắc đẹp lại hay chữ.Ở trọ nhà có chàng Lý Sinh, một hàn sĩ mỹ mạo tuấn tú.
Nhân một đêm Trung Thu, Ý Nương thưởng trăng bỗng gặp Lý Sinh. Trai tài gái sắc gặp nhau, trao đổi tâm tình. Từ đó cả hai thường tìm cách lui tới.
Lương công biết được, tức giận đuổi Lý Sinh đi. Ý Nương lấy làm đau đớn, từ đó sinh ra bịnh tương tư triền miên, mới làm bài khúc “Trường tương tư ” mượn giòng Tương Giang để chỉ nổi niềm thương nhớ, nguồn tâm sự cho người yêu biết.
Lại có dị bản :
Sông Tương là Tương Giang thuộc địa phận huyện Ninh Lăng tỉnh Hồ Nam , Trung Quốc. Trong văn chương và âm nhạc, sông Tương là một điển cố, xuất phát từ 2 truyện khác nhau:
1. Theo truyền thuyết dân gian Trung quốc , khi vua Thuấn mất, hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh thương tiếc không nguôi, hết vật vã thảm thiết trong cung, lại ra bờ sông Tương khóc than đêm ngày. Hai bà mất được dân chúng lập đền thờ bên bờ sông Tương gọi là Tương Phi. Nước mắt hai bà nhỏ xuống bờ trúc, làm cho trúc ở đây nổi lên những đường vân đẹp như mây sóng ẩn hiện. Người đời sau thường tìm đến bờ sông Tương mua loại trúc này về làm mành. Nước mắt của cuộc tình vắn số đã nhỏ xuống để tạo nên những đường vân tản mạc, nên mành tương là một tượng trưng cho một số phận đoạn nỗi. Trúc Tiêu Tương không những làm mành đẹp mà sáo trúc Tương giang cũng mang một âm thanh có sức truyền cảm lạ lùng.
2. Môt bài thơ tình tuyệt diệu nhan đề là Trường Tương tư do một nữ sĩ có tên là Lương Ý Nương viết. Bài thơ này nói lên tình yêu thiết tha của một đôi nam nữ, phải sống xa nhau. Chàng là nho sĩ Lý Sinh; nàng là thôn nữ Lương Ý Nương. Đôi trẻ yêu nhau tha thiết đã nặng lời hẹn ước. Sau khoa thi sẽ làm hôn lễ; nàng quay tơ dệt vải đợi chờ; đêm đêm nàng cũng chịu khó chong đèn, chịu khó rèn chút chữ nghĩa để có văn thơ với người yêu. Nhưng rồi giặc giã nổi lên khắp nước, thân trai phải xếp bút nghiên lên đường theo nghiệp đao binh. Chén rượu ngày hợp cẩn xin là chén ly bôi bên bờ sông Tương.
1. Theo truyền thuyết dân gian Trung quốc , khi vua Thuấn mất, hai bà phi là Nga Hoàng và Nữ Anh thương tiếc không nguôi, hết vật vã thảm thiết trong cung, lại ra bờ sông Tương khóc than đêm ngày. Hai bà mất được dân chúng lập đền thờ bên bờ sông Tương gọi là Tương Phi. Nước mắt hai bà nhỏ xuống bờ trúc, làm cho trúc ở đây nổi lên những đường vân đẹp như mây sóng ẩn hiện. Người đời sau thường tìm đến bờ sông Tương mua loại trúc này về làm mành. Nước mắt của cuộc tình vắn số đã nhỏ xuống để tạo nên những đường vân tản mạc, nên mành tương là một tượng trưng cho một số phận đoạn nỗi. Trúc Tiêu Tương không những làm mành đẹp mà sáo trúc Tương giang cũng mang một âm thanh có sức truyền cảm lạ lùng.
2. Môt bài thơ tình tuyệt diệu nhan đề là Trường Tương tư do một nữ sĩ có tên là Lương Ý Nương viết. Bài thơ này nói lên tình yêu thiết tha của một đôi nam nữ, phải sống xa nhau. Chàng là nho sĩ Lý Sinh; nàng là thôn nữ Lương Ý Nương. Đôi trẻ yêu nhau tha thiết đã nặng lời hẹn ước. Sau khoa thi sẽ làm hôn lễ; nàng quay tơ dệt vải đợi chờ; đêm đêm nàng cũng chịu khó chong đèn, chịu khó rèn chút chữ nghĩa để có văn thơ với người yêu. Nhưng rồi giặc giã nổi lên khắp nước, thân trai phải xếp bút nghiên lên đường theo nghiệp đao binh. Chén rượu ngày hợp cẩn xin là chén ly bôi bên bờ sông Tương.
落花落葉落紛紛,
盡日思君不見君。
腸欲斷兮腸欲斷,
淚珠痕上更添痕。
我有一寸心,
無人共我說。
願風吹散雲,
訴與天邊月。
攜琴上高樓,
樓高月花滿。
相思未必終,
淚滴琴玄斷。
人道湘江深,
未抵相思畔。
江深終有底,
相思無邊岸。
我在湘江頭,
君在湘江尾。
相思不相見,
同飲湘江水。
夢魂飛不到,
所欠唯一死。
入我相思門,
知我相思苦。
長相思兮長相思,
長相思兮無盡極。
早知如此罫人心,
迴不當初莫相識
Phiên Âm
Lạc hoa lạc diệp lạc phân phân,
Tận nhật tư quân bất kiến quân.
Trường dục đoạn hề trường dục đoạn,
Lệ châu ngân thượng cánh thiêm ngân.
Ngã hữu nhất thốn tâm,
Vô nhân cộng ngã thuyết.
Nguyện phong xuy tán vân,
Tố dữ thiên biên nguyệt.
Huề cầm thượng cao lâu,
Lâu cao nguyệt hoa mãn.
Tương tư vị tất chung,
Lệ trích cầm huyền đoạn.
Nhân đạo Tương giang thâm,
Vị để tương tư bạn.
Giang thâm chung hữu để,
Tương tư vô biên ngạn.
Thiếp tại Tương giang đầu,
Quân tại Tương giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương giang thuỷ.
Mộng hồn phi bất đáo,
Sở khiếm duy nhất tử.
Nhập ngã tương tư môn,
Tri ngã tương tư khổ.
Trường tương tư hề, trường tương tư,
Trương tương tư hề, vô tận cực.
Tảo tri như thử quải nhân tâm,
Hồi bất đương sơ mạc tương thức.
Trong bài có những câu rất lâm ly ai oán:
Nhân đạo Tương Giang thâm,
Vị để tương tư bán.
Giang thâm chung hữu để;
Tương tư vô biên ngạn.
Quân tại Tương Giang đầu,
Thiếp tại Tương Giang vĩ.
Tương tư bất tương kiến,
Đồng ẩm Tương Giang thủỵ
Mộng hồn phi bất đáo,
Sở khiếm duy nhất tử.
Nhập ngã tương tư môn,
Tri ngã tương tư khổ!
Dịch Nghĩa
Người ta bảo sông Tương rất sâu,
Nhưng chưa bằng nguồn tương tư
Sông sâu còn có đáy,
Tương tư không bờ bến.
Chàng ở đầu sông Tương,
Thiếp ở cuối sông Tương.
Tương tư không gặp mặt,
Cùng uống nước sông Tương.
Hồn mơ bay chẳng tới
Chỉ thiếu một điều chết.
Ta vào cửa tương tư,
Mới biết tương tư đau khổ!
Một số bản dịch:
Hoa rơi lá rụng tơi bời
Mặt hoa xa cách tháng ngày nhớ thương
Nhớ ai bao nỗi đoạn trường
Nhớ ai suối lệ sầu thương tuôn dòng
Đầy vơi riêng một tấc lòng
Biết đem tâm sự ngỏ cùng ai hay
Mong cho gió thổi mây bay
Cùng trăng xin gửi muôn lời nhớ thương
Lầu cao dạo phím đàn cầm
Trăng soi hoa tỏ đầy vườn mãi khai
Tương tư chưa dứt một bài
Lệ rơi chan chứa ngưng dây đàn chùng
Tiếng rằng sâu nhất sông Tương
Làm sao sánh với niềm thương gửi người
Sông sâu có đáy người ơi
Lòng ta thương bạn trùng khơi vô bờ
Sông Tương thương nhớ ngẩn ngơ
Hai đầu sông luống mong chờ gặp nhau
Nhớ thương mà chẳng thấy đâu
Xin cùng uống nước sông sâu nhớ người
Mộng hồn bay chẳng tới nơi
Xin lìa xác để tới nơi gặp người
Tương tư ngơ ngẩn bồi hồi
Biết yêu là khổ, tình người vương mang
Nhớ thương thương nhớ mien man
Nhớ thương vô hạn muôn vàn nhớ thương
Hay đâu bể khổ tình trường
Thà xưa đừng gặp đừng thương nhớ người
Hoa hoa lá lá rụng bời bời
Không thấy chàng ngày nhớ chẳng nguôi.
Gan ruột xót xa dường muối xát
Lệ rưng chưa đọng đã tuôn ơi.
Mình ta một tấc lòng
Không ai cùng để ngỏ
Gió cuốn mấy tầng không
Với trăng ta bày tỏ.
Ôm dàn lên lầu cao
Lầu cao tràn ánh nguyệt
Chưa dứt khúc tương tư
Lệ nhỏ đàn dây đứt.
Người ta bảo Tương sâu
Chưa bằng tương tư đâu
Sông sâu còn có đáy
Tương tư lại không bờ
Chàng ở đầu sông Tương
Thiếp ở cuối sông Tương
Nhớ nhau mà không thấy
Cùng uống nước sông Tương.
Mộng buồn bay chẳng đến
Chỉ chết mới gặp nhau
Tương tư ta khổ đau
Có tương tư mới biết.
Tương tư, tương tư, ôi tương tư!
Tương tư dằng dặc, ôi vô tận!
Sớm biết yêu thương lòng mang hận
Thà buổi ban sơ cứ hững hờ.
Nguyễn Đôn